Trang 5 trong 18 Đầu tiênĐầu tiên 123456789101115 ... Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 81 tới 100 trên 352

Ðề tài: CHÁNH PHẬT PHÁP LUẬN BÀN

  1. #81

    Mặc định

    Tây Phương Cực Lạc không có thật, niệm Phật không thể thành Phật

    Theo TS.TT Thích Nhật Từ, niệm Phật giải thoát là không có thật. Giải thoát theo đức Phật trong các kinh, phải thực tập đầy đủ và trọn vẹn Bát Chánh Đạo và đây là con đường duy nhất, không có con đường thứ hai.
    “Niệm Phật chỉ là một dữ liệu rất nhỏ để chúng ta đạt được chánh niệm. Như chúng tôi đã nói nhiều lần, thời đức Phật là nhớ đến Phật và nhớ đến 10 đức hiệu của 1 đức Phật chung, khác hoàn toàn với việc niệm danh hiệu đức Phật riêng. Dầu là đức Phật chung hay đức Phật riêng, việc niệm Phật không thể tăng trưởng các phước báu như đã được Trung Quốc hứa hẹn”, TT Nhật Từ nói.
    "Niệm Phật chỉ đạt được tỉnh tâm, tỉnh tâm là phần đầu của chánh niệm để chúng ta đi sâu vào trong thiền định, cho nên niệm Phật như thế là rất tốt nhưng đừng kỳ vọng niệm Phật giải thoát vì điều đó sẽ rơi vào tình trạng cầu bất đắc khổ do mê tín đị đoan.
    Niệm Phật thành Phật lại càng không thể được. Trong 10 đức hiệu, đức Phật nào cũng có đức hiệu "Minh Hạnh Túc". "Minh" là từ tương đương của trí tuệ, "Hạnh" là kết quả của đời sống đạo đức và phước báu, nếu ai chưa tu đầy đủ 6 Ba La Mật, bắt đầu từ phước báu có "Bố Thí" kết thúc ở "Trí Tuệ" siêu tuyệt thì người đó chưa đầy đủ được căn lành lớn và công đức lớn cho nên không thể nào thành được thánh A La Hán huống hồ là Phật. Cho nên, niệm Phật chỉ thành được chánh niệm thôi".
    Trả lời câu hỏi niệm Phật có vãng sinh Cực Lạc Tây Phương được hay không, TT Thích Nhật Từ nói, câu trả lời, nếu đúng với lịch sử và dựa vào bài kinh thứ 18, Kinh Trường Bộ làkhông.
    Niệm Phật hoàn toàn không được Phật A Di Đà rước vì các đức Phật không thể làm ngoài Nhân Quả.
    "Tây Phương Cực Lạc không có thật, Tây Phương Cực Lạc chỉ là một pháp nhử để cho quần chúng do thích về phước báu vãng sinh, không thích phước báu khổ đau ở kiếp hiện tại này.
    Thực tập được căn lành lớn, công đức lớn, nhân duyên tốt lớn, pháp âm lớn và nhiếp tâm bất loạn lớn mới là yếu tố xây dựng cực lạc hiện tiền. Cực lạc trong nhà, cực lạc ở công sở, cực lạc trong xã hội. Triết lý cực lạc đó rất sâu sắc và cốt lỏi của Kinh Di Đà nhắm đến là triết lý này chứ không phải Cực Lạc Tây Phương", TT nói.
    TT Thích Nhật Từ cũng khẳng định, niệm Phật hoàn toàn không được Phật A Di Đà rước vì các đức Phật không thể làm ngoài Nhân Quả được. Nếu không hội đủ 5 tiêu chí vừa nêu mà Phật A Di Đà rước thì Phật thuộc về ô dù bao che, mà luật pháp thế giới người ta rất nghiêm cấm về lợi ích nhóm như thế này.
    "Toàn bộ kết quả đạt được của việc Niệm Phật là chánh niệm. Muốn chánh niệm được nhanh thì đồng lúc ta phải thực hiện được chánh kiến, chánh tư duy để có trí tuệ, không mê tín dị đoan; chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn để có đời sống đạo đức cao quý. Nếu thiếu 7 yếu tố này, chúng ta rất khó kỳ vọng".
    Nói về việc hộ niệm để người chết được vãng sinh, TT Thích Nhật Từ giải thích, hộ niệm là các hoạt động trợ giúp về tâm lý phải chú ý vào phân tích các nỗi khổ niềm đau. Hộ niệm pháp kinh tốt hơn việc hộ niệm bằng cách niệm Phật vì kinh thuộc về trí tuệ. Khi ta biết chọn lựa bài kinh phù hợp với người đang bị bệnh ta sẽ giúp cho họ rất nhiều vấn đề, khai sáng được tâm.
    "Thời Đức Phật, hộ niệm là thuyết pháp. Nội dung bài thuyết pháp khi hộ niệm chủ yếu là kinh Vô Ngã tướng. Đó là bài pháp trị liệu tâm lý rất đặc sắc mà Đức Phật đã dạy.
    Các tăng sĩ làm hộ niệm không phải vì cầu vãng sinh mà bày tỏ tấm lòng của mình với người thân. Quá trình sống của một người sẽ quyết định việc tái sinh của người đó, không lệ thuộc vào ban hộ niệm", TT nhấn mạnh.
    Nguồn: http://www.daophatgoc.com/2016/11/ta...-niem.html?m=0
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  2. #82

    Mặc định Tìm Hiểu Pháp Môn Niệm Phật trong Phật giáo Nguyên Thuy. Tác giả: Hộ Pháp

    Tất cả Phật tử chúng con có được duyên lành niệm Ân Ðức Phật là do nhờ các bậc Thầy Tổ tiền bối, nhất là Ngài sư Tổ Hộ Tông, có công đem Phật giáo Nam Tông Theravàda về truyền bá ở quê hương thân yêu.
    Tất cả chúng con thành kính tri ân.
    Lời Tái Bản Lần Thứ Nhất
    Chúng con thật vô cùng hoan hỉ được biết quyển "Tìm hiểu Pháp Môn Niệm Phật" đã hết rồi! Có một số Phật tử gởi thư đến thỉnh sách tại Tổ Ðình Bửu Long, còn có số khác tự mình đích thân đến thỉnh quyển sách này.
    Thật rất tiếc! Tổ Ðình Bửu Long chưa đáp ứng được nhu cầu của quý vị, đã làm mất thì giờ quý báu, rất mong quý vị thông cảm.
    Ðiều không ngờ, với một số lượng sách nhiều như vậy, mà chỉ trong thời gian ngắn đã thỉnh hết rất nhanh. Ðiều đó chứng tỏ rằng: "Phần đông Phật tử đã ưa thích món quà pháp này". Thật đáng vui mừng!
    Nhân dịp này, chúng con xin báo cho chư thí chủ trước đã ấn tống quyển sách này rằng: "Món quà pháp, món ăn tinh thần, của quý vị đã được phần đông bậc thiện trí thưởng thức hết rồi, không phí hoài chút nào cả. Chắc chắn phước thiện pháp thí của chư thí chủ tăng trưởng theo thời gian và không gian trong kiếp hiện tại và vô lượng kiếp vị lai.
    Ðể đáp ứng nhu cầu của chư thiện trí chúng con đến trình Àcariya Hộ Pháp xin phép được tái bản; Àcariya rất hoan hỷ đồng ý cho tái bản quyển sách này. Như vậy, thỉnh nguyện của chúng con được thành tựu. thay mặt chư thí chủ chúng con xin được tỏ lòng biết ơn.
    Thay mặt chư thí chủ
    Dhammanandà Upasikà
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  3. #83

    Mặc định LỜI GIỚI THIỆU

    Ðọc tập sách hướng dẫn "Pháp Môn Niệm Phật" của sư Hộ Pháp, tôi vô cùng hoan hỉ, vì đó là pháp môn mà tôi vẫn thường hành trong quá trình tu tập của mình.
    Thật tình mà nói, lúc đầu thực hành pháp môn niệm Phật tôi hơi có mặc cảm. Lý do là mặc dù cố gắng hành thiền Vipassanà nhưng tôi chỉ hành được vào những lúc thích hợp chứ không thể hành liên tục trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Tôi nghĩ có lẽ tâm mình còn thiếu định lực nên thỉnh thoảng tôi dùng một đề mục thiền định để cố gắng định tâm, cũng có một vài kết quả khiêm tốn đáng mừng nhưng tôi vẫn chưa đi sâu vào thế giới tâm Ðại Hành một cách kiên cố được. Vậy là tôi quay qua thử nghiệm pháp môn niệm Phật để có thể nhiếp tâm bất cứ lúc nào. Tuy nhiên tôi vẫn ít nhiều có cảm tưởng là pháp hành của mình càng ngày càng đi xuống!
    Lúc đầu tôi niệm Phật trong tâm chứ không dùng tràng hạt vì nghĩ rằng việc gì mình lại phải lệ thuộc vào một xâu chuỗi. Về sau, mấy lần qua Miến Ðiện, Thái Lan tôi ngạc nhiên khi thấy nhiều vị Cao Tăng, nhiều vị Thiền Sư nổi tiếng ở những trung tâm thiền Vipassanà tại các xứ Phật giáo hưng thịnh này vẫn thường sử dụng tràng hạt. Cảm động nhất là mỗi tối, mỗi sáng khi đến các ngôi bảo tháp như Shwedagon, Kyaikhỉiyo... tôi đều thấy chư Tăng và Phật tử tụ họp đông đảo trong không khí tĩnh tại tu hành: người niệm kinh, người ngồi thiền, người lễ bái và có khá nhiều vị ngồi lần tràng hạt với nét mặt hết sức thành kính, trang nghiêm và thanh thoát. Thế là tôi về thử lần chuỗi xem sao thì thấy phương tiện này quả là thiện xảo, nó giúp chúng ta tiến đến "thân tâm nhất như" một cách dễ dàng, nhờ thân và tâm khéo điều hợp với nhau một cách nhịp nhàng, đồng điệu.
    Ðiều kiện cơ bản của thiền Vipassanà là "thân tâm nhất như" nghĩa là chánh niệm tính giác phải trọn vẹn trên thân - thọ - tâm - pháp, không hai, không khác tức là không thất niệm, phân tâm, dị tưởng. Ðể được điều kiện đó thì không gì bằng pháp môn niệm Phật. Khi tâm đã được định tĩnh trong sáng thì việc hành Vipassanà trở nên dễ dàng tự nhiên không cần khẩn trương cố gắng nữa. Nếu chúng ta cố gắng quá sức để hành Vipassanà với mong cầu đạt đến tuệ này tuệ khác thì coi chừng bị ảo tưởng của chính mình đánh lừa mà cứ tưởng là đã thấy được thật tánh của pháp. Tinh tấn chưa tới hoặc quá mức thì chánh niệm thường bị dị tưởng xen vào thay vì tính giác. Nếu đó là tạp tưởng thì chẳng thể nào nắm bắt được đối tượng thật tánh, còn nếu đó là sắc tưởng thì dễ lầm ấn chứng của thiền định là tuệ này tuệ kia, biến thiền tuệ thành sở đắc rồi sinh ra ngã mạn, tà kiến, tai hại không sao lường được, vì chưa tới mà tưởng đã hành xong.
    Cũng có một loại tưởng khác khá nguy hiểm phát xuất từ kiến thức có trước về pháp hành Vipassanà. Ðem tưởng tri có trước này để đi tìm thật tánh thì chỉ thấy bản sao kiến thức của mình chứ không thể nào phát sinh trí tuệ Vipassanà như chân như thật được.
    Sở dĩ hành giả bị đánh lừa như vậy là vì chưa đủ cơ bản tâm để vào được thiền Vipassanà, lúc bấy giờ pháp môn niệm Phật sẽ giúp hành giả chuẩn bị đầy đủ hành trang đi vào thật tánh.
    Nhờ pháp môn niệm Phật tôi mới có đủ trầm tĩnh để biết mình đã sai lầm khi nghĩ rằng phải hành Vipassanà liên tục mới là hành rốt ráo. Ðồng thời tôi không còn mặc cảm khi biết rằng các vị Thiền Sư danh tiếng vẫn tùy nghi tùy lúc sử dụng pháp môn niệm Phật, niệm tâm từ, niệm sự chết, niệm bất tịnh... xen kẽ vào pháp hành Vipassanà như tôi đã tự mình tùy cơ ứng biến.
    Chúng ta có thể dự một hai khóa thiền ở một trung tâm thiền định hoặc thiền Vipassanà trong một thời gian nhất định nào đó, nhưng không thể cứ áp dụng bài bản như vậy trong suốt cả đời mình. Mục đích thiền Vipassanà là để thấy tánh (thật tánh pháp) bằng trí tuệ, nhưng trong đời sống hằng ngày chúng ta còn phải đối đầu với biết bao nhiêu khê của thế giới tục đế (sammutisacca). Do đó, ngoài Vipassanà Ðức Phật còn dạy rất nhiều pháp môn khác để chúng ta có thể tùy cơ ứng xử.
    Ðiều quan trọng là phải biết mình - biết căn cơ trình độ của mình - để thể hiện một pháp môn đúng chỗ đúng thời. Còn thấy tánh là để giúp chúng ta không bị rơi vào các tướng chế định của thế gian hay ứng hiện từ tưởng tri nội tại, nhờ đó chúng ta thoát khỏi cái lưới thủ, hoặc, triền... của vô minh, tà kiến.
    Tóm lại, phương tiện nào vừa hợp với chánh pháp vừa hợp với trình độ của chúng sinh, có thể trợ duyên hay đưa đến mục đích giác ngộ giải thoát đều là phương tiện thiện xảo, lợi lạc quần sinh.
    Sư Hộ Pháp đã từng du học Thái Lan, Miến Ðiện gần 29 năm, đã học được những điều hay lẽ đẹp từ các nước thủ phủ của Phật Giáo Nam Tông này đem về đóng góp vào việc xây dựng Phật Giáo Nam Tông Việt Nam, vốn còn non trẻ trên đất nước chúng ta.
    Pháp Môn Niệm Phật là một trong những đóng góp thiết thực mà tôi mong rằng sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho chư Tăng, Phật tử trên đường tu học và hoằng dương chánh pháp.
    Tổ Ðình Bửu Long, mùa an cư 2545
    Tỳ kheo Viên Minh
    (Trụ trì Tổ Ðình Bửu Long)
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  4. #84

