Trích dẫn Nguyên văn bởi Allbutnothing Xem Bài Gởi
Hồi hướng và cầu siêu là 2 câu chuyện khác nhau. Bản thân việc hồi hướng cần có những điều kiện nhất định để thành tựu từ phía kẻ hồi hướng, phương pháp hồi hướng và kẻ nhận hồi hướng.
Có thể tìm hiểu về việc hồi hướng này qua cuốn "Tìm hiểu phước bố thí" của Tỳ khưu Hộ Pháp. Trích đoạn như sau:
Khi bạn hồi hướng là để cầu siêu cầu nguyện cho thân nhân của bạn giải thoát. Vì vậy bạn nói là 2 câu chuyện khác nhau là không chính xác!

Như vậy bạn đã chấp nhận rằng, khi hồi hướng phước đức thì cũng thành tựu từ phía bên người được hồi hướng, có nghĩa là đồng quan điểm với 123456789 rằng Nghiệp Ai Nấy Lãnh Không Thể Cứu Chữa hay cục đá quăng xuống sông không thể hồi hướng hay cầu để trồi lên chỉ là Phương Tiện.

Bây giờ sẽ bàn về việc lợi ích của việc tụng kinh cầu siêu, như trên bạn đã thấy truyện vua hồi hướng phước đức để cầu siêu bằng cách bố thí cho ngạ quỷ để thoát khỏi cái khổ ngạ quỷ là sự thật. Mà phước đức thì không chỉ giới hạn ở việc chỉ bố thí, mà còn có thể nhiều việc khác như tụng kinh... như vậy nếu như một người tụng Kinh hồi hướng cho những người đã khuất đó thì vẫn sẽ nhận được lợi ích, mà lợi ích còn lớn lao hơn gắp nhiều lần nữa, vì tụng Kinh công đức + và phước đức vô lượng, nên người đã khuất đó sẽ càng nhận được lợi ích lớn hơn nữa đúng không. Và khi người đã khuất chịu khổ xem thấy người trên trần gian vì mình mà tụng Kinh người đó sẽ hoan hỷ, và khi hoan hỷ thì cũng sẽ thoát khỏi khổ đau. Như vậy thì nghi thức tụng Kinh của Phật Giáo Đại Thừa không những lợi ích giúp người đã khuất được thoát khỏi khổ đau bởi phước đức, mà còn có công đức thể giúp người đã khuất được gieo duyên lành giải thoát nữa, vì Bố Thí chỉ là phước đức hữu lậu, nhưng tụng Kinh Pháp là có vừa phước đức hữu lậu và công đức vô lậu nữa. Sau đây mời bạn xem trong Kinh Tiểu Bộ II Phẩm 5, Truyện Lâu Ðài Tiên Nhái (Mandukadevaputta-Vimàna), nhờ nghe Kinh mà thoát được thân thú được sanh làm Chư Thiên như sau:

Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại Campà (Chiêm-bà) trên bờ ao sen Gaggarà. Từ rạng đông, vừa xuất định Ðại bi, Ngài quán sát: 'Hôm nay về buổi chiều lúc Ta thuyết pháp, một con nhái nghe giọng Ta và mải mê theo dõi, liền bị một kẻ nào đó sát hại, sẽ phải chết. Nó sẽ được tái sanh lên thiên giới và sẽ trở lại trong khi hội chúng đang chăm chú nghe, do vậy sẽ có sự thông hiểu Giáo pháp rộng rãi'.

Khi mọi việc trong ngày xong xuôi, Ngài bắt đầu thuyết giảng cho tứ chúng đệ tử tại bờ ao. Lúc ấy một con nhái suy nghĩ: 'Ðây được gọi là pháp', nó liền ra khỏi ao và ngồi ở cuối đám thính chúng.

Một kẻ chăn bò thấy bậc Ðạo Sư thuyết giảng và hội chúng đang yên lặng lắng nghe, bèn đứng dựa vào cây gậy cong và đạp nhằm con nhái. Con nhái được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần và được một đám tiên nữ hầu cận.

Khi suy nghĩ lại nghiệp nào đã khiến cho mình được tái sanh ở đó, vị Thiên tử thấy không có gì ngoài sự chăm chú nghe lời đức Thế Tôn.

Ngay lập tức chàng cùng Lâu đài ấy giáng trần, bước ra ngoài vừa thấy đức Thế Tôn, liền đến yết kiến và cung kính đảnh lễ Ngài. Ðức Thế Tôn muốn thị hiện oai nghi của Ngài bèn hỏi kệ:

1. Chàng Thiên tử sắc đẹp siêu phàm,
Tiên chúng vây quanh đủ lực thần,
Ðang chiếu khắp mười phương sáng chói,
Là ai, chàng đảnh lễ ta chăng?

Vị Thiên tử bèn ngâm kệ giải thích tiền thân của chàng:

2. Con là một nhái bén ngày xưa,
Loài vật sinh ra ở nước hồ,
Trong lúc con nghe Ngài thuyết pháp,
Bỗng con chết bởi chú chăn bò.

3. Ai muốn trong chốc lát tịnh tâm,
Hãy nhìn uy lực đủ thần thông,
Oai nghi, dung sắc, đoàn hầu cận,
Và ánh hào quang của chính con.

4. Những vị chuyên nghe pháp đã lâu,
Bạch Cồ-đàm Phật, đấng ly sầu,
Những người ấy đạt tâm không động,
Ði đến nơi không có khổ đau.

Sau đó đức Thế Tôn, nhìn thấy rõ các khả năng mà hội chúng ấy đã đạt được, bèn thuyết pháp đầy đủ chi tiết. Vào lúc Ngài kết thúc bài giảng, chàng Thiên tử nhái đã được an trú vào quả Dự Lưu. Sau khi cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, chàng trở về cõi trời.


Như vậy ta đã thấy tuy mang thân súc sinh, nhưng vì nghe pháp nên vị thiên tử nhái đó nhờ Phước Đức đó vãng sanh về cõi trời ba mươi ba với đầy đủ quang minh, oai lực, lâu đài... của Chư Thiên. Và vì pháp có cả thêm Công Đức nữa, nên vị thiên tử nhái đó mới có duyên lành tiếp tục nghe pháp và chứng đắc quả Dự Lưu, vì vậy trong vòng 7 đời trở lại nữa sẽ đắc quả A La Hán và chấp dứt khổ đau trong luân hồi sinh tử.

Đó chỉ là lúc Đức Phật mới nói pháp Tiểu Thừa để đạt quả vị giải thoát A La Hán mà đã được lợi ích công đức như vậy rồi, huống chi là giáo pháp lớn Đại Thừa để đi đến con đường quả vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác? Như vậy nếu một người tụng Kinh để hồi hướng cầu siêu cho người đã khuất, thì chắc chắn người đó sẽ thấy biết và hoan hỷ. Trong những sự việc từ xưa đến nay, có một số người nằm mộng thấy người thân trở về nhờ tụng kinh hồi hướng siêu độ vì bị khổ sở bởi nghiệp lực trong đường ác, và biết bao nhiêu người đã làm, và đã mộng thấy thân tướng của những người thân trước được giải thoát. Do đây nên biết chắc rằng khi làm các việc phước đức hay công đức để hồi hướng cầu siêu thì chắc chắn người đã khuất sẽ được thoát khỏi khổ đau, và lý do tại sao được thoát khỏi khổ đau.

Nam Mô A Di Đà Phật