    Mặc định

    Pháp môn niệm Phật chính là pháp hành niệm Ân Ðức Phật, là một trong 4 đề mục cơ bản.
    Niệm Ân Ðức Phật là niệm Ân Ðức của Ðức Phật (không phải niệm đến danh hiệu Ðức Phật Gotama).
    Ân Ðức Phật vô cùng vi tế, sâu sắc, rộng lớn, vô lượng vô biên, không sao kể xiết. Tuy vậy, trong kinh Dhajaggasutta Ðức Phật dạy:
    "Itipi so Bhagavà Araham, Sammàsambuddho, Vijjàcaranasampanno, Sugato, Lokavidù, Anuttaro purisadammasàrathi, Satthàdevamanussànam, Buddho, Bhagavà".
    Gồm có 9 Ân Ðức Phật, mỗi Ân Ðức Phật có nhiều ý nghĩa vi tế, sâu sắc, rộng lớn, vô lượng vô biên... để hiểu rõ ý nghĩa không phải là việc dễ dàng, song hành giả chỉ cần ghi nhớ những ý nghĩa thiết yếu để tạo cho mình một đức tin trong sạch nơi Ðức Phật.
    Pháp hành niệm Ân Ðức Phật không chỉ là đề mục thiền định có khả năng chứng đạt đến cận định, mà còn có thể làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và Niết Bàn nữa. Như Ðức Phật dạy:
    "Này chư Tỳ khưu, pháp hành tuỳ niệm Ân Ðức Phật mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp - sắc pháp này, để tận diệt tâm tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền não; để phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn". (Anguttaranikàya, phần Ekadhamma -vagga.)
    Người Phật tử, là bậc Xuất gia tu sĩ, cũng như các hàng tại gia cư sĩ, ai cũng có đức tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, nghĩa là có đức tin nơi Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng, để làm cho đức tin càng tăng trưởng, làm cho đại thiện tâm càng trong sạch, trí tuệ càng sáng suốt, phước thiện càng dồi dào thì nên tiến hành niệm Ân Ðức Phật.
    Trong tập sách nhỏ này, bần sư cố gắng trình bày nhiều phương cách niệm Ân Ðức Phật, song có phương pháp đặc biệt niệm 9 Ân Ðức Phật bằng xâu chuỗi 108 hột rất kỳ diệu, hy vọng sẽ phổ thông cho mọi tầng lớp, nhất là đối với những người thường hay phóng tâm, chuyện này chuyện kia; những người có nhiều công lắm việc, lo nghĩ, tâm bất an; những học sinh, sinh viên học nhiều môn, tâm không an trú, trí không sáng suốt, học khó nhớ dễ quên,... Những trường hợp trên, phương pháp niệm 9 Ân Ðức Phật bằng xâu chuỗi 108 hột này, chắc chắn sẽ giúp cho quý vị tâm chóng ổn định an tịnh tự nhiên, làm cho phát sanh trí tuệ sáng suốt, chắc chắn đem lại những kết quả đáng hài lòng.
    Như vậy, ban đầu xin quý vị cố gắng học tập phương pháp niệm 9 Ân Ðức Phật bằng tiếng Pàli, lời giáo huấn nguyên thủy từ kim ngôn của Ðức Phật, không thể thay thế một thứ tiếng nào khác, làm mất đi tính chất nguyên bản, không còn thiêng liêng, giảm hết oai lực của Ân Ðức Phật. Bởi vì, Phật giáo là lời giáo huấn của Ðức Phật chỉ bằng tiếng Pàli, là một thứ tiếng phổ thông của chư Phật, chư thiên, phạm thiên cả thảy, còn mọi thứ tiếng khác như tiếng Việt, tiếng Anh,... chỉ dùng để hiểu rõ ý nghĩa lời giáo huấn của Ðức Phật mà thôi.
    Hành giả tiến hành niệm Ân Ðức Phật bằng tiếng Pàli chắc chắn có oai lực phi thường, đem lại cho mình một đức tin vững chắc nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, là nơi nương nhờ cao thượng cho mình.
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  5. #85

    Mặc định

    A Di Đà Phật, mình hiểu ý của phapchieumt rồi!

    Thật hoan hỉ thay
    Last edited by Giga; 14-07-2017 at 02:00 PM.

  6. #86

    Mặc định Pháp môn niệm Phật

    Pháp môn niệm Phật chính là niệm Ân Ðức Phật.
    Niệm Ân Ðức Phật là một trong 10 đề mục tuỳ niệm (Anussati), cũng là 1 trong 40 đề mục thiền định.
    Niệm Ân Ðức Phật, Ðức Phật thuyết dạy trong bài kinh Dhajaggasutta (Samyuttanikàya, phần Sagàthàvagga) có đoạn:
    "Sace tumhàkam bhikkhave arannagatànam và rukkhamùlagatànam và sunnàgàragatànam và uppajjeyya bhayam và chambhitattam và lomahamso và mameva tasmim samaye anussareyyàtha".
    "Itipi so Bhagavà Araham... Bhagavà' ti...
    Này chư Tỳ khưu, nếu sự kinh hãi, sự run sợ, sự rùng mình rởn tóc gáy phát sanh lên đối với các con ở nơi thanh vắng, dưới cội cây, trong rừng sâu. Khi ấy các con chỉ nên niệm tưởng đến 9 Ân Ðức của Như Lai rằng:
    "Itipi so Bhagavà Araham, Sammàsambuddho, Vijjàcaranasampanno, Sugato, Lokavidù, Anuttaro purisadammasàrathi, Satthàdevamanussànam, Buddho, Bhagavà".
    Này chư Tỳ khưu, do nhờ niệm tưởng Ân Ðức Phật, sự kinh hãi, sự run sợ, sự rùng mình rởn tóc gáy nào phát sanh, thì điều ấy bị tiêu diệt.
    Hoặc nếu các con không niệm tưởng đến 9 ân đức của Như Lai, thì các con niệm tưởng đến 6 Ân Ðức Pháp rằng:
    "Svàkkhàto Bhagavatà dhammo, Sanditthiko, Akàliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattam veditabbo vinnùhi".
    Này chư Tỳ khưu, do nhờ niệm tưởng Ân Ðức Pháp, sự kinh hãi, sự run sợ, sự rùng mình rởn tóc gáy nào phát sanh, thì điều ấy bị tiêu diệt.
    Hoặc nếu các con không niệm tưởng đến 6 Ân Ðức Pháp của Như Lai, thì các con niệm tưởng đến 9 Ân Ðức Tăng rằng:
    "Suppatipanno Bhagavato sàvakasamgho.
    Ujuppatipanno Bhagavato sàvakasamgho.
    Nàyappatipanno Bhagavato sàvakasamgho.
    Sàmìcippatipanno Bhagavato sàvakasamgho.
    Yadidam cattàri purisayugàni attha purisa-puggalà. Esa Bhagavato sàvakasamgho.
    Àhuneyyo, Pàhuneyyo, Dakkhineyyo, Anjali-karanìyo, Anuttaram punnakkhettam lokassa".
    Này chư Tỳ khưu, do nhờ niệm tưởng Ân Ðức Tăng, sự kinh hãi, sự run sợ, sự rùng mình rởn tóc gáy nào phát sanh, thì điều ấy bị tiêu diệt".
    Theo bài kinh này, niệm 9 Ân Ðức Phật hoặc 6 Ân Ðức Pháp hoặc 9 Ân Ðức Tăng đều có kết quả là tiêu diệt mọi điều kinh sợ đã phát sanh, và ngăn được mọi điều kinh sợ không thể phát sanh.
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  7. #87

    Mặc định

    Những người bên Phật Giáo Tiểu Thừa sở dĩ họ chỉ chấp nhận Nikaya lý do là vì trong Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Tụng Phẩm 3 có nói rằng:

    "Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần."
    Những pháp trên là 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa. Tuy trên nhiên thật tế, thì ngoài 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa ra, Đức Phật còn thuyết nhiều pháp môn khác nữa. Mà trong đó một số những pháp môn đó là thuyết riêng cho Chư Bồ Tát cầu Trí Tuệ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật Toàn Giác, đó là những pháp như Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, Niệm Phật Tam Muội... được nói trong Kinh Điển Đại Thừa. Và cũng vì lý do đó nên các pháp mà Chư Hiền Thánh A La Hán chứng đắc giải thoát và Chư Phật Chánh Đẳng Giác chứng đắc giải thoát là khác nhau. Vì nếu như Đức Phật chỉ thuyết duy nhất 37 Phẩm Trợ Đạo, thì các vị A La Hán cũng sẽ có trí tuệ để biết Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát như Chư Phật Thế Tôn vậy. Nhưng ngay cả bậc thượng thủ Thanh Văn A La Hán là ngài Xá Lợi Phất cũng không thể biết được Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát của Chư Phật là như thế nào, vì vậy lẽ dĩ nhiên là ngoài 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa ra, nhất định còn phải có các Pháp Đại Thừa dành cho Chư Bồ Tát, Những Người Có Căn Cơn Đại Thừa để được trí tuệ Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát như Chư Phật Thế Tôn vậy.

    Sau đây là một đoạn Kinh văn trong Kinh Tự Hoan Hỷ số 28 của Trường Bộ Kinh.

    Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong quá khứ, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

    - Bạch Thế Tôn, không!

    - Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong tương lai, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

    - Bạch Thế Tôn, không!

    - Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong hiện tại Ta là vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

    - Bạch Thế Tôn, không!

    - Này Sàriputta, hãy xem! Ngươi không có trí tuệ biết được tâm tư của chư vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở quá khứ, ở hiện tại và ở tương lai!
    Đức Phật hoàn toàn có nói về Mười Phương Chư Phật trong Kinh Điển Tiểu Thừa Nikaya. Bằng chứng là trong Kinh Tương Ưng Bộ, Chương 56: Tương Ưng Sự Thật, III: Phẩm Kotigāma, 24. A-La-Hán như sau:
    Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

    - Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời quá khứ, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy đã như thật chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.
    - Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời vị lai, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy sẽ chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.
    - Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời hiện tại, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy hiện đang chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế. Thế nào là bốn?

    1. Thánh đế về Khổ
    2. Thánh đế về Khổ tập
    3. Thánh đế về Khổ diệt
    4. Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt

    - Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời quá khứ, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy đã như thật chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.
    - Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời vị lai, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy sẽ chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.
    - Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời hiện tại, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy hiện đang chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.

    Do vậy, này các Tỷ-kheo:
    Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ"
    Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Đây là Khổ Tập"
    Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Đây là Khổ Diệt"
    Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Con Ðường đưa đến Khổ diệt".
    Xem đoạn Kinh trên chúng đã thấy rất rõ ràng Đức Phật nói về những bậc Chánh Đẳng Giác trong thời hiện tại chính là Chư Phật đang hiện diện khắp mười phương, vì mỗi một thế giới có một bậc Chánh Đẳng Giác ở đời, và ở đây chúng ta hãy xem kỹ đoạn Kinh bên dưới Đức Phật nói trong một thế giới chứ không nói là chỉ trong thế giới (tức là riêng thế giới này), vì vậy ngoài một thế giới ra còn có nhiều thế giới khác nữa vì hư không vô biên nên thế giới cũng vô số, và những thế giới đó được nói rõ trong Kinh Điển Đại Thừa. Kinh Tăng Chi Bộ Kinh tập I, trang 37 chép rằng:
    "Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có được trong một thế giới có hai vị A la hán Chánh đẳng giác, không trước không sau, xuất hiện một lần. Sự kiện này không xảy ra. Và sự kiên này có xảy ra, này các Tỳ-kheo. Trong một thế giới, chỉ có một vị A la hán Chánh đẳng giác, xuất hiện, sự kiện này có xảy ra".
    Đức Phật đã thuyết 84,000 pháp môn khác nhau tùy theo căn cơ mỗi người mà thực hành để được sự giải thoát. Và dĩ nhiên 84,000 pháp môn khác nhau đồng nghĩa với việc có tới 84,000 con đường khác nhau để dẫn đến sự giải thoát. Trong Kinh Tiểu Thừa Nikaya, Tiểu Bộ Trưởng Lão Tăng Kệ, Chương Mười Bảy - Phẩm Ba Mươi Kệ, Số 260 Ananda như sau:

    Một hôm Moggallàna người chăn bò, hỏi ngài (Ananda) lời dạy của đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão (Ananda) trả lời:

    1025. Ta nhận từ đức Phật,
    Tám mươi hai ngàn pháp,
    Còn nhận từ Tỷ-kheo,
    Thêm hai ngàn pháp nữa,
    Tổng cộng tám tư ngàn,
    Là pháp ta chuyển vận.
    BẰNG CHỨNG để xác nhận một cách chắc chắn rằng 84,000 pháp môn khác nhau chứ không phải chỉ trùng lập đi lập lại trong 37 Phẩm Trợ Đạo là trong Trường Bộ Kinh, 26. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống có ghi chép rõ ràng như sau:
    Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya sẽ ra đời, là vị A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn; như Ta nay sanh ra ở đời này, là bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mình biết, chứng, và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời, loài Người; như Ta hiện nay tự mình biết, chứng và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời và loài Người. Vị này sẽ thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; như Ta hiện nay thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hành hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn; như Ta hiện nay có khoảng vài trăm vị Tỷ kheo Tăng đoàn vậy.

    Này các Tỷ kheo, vua Sankha sẽ cho thiết lập cung điện mà vua Mahà Panada đã thiết lập. Sau khi thiết lập, vua trú tại đó. Sau vua lại bố thí cung điện ấy, dâng cúng cho các vị Sa môn, Bà-la-môn, các hàng bần cùng, du đãng, ăn xin, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình dưới sự chỉ đạo của Thế Tôn Metteyya, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Vị này xuất gia như vậy, sống một mình, biệt lập, tinh tấn, TRÌ CHÚ, chuyên tâm, chẳng bao lâu chứng được vô thượng phạm hạnh, mà vì mục đích này các thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Với vô thượng phạm hạnh này, ngay trong hiện tại, vị này tự tu, tự chứng, đạt đến và an trú.
    Pháp môn Trì Chú là Mật Tông của bên Phật Giáo Đại Thừa. Trong Tam Tạng Pali Nikaya Tiểu Thừa không có dạy tới phương pháp, nhưng lại có nhắc đến, và thực hành Trì Chú vẫn chứng được vô thượng phạm hạnh. Như vậy thì 84,000 pháp môn được xác quyết một cách chắc chắn rằng là 84,000 con đường khác nhau để dẫn đến giải thoát là Sự Thật! Và muốn biết phương pháp Trì Chú như thế nào để được giải thoát thì hãy xem nơi các Kinh Điển Đại Thừa, Đức Phật đã dạy rất rõ ràng rồi.

    Nguyên bản Pali (câu 1029) về phần ngài Ananda đã nhận được 84,000 pháp môn như sau:

    Dvāsītiṃ buddhato gaṇhiṃ dve sahassāni bhikkhuto, caturāsītisahassāni ye me dhammā pavattino.

    Và đã được Tỳ Khưu Indacanda dịch như sau:

    Tôi đã tiếp nhận tám mươi hai ngàn từ đức Phật, hai ngàn từ vị tỳ khưu, tám mươi bốn ngàn Pháp (uẩn) này là có sự vận hành.

    Rõ ràng uẩn đã được thầy Indacanda mở hoặc thêm vào còn bản Pali chính thống chỉ có chữ dhammā (Pháp Môn hay Giáo Pháp) chứ hoàn không có chữ Dhammakhandha pháp uẩn gì ở đây hết. Vào đây để tải nguyên bản về xem: http://tamtangpaliviet.net/VHoc/31a/Thag_234-241.pdf

    Ngoài ra trong thời pháp đầu tiên khi Đức Phật thuyết pháp Tiểu Thừa để dần dần tế độ chúng sanh, lúc bây giờ ngài Xá Lợi Phất đã chứng đắc giải thoát và là bậc thượng thủ Thanh Văn cũng đã khen ngợi Đức Phật nói pháp ngày càng cao thượng và thâm thúy hơn, thì làm sao mà Đức Phật chỉ thuyết vòng vòng các pháp như Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên.... được, vì khi nào chứng Tứ Diệu Đế thì mới đắc được quả vị A La Hán, mà ngài Xá Lợi Phất đã chứng đắc A La Hán và là bậc thượng thủ rồi, thì Đức Phật mỗi ngày lại vẫn còn thuyết pháp cao thượng hơn pháp trước, vậy pháp đó là pháp gì? dĩ nhiên là Giáo Pháp Đại Thừa rồi. Trong Kinh Tự Hoan Hỷ ngài Xá Lợi Phất nói như sau:
    “Và nay ở đây, con một thời yết kiến Thế Tôn để nghe pháp. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu. Bạch Thế Tôn, nhờ Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu như vậy, nên trong sự thâm hiểu Chánh pháp, một pháp được con thâm hiểu trọn vẹn, đó là lòng tin của con vào vị Bổn Sư - Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng và chúng Tăng đã khéo hành trì.”
    Còn nữa, một số những người bên Tiểu Thừa phỉ báng nói là Phật Giáo Đại Thừa giống Bà La Môn ngoại đạo này nọ..., nhưng hãy xem trong Kinh Pháp Cú Phẩm Bà La Môn kệ 402 của Phật Giáo Tiểu Thừa, Đức Phật đã nói chính những người đã được Giải Thoát thì cũng được gọi là Bà La Môn. Vậy chẳng lẽ nói rằng Phật Giáo Tiểu Thừa cũng giống Ba La Môn sao? Tại sao đi chấp hình tướng bê ngoài làm gì. Cái quan trọng là sự GIẢI THOÁT của Phật Giáo và Ngoại Đạo để tận diệt luân hồi khổ đau là khác nhau. Vì vậy xin làm ơn hãy từ bỏ ngay cái lời nói thô bỉ phỉ báng đem Phật Giáo chân chính Đại Thừa lại đi so sánh với ngoại đạo đấy đi.
    402. "Ai tự trên đời này,
    Giác khổ, diệt trừ khổ,
    Bỏ gánh nặng, giải thoát,
    Ta gọi Bà-la-môn.
    Phật Giáo chúng ta đều dựa trên nền tảng nhân quả, biết bao nhiêu người Trì Chú Đại Bi, Niệm Phật Bồ Tát, Đọc Tụng Thánh Điển Đại Thừa... theo truyền thống Phật Giáo Đại Thừa, đã nhận được biết bao nhiêu sự mầu nhiệm linh ứng như tai qua nạn khỏi, bệnh nặng được lành, người qua đời thì lưu lại xá lợi lấp lánh như Chư Hiền Thánh hoặc hiện tượng như còn sống hồng hào tốt... và nhiều vô lượng những điều tốt lành khác. Nếu Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chân chính thì những người đó không thể nhận được những sự màu nhiệm linh ứng được, tại vì đã phạm phải tội Tà Kiến rất nặng, xuyên tạc phỉ báng Như Lai tạo điều vô phước và đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người, và đại vọng ngữ khi đọc những Kinh không đúng chánh pháp. Như trong Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp có ghi chép:
    Phẩm Phi Pháp (2)

    33-42 Phi Pháp

    33. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi pháp là pháp, sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.

    34. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ pháp là phi pháp, sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.

    35-42. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi luật là luật,... nêu rõ luật là phi luật,... Như Lai không nói lên, tuyên bố là Như Lai có nói lên, không tuyên bố là Như Lai không nói lên, ... Như Lai có nói lên, tuyên bố là Như Lai không nói lên, không tuyên bố là Như Lai có nói lên, ... Như Lai không thực hành, tuyên bố là Như Lai có thực hành,... Như Lai thực hành, tuyên bố là Như Lai không thực hành,... Như Lai không chế đặt, tuyên bố là Như Lai có chế đặt... Như Lai có chế đặt, tuyên bố là Như Lai không chế đặt... Sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.
    Nhưng vì Phật Giáo Đại Thừa là Giáo Pháp Chân Chính do chính Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên thuyết, nên đã biết bao nhiêu người nhận được biết bao nhiêu sự lợi lạc linh ứng không thể nghĩ bàn, được Chư Thiên Long Bát Bộ giữ gìn, cho nên những ai tu theo Phật Giáo Đại Thừa là đi theo con đường chân chính của Đức Phật và tạo phước đức đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Như trong Kinh Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp cũng ghi chép:
    1-10 Phi Pháp

    1. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi pháp là phi pháp, các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.

    2. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ nêu rõ pháp là pháp, các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.

    3-10. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi luật là phi luật... luật là luật... Như Lai không nói lên, tuyên bố là Như Lai không nói lên, ... Như Lai có nói lên, tuyên bố là Như Lai có nói lên, ... Như Lai không thực hành, tuyên bố là Như Lai không thực hành, ... Như Lai có thực hành, tuyên bố là Như Lai có thực hành, ... Như Lai không chế đặt, tuyên bố là Như Lai không chế đặt, ... Như Lai có chế đặt, tuyên bố là Như Lai có chế đặt...Các vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.
    Nghi vấn tiếp theo "Phải chăng có phải là ác ma thiên thị hiện những điều linh ứng đó để phá hoại?"

    Trả lời: Hoàn toàn sai lầm, cảnh giới của Phật Giáo Đại Thừa là nói về những điều Chư Phật Bồ Tát, Hiền Thánh với đầy đủ tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và Bồ Đề Tâm lợi ích cho tất cả mọi loài chúng sanh, là theo truyền thống của Chư Phật Chánh Đẳng Giác. Khác hẳn với cảnh giới của Ác Ma Thiên vốn Tham Lam, Ích Kỷ, Dục Lạc và không muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, như khi xưa Ác Ma Thiên đã cản trở không cho Phật Thành Đạo, và khi Phật Thành Đạo rồi lại thỉnh mau vào Niết Bàn. Hơn nữa Ác Ma Thiên không thể thị hiện những điềm linh ứng đó được, vì Ác Ma Thiên chỉ ở tầng trời Dục Giới, nhưng còn rất nhiều Chư Thiên Hộ Pháp cao hơn Ác Ma Thiên ở tầng trời Sắc Giới như Phạm Thiên Sahampati... đã khuyến thỉnh Phật vì lợi ích cho chúng sanh mà thuyết pháp. Những Phạm Thiên Hộ Pháp ở tầng trời Sắc Giới có tuổi thọ dài lâu và sức mạnh hơn hẳn Ác Ma Thiên, các vị ấy đã từ bỏ tham dục và đang thọ hưởng hạnh phúc của thiền-na và đã vượt khỏi cảnh giới thống trị Dục Giới của Ác Ma Thiên. Lại có Tịnh Cư Thiên, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Đây là cảnh giới tuyệt đối riêng biệt của các vị Bất lai (A-na-hàm, Anāgāmi) cũng hộ trì Phật Pháp nên một mình Ác Ma Thiên làm sao mà có đủ quyền năng thể thị hiện những điều trái nhân quả và trái chánh pháp được?

    Hơn nữa nếu Ác Ma Thiên thật sự đủ quyền năng diệt Phật Pháp, thì đã biến hóa cho các Kinh Sách ngoại đạo thần thông hơn Kinh Phật để chúng sanh tin theo mà mất hết huệ nhãn rồi, cớ chi Ác Ma lại tạo thêm Phật Giáo mới (lại bao gồm giáo lý Phật Giáo Cũ) và hiện linh ứng làm gì để chúng sanh tin theo Phật Pháp để gieo duyên lành giải thoát khỏi cảnh giới của Ác Ma? Với lại nếu Ác Ma Thiên đủ quyền năng như vậy thì có thể làm cho các Kinh Sách Phật Giáo biến mất hết từ lâu xưa rồi. Và Ác Ma đã có thể biến hóa những người làm nhiều việc ác khi chết để lại được những tướng lành và xá lợi hay làm việc ác mà được quả báo tốt đẹp rồi rồi. Nhưng Ác Ma Thiên hoàn toàn không đủ khả năng để biến hóa những điều trái nhân quả và trái ngược chánh pháp được, vì còn có Chân Lý Nhân Quả và Chư Thiên Hộ Pháp Cao Hơn nữa. Trong sử Cao Tăng Truyện đã được chứng kiến bởi những người thời đó, và chuyện viết về vua quan thì không thể giỡn chơi được, khi Phật Giáo mới truyền đến Trung Quốc được ghi chép lại như sau:
    SA MÔN NHIẾP MA ÐẰNG, TRÚC PHÁP LAN đến LẠC DƯƠNG

    Các ông Thái Âm... đến nước Nguyệt Chi, một lãnh thổ gần Thiên Trúc, gặp hai Phạm tăng là Ma Ðằng và Pháp Lan muốn dâng kinh tượng đến nước Trung Hoa, bèn cùng trở về phương Ðông. Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười (67 TL) đến Lạc Dương. Ma Ðằng vào triều hiến kinh tượng. Vua rất vui truyền đến ở Hồng Lô Tự, Pháp Lan đi đến sau.

    Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn (Kỷ Tỵ) vua xuống chiếu ở ngoài cửa Tây Ung lập riêng một chùa, mời hai ngài đến ở. Vì Bạch Mã chở kinh đến nên đặt tên chùa là Bạch Mã. Vua đến chùa hỏi Ma Ðằng:

    - Sau khi Phật ra đời vì sao không giáo hóa đến đây?

    Ma Ðằng đáp:

    - Nước Ca tỳ la vệ ở Ấn Ðộ, ba đời chư Phật trong tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức nhật nguyệt đều ở đây xuất hiện. Thiên thần rồng quỷ có nguyện lực đều sanh ở đó nhận sự giáo hóa, ngộ đạo. Chỗ khác Phật tuy không đến, nhưng ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Một ngàn năm trăm năm đều có thánh nhân truyền lời dạy của Phật đến để giáo hóa.

    Vua rất vui. Hai ngài hỏi tiếp:

    - Phía Ðông chùa có quán gì?

    Vua đáp:

    - Xưa có đống đất tự nhiên nổi lên, dẹp đi lại nổi, đêm có ánh sáng lạ, dân gọi là mộ Thánh. Do đó thờ, nghi là thần Lạc Dương.

    Ma Ðằng nói:

    - Theo Kim Tạng ở Thiên Trúc ghi. Vua A Dục chôn Xá lợi Phật khắp thiên hạ tới 84,000 chỗ. Nay ở Trung Hoa có mười chín chỗ, đây là một.

    Vua thất kinh liền đến lễ bái. Chợt có một vầng ánh sáng tròn hiện trên mộ, ba thân hiện trong ánh sáng. Thị vệ hô “Vạn tuế!”. Vua mừng nói:

    - Nếu không gặp hai đại sĩ, đâu biết được Di hựu của Thượng Thánh.

    Rồi xuống chiếu xây tháp lên trên theo cách thức của hai ngài. Tháp hoàn thành có chín tầng, cao hai trăm thước. Năm sau ánh sáng lại hiện, có cánh tay sắc vàng lộ trên đỉnh tháp ca thước như trong lưu ly thấy hương trời. Vua lại đến chiêm bái. Ánh sáng theo bước chân xoay vòng, từ ngọ đến giờ thân (3 giờ chiều) mới diệt.

    Vua đối với Phật pháp rất kính tín. Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn (71 TL), đạo sĩ Ngũ Nhạc là Trữ Thiện Tín, Phí Thúc Tài... đố kỵ, bài xích nói:

    - Phật pháp hư ngụy.

    Ma Ðằng, Pháp Lan tâu vua:

    - Pháp xuất thế của Phật, nước lửa chẳng thể hoại. Xin vua cho cùng đạo sĩ thí nghiệm.

    Vua sắc Thiện Tín... đem hết kỳ kinh, bí quyết sẵn có cùng sa môn đem kinh Phạn vào ngày rằmg tháng Giêng, lập đàn đốt để nghiệm. Các kinh của đạo sĩ đều bị đốt sạch, chỉ có kinh tượng Phật vẫn còn nguyên. Bọn Thiện Tín xấu hổ chết. Bao nhiêu đạo sĩ đều đê đầu khâm phục. Ngài Pháp Lan ở trong đại chúng xướng kệ:

    Chồn chẳng phải sư tử
    Ðèn chẳng phải sáng trời trăng
    Ao không có sức chứa của sông biển
    Gò chẳng tươi tốt như núi rừng
    Mưa pháp rưới thế giới
    Giống lành được nứt mầm
    Hiển thông pháp hy hữu
    Nơi nơi giáo hóa quần sanh.

    (Hổ phi sư tử loại
    Ðăng phi nhật nguyệt minh
    Trì phi giang hải nạp
    Khưu vô sơn nham vinh
    Pháp vân thùy thế giới
    Thiện chủng đắc khai manh
    Hiển thông hi hữu pháp
    Xứ xứ hóa quần sanh).

    Vua càng thêm kinh dị. Hai tăng học chữ Tàu, sau dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thập Ðịa Ðoạn Kết, Phật Bổn Sanh, Pháp hải Tạng, Phật Bổn Hạnh ... năm kinh.

    Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười sáu (73 TL) Nhiếp Ma Ðằng nhập diệt. Trúc Pháp Lan tự dịch năm bộ kinh mười ba quyển.
    Nghi Vấn Tiếp Theo: Đức Phật A Di Đà và cõi Tây Phương Cực Lạc nói trong Kinh Điển Đại Thừa không có sự chứng minh trong lịch sử khoa học làm sao mà tin đây?

    Trả Lời: Vậy tại sao lại đi tin những điều được nói trong Kinh Điển Tiểu Thừa như cõi trời Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới... Chư Thiên, Đế Thích, Phạm Thiên Sahampati.... (những điều mà phàm phu không thấy) chúng cũng không có sự chứng minh trong lịch sử khoa học đó? Hơn nữa những người được vãng sanh lưu lại xá lợi vật chứng và nhận được sự mầu nhiệm từ Phật Giáo Đại Thừa từ ngàn xưa cho tới tận hôm nay bây giờ đã khuyến hóa biết bao nhiêu người trở về với Chánh Pháp Đại Thừa chân thật của Phật. Và điều này đã được bàn qua nay trích lại thêm một lần nữa tại đây.
    THẾ GIỚI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC LÀ CHÂN THẬT



    Kinh A Di Đà Đức Phật dạy rằng: "Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó."

    Hòa Thượng Thích Thiền Tâm khai thị rằng;

    Người muốn học Phật không nên đem trí phàm phu mà suy lường cảnh thánh. Đừng nói đâu xa, ngay ở Việt Nam ta, khi cụ Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp trở về thuật lại, nói bên ấy đèn không đốt mà cháy, xe thuyền không ngựa kéo người bơi mà tự chạy. Cụ có vịnh hai câu thi:

    Bá ban xảo kế tề thiên địa.
    Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền!

    Hai câu này ngụ ý khen người Pháp trăm việc hay khéo sánh bằng trời đất, duy có sự sống chết là còn thuộc quyền tạo hóa định đoạt mà thôi! Vua Tự Đức và triều thần nghe nói thế đều không tin. Đến như ông Nguyễn Tri Phương là chỗ bạn thân, cũng mĩm cười cho là cụ Phan đi xa về nói khoác. Thử hỏi: - Vua Tự Đức cùng triều thần đều tự nhận mình là người học thức, cho sự việc đó tai không nghe, mắt không thấy, vượt quá sức tưởng tượng, nên không tin. Nhưng các điều ấy quả thật không có chăng? Lấy một việc nhỏ này suy ra, ta thấy nếu đem những định kiến theo tai nghe mắt thấy và sự tưởng nghĩ phàm thường mà đo lường cảnh thánh đều thành sai lạc.

    Hơn nữa, nếu không có Phật A Di Đà tiếp dẫn, tại sao nhiều người niệm Phật khi sắp chết biết trước ngày giờ, thấy các cảnh tướng Tây Phương, cùng Phật, Bồ Tát hiện thân đón rước? Nếu cõi Cực Lạc là hư huyền, tại sao có những vị tu Tịnh Độ trong lúc hiện tiền bỗng được tâm khai thấy rõ ràng cảnh Tây Phương trang nghiêm y như lời Phật nói? Đệ tử của Phật hay người muốn học Phật mà không lấy lời Phật dạy trong kinh làm mực thước, thử hỏi còn lấy chi để làm chỗ tựa nương? Cho nên do theo cách suy lường dựa theo lời Phật nói và SỰ HIỆN CHỨNG CỦA NHỮNG NGƯỜI TU, ta phải tin rằng những sự trang nghiêm ở Cực Lạc đều có thật.
    Còn nhiều điều mà cái trí tuệ của chúng ta chưa biết hết được, nên 123456789 xin nhắc lại những bạn phỉ báng Phật Giáo Đại Thừa, cái tội lỗi đi chia rẽ toàn thể Phật Giáo là rất nhiều, có thể nói gần giống na ná như là Phá Hòa Hợp Tăng vậy, mà cái tội Phá Hòa Hợp Tăng là phải đọa địa ngục trọn kiếp. Như trong Kinh Tiểu Bộ, Kinh Phật Thuyết Như Vậy (Như Thị Ngữ), Chương Một, Phẩm 2 ghi chép như sau:

    (XVIII) (Ek II, 8) (It. 10)

    Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

    Này các Tỷ-kheo, có một pháp khởi lên ở đời, khi khởi lên đem lại bất hạnh cho nhiều người, đem lại bất lợi cho nhiều người, đem lại không lợi ích cho nhiều người, đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người.

    Thế nào là một pháp? Phá hòa hợp Tăng. Này các Tỷ-kheo, khi chúng Tăng bị phá hoại, thì có những tranh luận với nhau, có những mắng nhiếc lẫn nhau, có những ngăn cách lẫn nhau, có những từ bỏ lẫn nhau. Ở tại đấy, những người không hòa hợp, không đi đến hòa hợp và những người có hòa hợp, sự nhất trí đi đến nơi khác.

    Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

    Bị rơi vào đọa xứ,
    Bị rơi vào địa ngục,
    Trú đến trọn cả kiếp,
    Người phá hòa hợp Tăng.
    Ưa thích phá hòa hợp,
    An trú trên phi pháp,
    Rơi rớt, vượt ra khỏi.
    An ổn khỏi khổ ách;
    Kẻ phá sự hòa hợp,
    Của Tăng chúng hòa hợp,
    Bị nung nấu trọn kiếp,
    Trong cảnh giới địa ngục.

    Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
    Lời Sau Cùng: Trong Tam Tạng Kinh Luật Luận Pali của Phật Giáo Tiểu Thừa hoàn toàn không có một lời của Đức Phật hay Hiền Thánh A La Hán nào phỉ báng Đại Thừa, chính những người đời sau này đã tự bịa ra theo tri kiến cá nhân và phỉ báng nói Đại Thừa nói không phải là Phật Pháp. Vì vậy nên một khi đã quyết định theo Phật Giáo và trở thành Phật Tử thì hãy quyết lòng nghe theo Phật, không nghe theo người. Trên đường tu hành, gặp bất cứ một người nào, dù chức phận, địa vị, danh tiếng cao tới đâu, những điều họ nói ra không có trong Kinh Phật, quyết không được nghe theo. Những lý luận hay ho, những triết lý cao siêu, những sự thuyết giảng bóng bẩy... nhưng chỉ dựa theo tri kiến cá nhân, không y cứ vào kinh điển, không nên tham đắm chấp vào.

    Thời mạt pháp, thế gian nhiễu loạn, thường phát sinh những sự cám dỗ khá lòe loẹt... nhất là những tà kiến sai lầm có sức thu hút rất lớn, khiến mọi người dễ tin theo. Vì vậy phải hết sức cẩn thận, không nên hiếu kỳ nhiều. Đức Phật dạy trong Kinh Điển như thế nào thì ta cứ đặt trọn vẹn tất cả niềm tin y theo đó mà thực hành không nghi ngờ thì chắc chắn sẽ được lợi ích lớn chân thật.

    Tà kiến sai lầm hiện nay đầy dẫy rất nhiều, phải chủ tâm luôn đề phòng cảnh giác, nếu không thì chúng ta sẽ rất dễ vướng vào cái bẫy vòng tay của ma vương, lúc đó ân hận không còn kịp nữa.

    Hãy luôn ghi khắc trong tâm nhớ hai câu này, thì may ra có thể tránh khỏi được những tà thuyết hiện nay.

    "Y Pháp Bất Y Nhân" (Y Theo Pháp, Không Y Theo Người)
    "Ly Kinh Nhất Tự, Tức Đồng Ma Thuyết" (Lìa Kinh Một Chữ, Tức Là Ma Nói)

    Ngài Thích Thiền Tâm, Thánh Tăng cận đại cũng từng nói "Pháp Đại Thừa, đã là đại pháp tất nói nhiều cảnh giới siêu việt khác thường, nên có những điều mà trí huệ phàm phu không thể suy lường nổi. Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn nói Kinh Pháp Hoa, có năm ngàn bậc Đại Đức Thanh Văn, đã chứng từ sơ quả Tu Đà Hoàn đến đệ tứ quả A La Hán, không tin tưởng lui ra khỏi Pháp tịch. Đối với cảnh chính đức Phật còn tại thế thân nói pháp, với các vị Thanh Văn thánh giả trí huệ đã siêu thường, mà còn có sự không tin, thì ta thấy pháp Đại Thừa chẳng phải dễ tin hiểu. Cho nên trong kinh Đại Thừa, có nhiều chỗ đức Phật bảo đừng nói cho kẻ nhiều kiến chấp, thiếu lòng tin nghe, vì e họ sinh lòng khinh báng mà mang tội. Đến khi Đại Thừa pháp được lan truyền rộng, các vị cổ đức khuyên người học Phật khi nghiên cứu về loại kinh này, chỗ nào dùng trí huệ hiểu được cố nhiên là tốt, chỗ nào suy gẫm không thấu triệt vẫn đặt trọn vẹn niềm tin nơi lời của đức Thế Tôn. Như thế mới tránh khỏi tội lỗi khinh báng đại pháp, và không mất phần lợi ích."

    Và sau đây mình xin trích lại lý do tại sao phải Kính Tin Kinh Điển Đại Thừa:
    Thứ nhất, từ xưa đến này những ai trì tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa được rất nhiều sự linh ứng, bản thân mình cũng đã cảm nhận được sự nhiệm màu này. Bạn có thể thỉnh một quyển Kinh Diệu Pháp Liên Hoa về xem phần trì tụng linh ứng có ghi chép lại mỗi thời điểm và mỗi nơi khác nhau. Bạn có lẽ nghi ngờ sự xác thật của những việc đó. Tuy nhiên khi những truyện linh ứng về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có sự chứng kiến bởi rất nhiều người vào thời điểm đó, nên mới ghi chép xuống và được sự xem xét và chứng nhận bởi những người vào thời điểm đó. Nếu như là không thật là lừa đảo, thì Đạo Phật đã không tồn tại hơn ngàn năm nay tại Trung Quốc rồi, vậy thì làm sao lòng tin và lòng sùng mộ Đạo Phật của những người Trung Quốc thời đó làm sao mà tồn tại được, nếu như là bịp bợm thì những người vào thời điểm đó đã biết từ lâu và ngăn chặn lại rồi.

    Thứ hai, trước khi Kinh Diệu Pháp Liên Hoa được truyền vào Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc... thì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã tồn tại ở Ấn Độ và được các Chư Tăng bên Ấn Độ trì tụng rồi. Và bạn nên nhớ rằng thời đó chính là thời CHÁNH PHÁP, chứ chưa phải Tượng Pháp và Mạt Pháp nhé.

    Thứ ba, thuở xưa có nhiều bậc hiền thánh chứng đạo rất nhiều, nếu thánh điển Đại Thừa nếu không phải là Phật thuyết tức là hậu hoạn cho Phật Pháp, thì đã bị các bậc hiền thánh khắp nơi hộ trì Phật Pháp, chư Thiên hộ pháp, và Bồ Tát Di Lặc trên cung Trời Đâu Suất (Đại Thừa và Tiểu Thừa điều chấp nhận Bồ Tát Di Lặc là chân thật) ngăn chặn lại từ lâu rồi, làm gì mà còn tồn tại được cho tới bây giờ.

    Thứ tư, khi bắt đầu kinh văn tôi nghe như vầy... gồm có Chư Bồ Tát tên... Chư Hiền Thánh Thanh Văn tên... Chư Thiên Long Bát Bộ tên... vậy thì bạn hãy thử nghĩ xem, nếu như không phải là Phật Pháp chân chính thì khi đọc tụng lên, thì chuyện gì sẽ xãy ra chắc bạn đã hiểu rõ.

    Thứ năm, Chư Tăng Hiền Thánh vào thời kỳ Chánh Pháp thuở xưa là những bậc phạm hạnh uy nghiêm, những bậc nắm giữ giáo pháp chân chính của Phật, đệ tử chân chánh của Phật đã vì sứ mạng truyền bá Phật Pháp khắp thế gian cho tất cả chúng sanh được lợi lạc, vậy thì nếu chúng ta không đặt niềm tin vào Kinh Điển Phật Pháp và Chư Tăng Hiền Thánh đệ tử Phật vậy chúng ta phải đặt niềm tin vào ai bây giờ nữa đây?

    Thứ sáu, đức Như Lai Thế Tôn là bậc nhất thiết trí đầy đủ tất cả trí tuệ, nếu thánh điển Đại Thừa không phải Phật nói thì Đức Phật đã tiên đoán từ thuở trước rồi, chứ làm sao mà để xãy ra hậu hoạn trong giáo lý Phật Pháp được.

    Thứ bảy, thời này là mạt pháp, ma quỷ có thể biến hình và trà trộn, vào các thành phần tri thức... nói cái này cái kia làm cho chúng ta nghi ngờ giáo pháp của Phật, rồi dần dần không chịu tu nữa, riết rồi bị lạc vào tà kiến chủ nghĩa duy vật hồi nào không hay. Vì vậy nên hãy cẩn trọng.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  8. #88

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Allbutnothing Xem Bài Gởi
    Hồi hướng và cầu siêu là 2 câu chuyện khác nhau. Bản thân việc hồi hướng cần có những điều kiện nhất định để thành tựu từ phía kẻ hồi hướng, phương pháp hồi hướng và kẻ nhận hồi hướng.
    Có thể tìm hiểu về việc hồi hướng này qua cuốn "Tìm hiểu phước bố thí" của Tỳ khưu Hộ Pháp. Trích đoạn như sau:
    Khi bạn hồi hướng là để cầu siêu cầu nguyện cho thân nhân của bạn giải thoát. Vì vậy bạn nói là 2 câu chuyện khác nhau là không chính xác!

    Như vậy bạn đã chấp nhận rằng, khi hồi hướng phước đức thì cũng thành tựu từ phía bên người được hồi hướng, có nghĩa là đồng quan điểm với 123456789 rằng Nghiệp Ai Nấy Lãnh Không Thể Cứu Chữa hay cục đá quăng xuống sông không thể hồi hướng hay cầu để trồi lên chỉ là Phương Tiện.

    Bây giờ sẽ bàn về việc lợi ích của việc tụng kinh cầu siêu, như trên bạn đã thấy truyện vua hồi hướng phước đức để cầu siêu bằng cách bố thí cho ngạ quỷ để thoát khỏi cái khổ ngạ quỷ là sự thật. Mà phước đức thì không chỉ giới hạn ở việc chỉ bố thí, mà còn có thể nhiều việc khác như tụng kinh... như vậy nếu như một người tụng Kinh hồi hướng cho những người đã khuất đó thì vẫn sẽ nhận được lợi ích, mà lợi ích còn lớn lao hơn gắp nhiều lần nữa, vì tụng Kinh công đức + và phước đức vô lượng, nên người đã khuất đó sẽ càng nhận được lợi ích lớn hơn nữa đúng không. Và khi người đã khuất chịu khổ xem thấy người trên trần gian vì mình mà tụng Kinh người đó sẽ hoan hỷ, và khi hoan hỷ thì cũng sẽ thoát khỏi khổ đau. Như vậy thì nghi thức tụng Kinh của Phật Giáo Đại Thừa không những lợi ích giúp người đã khuất được thoát khỏi khổ đau bởi phước đức, mà còn có công đức thể giúp người đã khuất được gieo duyên lành giải thoát nữa, vì Bố Thí chỉ là phước đức hữu lậu, nhưng tụng Kinh Pháp là có vừa phước đức hữu lậu và công đức vô lậu nữa. Sau đây mời bạn xem trong Kinh Tiểu Bộ II Phẩm 5, Truyện Lâu Ðài Tiên Nhái (Mandukadevaputta-Vimàna), nhờ nghe Kinh mà thoát được thân thú được sanh làm Chư Thiên như sau:

    Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại Campà (Chiêm-bà) trên bờ ao sen Gaggarà. Từ rạng đông, vừa xuất định Ðại bi, Ngài quán sát: 'Hôm nay về buổi chiều lúc Ta thuyết pháp, một con nhái nghe giọng Ta và mải mê theo dõi, liền bị một kẻ nào đó sát hại, sẽ phải chết. Nó sẽ được tái sanh lên thiên giới và sẽ trở lại trong khi hội chúng đang chăm chú nghe, do vậy sẽ có sự thông hiểu Giáo pháp rộng rãi'.

    Khi mọi việc trong ngày xong xuôi, Ngài bắt đầu thuyết giảng cho tứ chúng đệ tử tại bờ ao. Lúc ấy một con nhái suy nghĩ: 'Ðây được gọi là pháp', nó liền ra khỏi ao và ngồi ở cuối đám thính chúng.

    Một kẻ chăn bò thấy bậc Ðạo Sư thuyết giảng và hội chúng đang yên lặng lắng nghe, bèn đứng dựa vào cây gậy cong và đạp nhằm con nhái. Con nhái được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần và được một đám tiên nữ hầu cận.

    Khi suy nghĩ lại nghiệp nào đã khiến cho mình được tái sanh ở đó, vị Thiên tử thấy không có gì ngoài sự chăm chú nghe lời đức Thế Tôn.

    Ngay lập tức chàng cùng Lâu đài ấy giáng trần, bước ra ngoài vừa thấy đức Thế Tôn, liền đến yết kiến và cung kính đảnh lễ Ngài. Ðức Thế Tôn muốn thị hiện oai nghi của Ngài bèn hỏi kệ:

    1. Chàng Thiên tử sắc đẹp siêu phàm,
    Tiên chúng vây quanh đủ lực thần,
    Ðang chiếu khắp mười phương sáng chói,
    Là ai, chàng đảnh lễ ta chăng?

    Vị Thiên tử bèn ngâm kệ giải thích tiền thân của chàng:

    2. Con là một nhái bén ngày xưa,
    Loài vật sinh ra ở nước hồ,
    Trong lúc con nghe Ngài thuyết pháp,
    Bỗng con chết bởi chú chăn bò.

    3. Ai muốn trong chốc lát tịnh tâm,
    Hãy nhìn uy lực đủ thần thông,
    Oai nghi, dung sắc, đoàn hầu cận,
    Và ánh hào quang của chính con.

    4. Những vị chuyên nghe pháp đã lâu,
    Bạch Cồ-đàm Phật, đấng ly sầu,
    Những người ấy đạt tâm không động,
    Ði đến nơi không có khổ đau.

    Sau đó đức Thế Tôn, nhìn thấy rõ các khả năng mà hội chúng ấy đã đạt được, bèn thuyết pháp đầy đủ chi tiết. Vào lúc Ngài kết thúc bài giảng, chàng Thiên tử nhái đã được an trú vào quả Dự Lưu. Sau khi cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, chàng trở về cõi trời.


    Như vậy ta đã thấy tuy mang thân súc sinh, nhưng vì nghe pháp nên vị thiên tử nhái đó nhờ Phước Đức đó vãng sanh về cõi trời ba mươi ba với đầy đủ quang minh, oai lực, lâu đài... của Chư Thiên. Và vì pháp có cả thêm Công Đức nữa, nên vị thiên tử nhái đó mới có duyên lành tiếp tục nghe pháp và chứng đắc quả Dự Lưu, vì vậy trong vòng 7 đời trở lại nữa sẽ đắc quả A La Hán và chấp dứt khổ đau trong luân hồi sinh tử.

    Đó chỉ là lúc Đức Phật mới nói pháp Tiểu Thừa để đạt quả vị giải thoát A La Hán mà đã được lợi ích công đức như vậy rồi, huống chi là giáo pháp lớn Đại Thừa để đi đến con đường quả vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác? Như vậy nếu một người tụng Kinh để hồi hướng cầu siêu cho người đã khuất, thì chắc chắn người đó sẽ thấy biết và hoan hỷ. Trong những sự việc từ xưa đến nay, có một số người nằm mộng thấy người thân trở về nhờ tụng kinh hồi hướng siêu độ vì bị khổ sở bởi nghiệp lực trong đường ác, và biết bao nhiêu người đã làm, và đã mộng thấy thân tướng của những người thân trước được giải thoát. Do đây nên biết chắc rằng khi làm các việc phước đức hay công đức để hồi hướng cầu siêu thì chắc chắn người đã khuất sẽ được thoát khỏi khổ đau, và lý do tại sao được thoát khỏi khổ đau.

    Nam Mô A Di Đà Phật
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  9. #89

    Mặc định ÂN ÐỨC PHẬT THỨ NĂM



    V- Itipi so Bhagavà Lokavidù
    (Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Lô-ká-vn-đu).

    Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Lokavidù = Ðức Thông Suốt Tam Giới.


    Ý nghĩa Loka

    Loka: Thế giới đó là các pháp có sự sanh, sự diệt, sự thành, sự hoại,... nhất là ngũ uẩn chấp thủ của mình, gọi là thế giới.

    Thế giới có 3 loại:

    1- Chúng sinh thế giới (sattaloka).
    2- Cõi thế giới (okàsaloka).
    3- Pháp hành thế giới (sankhàraloka).


    Ðức Thế Tôn có hai loại trí tuệ đặc biệt mà Chư Phật Ðộc Giác và bậc Thánh Thanh Văn không có là:. Ghi chú Ngay cả cao tăng PGNT còn nói đức Phật khác với Độc Giác Phật và Thánh Thanh Văn mà mấy tên trẻ trâu lại cho rằng tới quả vị a là hán là hết không có Bồ tát hay thanh văn gì cả, chỉ có mỗi quả vị A la hán mà thôi. heeeeeeeeeeeee.

    - Trí tuệ thấy rõ biết rõ căn cơ cao thấp của mỗi chúng sinh.
    - Trí tuệ thấy rõ biết rõ phiền não ngấm ngầm, thiện nghiệp, ác nghiệp của mỗi chúng sinh.

    Cho nên, Ðức Thế Tôn có khả năng thông suốt cả ba thế giới.

    1- Thế nào gọi là chúng sinh thế giới?

    Chúng sinh thế giới:

    * Về nơi sanh có 4 loại:

    - Thai sanh: Chúng sinh sanh từ bụng mẹ như: loài người, trâu, bò...
    - Noãn sanh: Chúng sinh sanh từ trứng như: gà, vịt, chim...
    - Thấp sanh: Chúng sinh sanh từ nơi ẩm thấp như: con dòi, con trùn,...
    - Hoá sanh: Chúng sinh sanh hiện hữu ngay tức thì như: chư thiên, phạm thiên, loài ngạ quỷ, atula, chúng sinh địa ngục, con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này....

    Ghi chú: Các cao tăng PGNT đều có nói cõi ngã quỷ (ma), cõi địa ngục và atula nhưng mấy tên trẻ trâu ngạo mạn phỉ báng lại nói chết là luân hồi theo nghiệp không có địa ngục hay ma gì cả. heeeeeeeeee. Đúng là tào lao quá mà.

    * Về uẩn có 3 loại:

    - Chúng sinh có ngũ uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn ở cõi dục giới và cõi sắc giới.
    - Chúng sinh có tứ uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn (không có sắc uẩn) ? cõi vô sắc giới.
    - Chúng sinh có nhất uẩn: sắc uẩn (không có 4 danh uẩn) ? cõi sắc giới Vô tưởng thiên. V.v...

    Ðức Thế Tôn biết rõ tất cả mọi loài chúng sinh có căn cơ cao hoặc thấp; có phiền não ngấm ngầm nặng hoặc nhẹ, có bản tánh riêng của mỗi chúng sinh; có nguyện vọng cao quý hoặc thấp hèn, có 5 pháp chủ[*] già dặn hoặc còn non nớt...
    [*] 5 pháp chủ: tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ.

    Chúng sinh có khả năng chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị lai trở thành Toàn Giác Phật, hoặc Ðộc Giác Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác bậc nào...

    Chúng sinh không có khả năng chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại bởi do nguyên nhân nào...

    Ðức Thế Tôn thông suốt tất cả các loài chúng sinh không còn dư sót.

    2- Thế nào gọi là cõi thế giới?

    Cõi thế giới là nơi tạm trú của tất cả các loài chúng sinh hiện hữu tuỳ theo thiện nghiệp, ác nghiệp cho quả và hỗ trợ chúng sinh.

    Tam giới

    Tam giới là một thế giới nhỏ, gồm có 31 cõi:

    - Dục giới có 11 cõi.
    - Sắc giới có 16 cõi.
    - Vô sắc giới có 4 cõi.

    * 11 cõi dục giới.

    - 4 cõi ác giới:

    * Cõi Ðịa ngục: có tuổi thọ không nhất định.
    * Cõi Atula: có tuổi thọ không nhất định.
    * Cõi Ngạ quỷ: có tuổi thọ không nhất định.
    * Cõi Súc sanh: có tuổi thọ không nhất định.


    - 7 cõi thiện dục giới:

    * Cõi Người: có tuổi thọ không nhất định.
    * Cõi Tứ đại thiên vương: có tuổi thọ 500 tuổi trời, bằng 9 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 50 năm cõi người).
    * Cõi Tam thập tam thiên: có tuổi thọ 1.000 tuổi trời, bằng 36 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm cõi người).
    * Cõi Dạ ma thiên: có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng 144 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 200 năm cõi người).
    * Cõi Ðâu xuất đà thiên: có tuổi thọ 4.000 tuổi trời, bằng 576 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người).
    * Cõi Hoá lạc thiên: có tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng 2.304 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 800 năm cõi người).
    * Cõi Tha hoá tự tại thiên: có tuổi thọ 16.000 tuổi trời, bằng 9.216 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người).

    * 16 cõi sắc giới phạm thiên.

    - Ðệ nhất thiền hữu sắc có 3 cõi:

    * Cõi Phạm chúng thiên: có tuổi thọ 1/3 a tăng kỳ kiếp trụ. (Vivattatthàyì asankheyyakappa = a tăng kỳ kiếp trụ của trái đất.)
    * Cõi Phạm phụ thiên: có tuổi thọ 1/2 a tăng kỳ kiếp trụ.
    * Cõi Ðại phạm thiên: có tuổi thọ 1 a tăng kỳ kiếp trụ.

    - Ðệ nhị thiền hữu sắc có 3 cõi:

    * Cõi Thiểu quang thiên: có tuổi thọ 2 đại kiếp. (Ðại kiếp = trải qua 4 a tăng kỳ: thành - trụ - hoại - không của kiếp trái đất.)

    * Cõi Vô lượng quang thiên: có tuổi thọ 4 đại kiếp.
    * Cõi Quang âm thiên: có tuổi thọ 8 đại kiếp.

    - Ðệ tam thiền sắc giới có 3 cõi:

    * Cõi Thiểu tịnh thiên: có tuổi thọ 16 đại kiếp.
    * Cõi Vô lượng tịnh thiên: có tuổi thọ 32 đại kiếp.
    * Cõi Biến tịnh thiên: có tuổi thọ 64 đại kiếp.

    - Ðệ tứ thiền sắc giới có 7 cõi:

    * Cõi Quảng quả thiên: có tuổi thọ 500 đại kiếp.
    * Cõi Vô tưởng thiên: có tuổi thọ 500 đại kiếp.
    * Cõi Phước sanh thiên: có 5 cõi dành riêng cho bậc Thánh Bất Lai chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc:

    - Cõi Vô phiền thiên: có tuổi thọ 1.000 đại kiếp.
    - Cõi Vô nhiệt thiên: có tuổi thọ 2.000 đại kiếp.
    - Cõi Thiện hiện thiên: có tuổi thọ 4.000 đại kiếp.
    - Cõi Thiện kiến thiên: có tuổi thọ 8.000 đại kiếp.
    - Cõi Sắc cứu cánh thiên: có tuổi thọ 16.000 đại kiếp.

    * 4 cõi vô sắc giới phạm thiên.

    - Không vô biên xứ thiên: có tuổi thọ 20.000 đại kiếp.
    - Thức vô biên xứ thiên: có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.
    - Vô sở hữu xứ thiên: có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.
    - Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên: có tuổi thọ 84.000 đại kiếp.

    1 thế giới có tam giới, gồm có 31 cõi.
    1 tiểu thế giới có 31.000 cõi.
    1 trung thế giới gồm có 31 triệu cõi.
    1 đại thế giới gồm có 31 triệu triệu cõi hay 31.000 tỉ cõi.

    Ðức Thế Tôn không những thông suốt 31.000 tỉ cõi mà còn thông suốt vô lượng thế giới (ananta-cakkavàla).
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  10. #90

    Mặc định

    Tìm Hiểu Pháp Môn Niệm Phật trong Phật giáo Nguyên Thuy. Tác giả: Hộ Pháp Các bạn có thể xem trọn bộ ở đây:
    http://www.budsas.org/uni/u-pmnp/pmnp00.htm
    Tìm hiểu pháp môn niệm phật của ngài adida ở đây: http://www.thuongson.net/ADiDaKinh.htm
    Các đạo hữu tự tìm hiểu có chính kiến của riêng mình, nonane xin miễn bình luận bởi vì vấn đề nào cũng viết thì không đủ giấy và thực tế rằng mỗi người đều có 1 cái đầu của riêng mình. Ha ha ha ha!
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  11. #91

    Mặc định

    Chào các vị đạo hữu! Hôm nay noname xin được luận bàn cùng các vị đạo hữu về vấn đề tôn giáo và đại thừa.
    Đầu tiên noname xin được thống nhất lại với các đạo hữu rằng noname không chống trái lại bất cứ pháp môn nào, không chống trái lại bất cứ niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng nào, không chống trái lại bất cứ cá nhân nào dù trong quá khứ hay hiện tại.
    Tuy nhiên dù là tôn giáo nào nó cũng chỉ đơn giản là một cách nhìn nhận thế giới mà ở đây là thế giới tâm linh. Vì chỉ là cách nhìn nhận thế giới nên con người cần phải chấp nhận cách nhìn chính xác hơn đúng đắn hơn. Vậy nên con người thay vì tôn sùng 1 đấng nào đó, một tín ngưỡng nào đó, một tôn giáo nào đó, thì cần phải thay đổi nhận thức của mình để hướng tới chân lý.
    Vậy mỗi tôn giáo là mỗi cách nhìn vào thế giới tâm linh và bạn là người quyết định cách nhìn, và hiển nhiên rằng hiểu biết của bạn sẽ quyết định cách nhìn của bạn. Nên mấu chốt là phải tăng cường hiểu biết để thay đổi nhận thức. Mà muốn tăng cường được hiểu biết thì lại phải buông bỏ. Buông bỏ có 2 lý:
    Thứ nhất: phải buông bỏ pháp thế gian mới ngộ được pháp xuất thế gian. Nếu chúng ta cứ chấp rằng pháp thế gian là thường còn, là thật có, do chính tôi đã thực sự trải nghiệm như vậy, đã thực sự thấy như vậy, đã thực sự nghe như vậy, đã thực sự kinh qua như vậy... Vv như vậy chúng ta sẽ không bao giờ chạm được vào xuất thế gian pháp, như vậy cũng đồng nghĩa rằng chúng ta sẽ tiếp tục đi luân hồi để tiếp tục sống với cái mà chúng ta cho là thật có, là tồn tại...vv.
    Thứ hai: phải buông bỏ được thì mới tiếp thu được. Noname xin lấy ví dụ như ở những vùng xa xôi hẻo lánh còn tồn tại những hủ tục lạc hậu mà sự tồn tại của nó chỉ làm khổ những con người trong xã hội ấy, ví như những hủ tục mê tín dị đoan như cúng bái cầu xin, vẽ bùa đọc chú...vv, nhưng nếu chúng ta bảo họ rằng việc ấy là không tốt, thì họ sẽ không nghe chúng ta nói, tại sao? Bởi từ thời ông cha họ đã truyền lại như vậy, họ đã không dùng trí tuệ để phân tích, để hiểu, mà họ chỉ hiểu biết đơn giản là chính họ đã thấy như vậy, chính họ đã nghe như vậy, chính họ đã kinh nghiệm như vậy, chính họ đã thực chứng như vậy, chính họ đã được dạy bảo từ người đi trước như vậy, thậm chí chính hương ước của làng đã ghi như vậy rành rành. Chính họ đã kinh nghiệm những điều không thể giải thích được, và họ chấp chặt vào đó và cho rằng những người khác không có kinh nghiệm như vậy nên không biết, không thấy nên không tin, còn họ đã biết đã thấy nên họ tin. Những pháp thế gian đã khó tin như vậy, huống hồ pháp xuất thế gian. Nên tiên quyết rằng nếu không buông bỏ thì chắc chắn không thể tiếp thu được. Nên noname nói phải buông bỏ để tiếp thu.
    Tới đây noname xin được cùng các đạo hữu luận bàn về 1 vấn đề rất lớn đó là vấn đề kinh điển đại thừa ở đâu mà ra hay rộng hơn là tất cả các tôn giáo trên trái đất này do đâu mà có?
    Như tất cả chúng ta đều đã biết kinh điển đại thừa từ khi được sinh ra đã luôn có những tranh luận liên miên không dứt rằng những bộ kinh này có phải thật do Phật thuyết? Từ câu hỏi lớn này hàng loạt những mệnh đề nếu như được sinh ra, ví dụ: nếu như kinh điển đại thừa không phải do Phật thuyết thì chẳng phải người tu đã uổng cả 1 đời tu hành? Và trong lịch sử hàng trăm năm qua trong giới tu hành đã tốn công sức, thời gian và giấy mực để bàn luận vấn đề này. Nhưng đến nay tiếc rằng vẫn chưa ngã ngũ.
    Vâng bên đại thừa có lý lẽ rằng: đầu mỗi quyển kinh đại thừa đều có ghi "chính tôi được nghe Phật thuyết...vv" và họ nói rằng: đấy, chính kinh đã ghi là Phật thuyết còn giả được hay sao? Nhưng những người theo Phật pháp nguyên thủy cũng có lý lẽ của riêng họ đơn giản là: "liệu Tôi có ở đấy không để mà nghe?". Tuy nhiên noname lại cho rằng vấn đề thật chất lại nằm ở chỗ khác chứ không nằm ở chỗ hai phái vẫn tranh luận lâu nay.
    Vậy chúng ta hãy thử nhìn sự việc ở một góc nhìn khác, một cách nghĩ khác, có thể chúng ta sẽ thấy rõ vấn đề hơn chăng?
    (còn nữa)
    Mấy ai thành Phật nhờ đi tu
    Khi trí thông minh bị hãm tù
    Phải thấy huyền vi trong ngọc sáng
    Như thấy vầng dương giữa khói mù
    Last edited by Nonamepas; 21-08-2017 at 01:30 PM.
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  12. #92

    Mặc định

    Nước cam ngọt hay chua, chỉ mỗi người uống mới biết được.

    Cũng vậy, Đại thừa hay tiểu Thừa gì thì chỉ những người đã tu tập pháp môn đó, đã được những cảm ứng không thể nghĩ bàn, đã "cảm nhận được vị ngọt, vị chua cay mặn" của pháp môn đó mang lại mới có thể hiểu

    Việc bàn luận, phân tranh giữa tôn giáo, đại thừa tiểu thừa chỉ thêm tốn thời gian vô ích mà thôi, chẳng làm lợi lạc được gì cho chúng sanh cả vì rốt cuộc Pháp của Phật tất cả cũng đều sẽ đoạn diệt đúng theo như chân lý Sanh-Diệt của vạn vật mà thôi

  13. #93

    Mặc định

    Phật giáo hay bất cứ tôn giáo nào cũng không nằm ngoài nhân quả. Chúa Giesu, Thánh Ala hay Phật Adida không thể mang đức tin của họ lên cõi cực lạc hay thiên đàng, người tu phải tự đi thôi. Không tu, không gieo nhân thì không bao giờ có quả, có cầu nguyện hay niệm phật rát cổ họng cũng vô vọng.

  14. #94

    Mặc định

    chào tất cả các bạn ...
    xem hết 5 trang ...mới thấy ra các bạn đều là nhửng nhân vật xuất chúng .có sự nghiên cứu và thực hành nghiêm túc hôm nay mình củng xin góp một ít sưu tầm ....chúng ta cùng tham khảo nhé
    ................
    hôm nay nhận đọc LỜI GIÁO HUẤN VỀ THIỀN ĐỊNH của ĐỨC ĐẠI TRƯỞNG LẢO THIỀN SƯ SHEWOO MIN SAYADAW......mình thấy rất có ích cho nhửng THIỀN SINH như chúng ta ....nên post lên cho các bạn tham khảo ......mong rằng có thể giúp ích và lợi lạc..... chư hiền hửu mau chóng thành tựu đạo mầu tự lợi lợi tha
    1/đừng quá chú tâm vào đề mục
    2/đừng kiểm soát hay điều khiển các đối tượng
    3/đừng cố tạo ra 1 cái gì
    4/đừng ép buộc hay hạn chế mình làm 1 điều gì đó ....mà điều này TRÁI VỚI TỰ NHIÊN
    ............................
    không tạo ra một cái gì ..nhưng củng đừng xua đuổi nhửng gì đang xảy ra ..mà hảy cố gắng duy trì CHÁNH NIỆM và TỈNH GIÁC ....XEM CHÚNG CÒN ĐANG XẢY RA HAY ĐẢ CHẤM DỨT ...
    ...........................
    THIỀN QUÁN ..là chờ xem ..là quan sát ..chánh niệm với sự tỉnh thức và hiễu biết đúng theo chánh pháp.....KHÔNG PHẢI LÀ SUY NGHĨ .TƯ DUY ..LÝ LUẬN..PHÂN TÍCH hay xét đoán theo KHÁI NIỆM của TỤC ĐẾ
    ..................................
    CỐ TẠO RA CÁI GÌ ĐÓ .............gọi là THAM
    XUA ĐUỔI nhửng gì đang xảy ra ..gọi là SÂN
    KHÔNG BIẾT ...nhửng gì đang xảy ra hay đả chấm dứt ..gọi là SI
    ................
    LUÔN kiểm tra xem chúng ta đang hành thiền với thái độ nào ...,<có bị THAM SÂN SI ....chi phối không >
    .......................
    dù cho đối tượng kinh nghiệm tốt hay đề mục xấu xuất hiện ..chúng ta nên chấp nhận với thái độ XẢ ..LY....tiếp tục duy trì chánh niệm ..GHI NHẬN ..và hiểu biết rỏ cả hai
    .................
    thông thường ..chúng ta chỉ ưa thích nhửng kinh nghiệm tốt đẹp và dể chịu.............còn dù chỉ chút ít kinh nghiệm khó chịu ...không vui ...LÀ CHÚNG TA XUA ĐUỔI....hay tìm cách trốn chạy ..........
    ..........các bạn làm như thế đúng hay sai ????

  15. #95

    Mặc định

    đừng quá mong chờ hay dính mắc vaò 1 điều nào..củng đừng quá lo lắng...suy tư ...vì những điều này có mặt trong khi hành thiền ......bởi vì ..khi có tâm mong cầu 1 điều gì hay 1 hiện tượng nào đó xảy đến ....và như thế ..CHÍNH NÓ sẻ làm cho bạn mệt mỏi và chán nản ....
    .........................
    TẠI SAO ...chúng ta lại QUÁ CHÚ TÂM vào đề mục quán sát ???????????? câu trả lời là ......
    BẠN ĐANG MONG CẦU 1 ĐIỀU GÌ
    BẠN MUỐN 1 CÁI GÌ ...sẻ đến hay biến mất
    ..............
    hảy nhớ .....ban5 không thể hành thiền ĐÚNG khi tâm của bạn đang CĂNG THẲNG
    .....................................
    KHI TÂM chán nản ...có nghỉa là dấu hiệu cho thấy bạn đả có sai sót trong khi hành thiền ....bạn nên xem lại cách THIỀN TẬP của bản thân ....
    ..........................
    chúng ta nên hành thiền với thái độ TÂM ....XẢ ...LY .....thoải mái và an tỉnh ...không nhửng TÂM mà THÂN củng phãi THƯ GIẢN ..nhẹ nhàng ...
    ................
    tâm thoải mái và không dính mắc ...sẻ giúp bạn hành thiền dể dàng và tiến bộ nhanh hơn
    ..................................
    GIỜ ĐÂY ...TÂM ĐANG LÀM GÌ ....VÀ Ở ĐÂU ???
    ......................
    đang suy nghỉ ...phóng tâm ..hay đang chánh niệm và tỉnh giác ...BIẾT RỎ TRONG THÂN hay NGOÀI THÂN
    ........................
    NGUYÊN TẮC HÀNH THIỀN ...là đừng bao giờ CỐ GẮNG ...LÀM CHO sự việc xảy ra theo ý của mình .....mà hảy DUY TRÌ CHÁNH NIỆM để biết nhửng gì đang xảy ra............và PHẢI THẤY RỎ nhửng gì đang xảy ra
    ................................................
    ĐỪNG KHÓ CHỊU ....BỰC MÌNH .....vì cho rằng sự phóng tâm hay TÂM SUY NGHỈ đang QUẤY RẦY BẠN ...HÀNH THIỀN là HỌC CÁCH CHÁNH NIỆM ....NHẬN RA ĐƯỢC TÂM SUY NGHỈ HAY SỰ PHÓNG TÂM khi nó đến ...chứ không phải tìm cách NGĂN CHẬN tâm này

  16. #96

    Mặc định

    không cố ý xua đuổi ..bất kỳ 1 đối tượng hay đề mục mà chúng ta TỰ ĐÁNH GIÁ ...nhận định CHO LÀ TỐT HAY XẤU...vì ..THÍCH HAY KHÔNG THÍCH ...ĐỀU LÀ DÍNH MẮC ......điều quan trọng nhất là PHẢI BIẾT RỎ chánh niệm quan sát và THẤY BIẾT rỏ ràng minh bạch cụ thể..nhận rỏ THAM ..SÂN ...SI ....phát sanh lên DO NƯƠNG THEO đề mục làm cho TÂM ta phiền nảo hay ô nhiểm ......VÀ NHƯ THẾ CHÚNG TA SẺ DẦN DẦN THOÁT RA KHỎI PHIỀN NẢO ...
    ...........................
    CHỈ khi nào chúng ta có ĐỨC TIN THÌ TINH TẤN MỚI SANH KHỞI
    ...............................TINH TẤN SANH KHỞI thì CHÁNH NIỆM sẻ vửng chắc
    ..............................CHÁNH NIỆM vửng bền thì ĐỊNH LỰC sẻ vững chắc
    ............................định tâm VỬNG CHẮC RỒI THÌ tuệ giác PHÁT SANH thấy rỏ bản thể của sự vật như chính nó đang hiện hửu
    ...........HẢY CHÁNH NIỆM ...VỀ nhửng gì đang xảy ra LIÊN QUAN đến THÂN và TÂM ....trong ngay GIÂY PHÚT hiện tại ...ĐỪNG NGHỈ TƯỞNG CHUYỆN ĐẢ QUA
    hay 1 quá khứ hoặc DỰ TÍNH tương lai sắp đến
    ...................
    đối tượng hay đề mục không quan trọng ...nhưng sự TỈNH GIÁC để biết rỏ TÂM VI TẾ sanh lên do đối tượng CÓ PHIỀN NÃO ô nhiểm hay không mới thật sự quan cần .....nên sự theo dỏi và quan sát TÂM ....cực kỳ quan trọng trong bước này
    ........................
    dù pháp ấy THIỆN hay BẤT THIỆN ...THÌ GIỬ ĐƯỢC CHÁNH NIỆM mới là CẦN THIẾT cho một HÀNH GIẢ ....ĐANG TẬP TU THIỀN
    ..VESAKHA 2548 ..2004
    THIỀN SƯ U TEJANIYA TÓM LƯỢC
    TỲ KHEO TĂNG ĐỊNH tịnh xá KỲ VIÊN theravada hiệu đính

  17. #97
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,577

    Mặc định

    Wow, thấy nói thầy ở tịnh xá Kỳ Viên, thiệt nhớ đến Đức Thế Tôn. NN thấy chú NCHK viết và trích ở trên thật sự phải nói là càng đọc thì càng thấy thật giống như sự tu tập bên Đại Thừa, chẳng gì khác cả. Mà NN thấy sự tu tập như thế này thì giống như các vị tổ bên Đại Thừa đã nói và chỉ dạy.

    Thân
    NN
    To You With Love

  18. #98

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nguoiconhukhong Xem Bài Gởi
    không cố ý xua đuổi ..bất kỳ 1 đối tượng hay đề mục mà chúng ta TỰ ĐÁNH GIÁ ...nhận định CHO LÀ TỐT HAY XẤU...vì ..THÍCH HAY KHÔNG THÍCH ...ĐỀU LÀ DÍNH MẮC ......điều quan trọng nhất là PHẢI BIẾT RỎ chánh niệm quan sát và THẤY BIẾT rỏ ràng minh bạch cụ thể..nhận rỏ THAM ..SÂN ...SI ....phát sanh lên DO NƯƠNG THEO đề mục làm cho TÂM ta phiền nảo hay ô nhiểm ......VÀ NHƯ THẾ CHÚNG TA SẺ DẦN DẦN THOÁT RA KHỎI PHIỀN NẢO ...
    ...........................
    CHỈ khi nào chúng ta có ĐỨC TIN THÌ TINH TẤN MỚI SANH KHỞI
    ...............................TINH TẤN SANH KHỞI thì CHÁNH NIỆM sẻ vửng chắc
    ..............................CHÁNH NIỆM vửng bền thì ĐỊNH LỰC sẻ vững chắc
    ............................định tâm VỬNG CHẮC RỒI THÌ tuệ giác PHÁT SANH thấy rỏ bản thể của sự vật như chính nó đang hiện hửu
    ...........HẢY CHÁNH NIỆM ...VỀ nhửng gì đang xảy ra LIÊN QUAN đến THÂN và TÂM ....trong ngay GIÂY PHÚT hiện tại ...ĐỪNG NGHỈ TƯỞNG CHUYỆN ĐẢ QUA
    hay 1 quá khứ hoặc DỰ TÍNH tương lai sắp đến
    ...................
    đối tượng hay đề mục không quan trọng ...nhưng sự TỈNH GIÁC để biết rỏ TÂM VI TẾ sanh lên do đối tượng CÓ PHIỀN NÃO ô nhiểm hay không mới thật sự quan cần .....nên sự theo dỏi và quan sát TÂM ....cực kỳ quan trọng trong bước này
    ........................
    dù pháp ấy THIỆN hay BẤT THIỆN ...THÌ GIỬ ĐƯỢC CHÁNH NIỆM mới là CẦN THIẾT cho một HÀNH GIẢ ....ĐANG TẬP TU THIỀN
    ..VESAKHA 2548 ..2004
    THIỀN SƯ U TEJANIYA TÓM LƯỢC
    TỲ KHEO TĂNG ĐỊNH tịnh xá KỲ VIÊN theravada hiệu đính
    Mình không biết phương pháp của bạn đúng theo triết lý Phật hay không? nhưng mình nghĩ đa số người thường không làm được.
    Chúng ta sống trong quá nhiều những tác động bên ngoài, luôn thay đổi, không thể không chú ý đến một đối tượng nào đó. Đôi khi phải giải quyết nó thì đầu óc mới nhẹ nhàng được.
    Thí dụ bạn tu trong chùa nhưng xung quanh có quá nhiều cái ngang trái, bất công, bạn tập trung đầu óc mà gạt qua tất cả để tu ?, nếu như vậy thì mình nghĩ là hèn nhát, theo quy tắc tự nhiên bạn không thể thanh thản. Nếu bạn nhúng tay vào để giải quyết thì rõ là bạn phải chú đến nó rồi !.

    Theo mình không nhất phải là đạo Phật, những người tu tôn giáo thành công là những người khống chế được cảm xúc của mình. Họ có thể chú ý, chấp nhất vào bất cứ cái gì liên quan để giải quyết , không trốn tránh, nhưng họ luôn khống chế tốt cảm xúc đặc biệt là nổi sân và buồn. Bước đầu là không cho cảm xúc thoát ra ngoài, cao hơn một bậc là diệt luôn nó bên trong. Những người như vậy cũng thường thành công trong cuộc sống hiện tại.

  19. #99

    Mặc định

    chào bangtown
    ..bạn nói đúng ..ỡ đây mình chỉ bê nguyên văn dùng dể làm tài liệu tham khảo thôi bạn à ....
    thân

  20. #100

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nhat_Nguyet Xem Bài Gởi
    Wow, thấy nói thầy ở tịnh xá Kỳ Viên, thiệt nhớ đến Đức Thế Tôn. NN thấy chú NCHK viết và trích ở trên thật sự phải nói là càng đọc thì càng thấy thật giống như sự tu tập bên Đại Thừa, chẳng gì khác cả. Mà NN thấy sự tu tập như thế này thì giống như các vị tổ bên Đại Thừa đã nói và chỉ dạy.

    Thân
    NN
    thân chào nn
    ............trò chỉ là người đứng bên ngoài ...nên khách quan dc 1 chút ....thấy cái gì hay thì đưa lên cho các bạn làm tài liệu tham khảo ....còn đại thừa hay tiểu thừa trò không quan tâm lắm ....
    thân

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •