Trường hợp này MINH ĐÀI cũng từng trãi ,sẽ trả lời bên topic kinh nghiệm thiền
Printable View
- MĐ mà trả lời không đúng, biết tay HS nhé !Trích dẫn:
Trường hợp này MINH ĐÀI cũng từng trãi ,sẽ trả lời bên topic kinh nghiệm thiền
khi hành giã HỒI QUANG PHÃN CHIẾU ....thì sẽ thấy rõ sự hoạt động cũa nội tâm ...nên rất dể XÃ BÕ ..
SỢ mất định ..nghĩa là bạn còn TRỤ CÓ ĐỊNH nhưng nếu bạn không quan tâm thì ĐỊNH chẳng có gì là khó cã ...
hic ....chũ yếu cũa TU HỌC là tìm cầu giãi thoát ...ĐÂU CẦN phãi thế này thế kia
đã nói rõ là NHÌN VÀO NỘI TÂM xem nó hoạt động thế nào ....NẾU NÓI NHƯ BẠN ..THÌ RÕ RÀNG bạn chưa nhìn thấy nhửng CHỦNG TỬ không thiện không ác ...
vì sao ..nhửng chũng tử này ..CHĨ MỚI LÀ NHÂN ...quan trọng là hành giã GIEO nó vào chổ nào thôi
bạn quên mất trong kinh KIM CANG .bồn sư nói rất rõ
tướng TA [NGẢ]
TƯỚNG NGƯỜI [nhân ]
tướng CHÚNG SANH [có đũ lục căn ]
tướng thọ giã [nhận lảnh ]
và
dĩ sắc kiến ngã .âm thanh cầu ngả .........tìm đâu dc NHƯ LAi
bạn nên xem lại ..CỐ GẮNG HIỂU THẾ NÀO LÀ KHÔNG TA ...
thân
Khi tâm bạn dừng tạp niệm là đã vào cận định, lúc nầy đừng nghĩ ngợi gì về đắc thiền, quang tướng, âm tướng, hương tướng, tất cả các điều trên đây đều do sự tích tụ điện vũ trụ (prajna) +không khí mà ra, nếu là quang tướng sẽ xuất hiện ở phía dưới mủi sáng như cái bông gòn và to dần, (còn ánh sáng mà bạn thấy trước mặt là huệ quang, không phải quang tướng), chỉ cần tập trung nó và hiệp nhất nó với điểm xúc chạm, đừng tưởng nghĩ về nó một mình, nó (nimitta) + khí + thân hiệp lại thành một và lúc nào cũng giữ đều chánh niệm, nếu ở trạng thái nầy 3 thời thiền liên tiếp , mỗi thời trên 1 giờ 30 phút , bạn sẽ vượt qua sơ thiền,(có người 7 thời thiền liên tiếp từ khi tợ tướng xuất hiện mới vượt qua đước ) lúc đó tâm và thân an lạc, xung hỹ toàn thân,người như muốn chực bay lên, chỉ còn có cảm giác ở cái đầu là của mình,cái mủi là của mình, tất cả thân mình, chân tay như tan biến, hoặc phình to ra, hơi thở nhỏ dần, lúc nầy bạn cứ tiến vào thiền quán tứ niệm xứ, bạn sẽ tự hỏi lúc đó tôi đã cận định còn niệm đâu mà niệm, không đâu lúc nầy là cái thô tâm bị kềm theo khuông của "chánh niệm chỉ" nên cần phải dụng "chánh niệm quán " , nhưng vi tế tâm bắt đầu khởi, bạn tứ tiến hành dò từng xứ một .
Điều quan trọng của đạt nhất thiền là ở cả hai tầng thiền định và quán, không phải chỉ ở tầng định không mà thôi,đây là sự lầm lạc tai hại, vì khi đạt được cận định ở thiền định, người ta không còn muốn bước vào thiền quán, và cho là không cần thiết, nếu không thiền quán thì không bao giờ bộc lộ được vi tế tâm, mà không thấy được vi tế tâm, dù cho định sâu cách mấy tuệ cũng ở mức thường và trung bình, và nó chỉ là tuệ mà không thể là huệ .
Cái chính của thiền không phải ở ngồi thiền, mà sau khi xả thiền bạn phải thân hành niệm và mọi tư thế cũng đều tứ niệm xứ, vấn đề chính đừng bao giờ xem đồng hồ, đừng bao giờ so sánh tác dụng thiền của hôm nay và hôm qua, đừng bao giờ mong đắc thiền, cần phải tu nhiều pháp bổ túc như lễ lạy Phật mỗi ngày hàng ngàn lần, niệm tâm từ, niệm ân đức Phật, thỉnh Phật chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, sám hối ,hồi hướng.....Nếu bạn miên mật trong thất 21 ngày , mỗi ngày thọ thực 1 buổi Ngọ, đắc thiền chẳng bao lâu.
Phật không bao giờ dạy ngồi thiền là phải quên thân quên hơi thở, mà phải niệm thấy thân mình đang hành, thấy người mình đang thở trong sự tỉnh giác vi tế, để cái chơn tâm của mình nó thấu tỏ được cả cái vô thức 95% điều khiển cái thân.Bạn có thể vẫn sống , thân nằm yên , óc không nghĩ, một đời sống thực vật, 5% hoạt động ý thức không hoạt động, nhưng 95 % hoạt động vô thức vẫn đang chạy trơn tru trong thân tâm bạn, Phật tìm ra 5% kia là phàm tâm, 95% nầy mới là chơn tâm, vì nó tự động, nó thuộc về tánh tự nhiên thuần thục mà không cần ai huấn luyện, chẳng có ai chỉ cho tim phải đập bao nhiêu nhịp /phút khi bạn mệt, hay thở bao nhiêu hơi khi lặn xuống, người tu thường bị cái danh từ mỹ miều hồi quang phản chiệu- tự tánh hiển bày, mà quên đi lời Phật dậy, thậm chí có người còn cho Phật dạy thiền vipassana, thiền vipassana có từ xa xưa, Phật chỉ chế ra tứ niệm xứ mà thôi, hiện nay nhiều người Tây phương đắc thiền tứ niệm xứ hơn người Á đông rồi đó! Vì họ biết nhận định đâu là văn chương đầu môi đâu là Phật ngữ chơn thật.Đâu là Phật pháp tự tâm, đâu là Phật pháp nhồi sọ.
Quý vị cũng sẽ chẳng bao giờ lầm lạc, nếu biết lý do vì sao Đại Đức Thích Minh Châu chuyển pháp tu đại thừa sang nguyên thủy, vì ông đã đại ngộ và ở tuổi hai mươi Ngài không còn tu đại thừa nữa, nhờ đó mà có kinh tạng nguyên thủy Pali được dịch sang Việt ngữ.
Sự thật về niệm Phật A Đà để vảng sanh cũng không phải ngoài lời dạy của Đức Cồ Đàm.
BẠn cứ chú ý pháp tu tứ niệm xứ -thân hành niệm- trong đó có niệm Tâm , niệm Thân , Phật nói chúng sanh là Phật sẽ thành , vậy bạn niệm Tâm bạn là Phật sẽ thành, nếu bạn dán vào tường hình Đức A Di Đà và niệm mãi tên Ngài tới lúc nào đó trong vô thức Ngài hiện ra không phải là không hợp lý, còn người tu tứ niệm xứ : niệm tâm, tức niệm Phật trong thân mình, đến ngày nào đó sẽ thấy chính mình đang nhìn mình, cái nầy chẳng phải là không hợp lẽ đạo.
Hãy thật thà tu hành tinh tấn, quý hữu sẽ thấy điều tôi nói chẳng bao giờ sai.
Thân ái,
Xin lỗi vì lời lẽ có hơi thô kệch có thể làm cho quý hữu phật lòng, xin sám tại đây với lòng thành khẩn từ bi dàn trải
P/S
Tôi nguyện không kết oan trái với bất cử chúng sinh nào
Tôi nguyện giữ gìn thân tâm thường an lạc
Cái mà Tiền bối Ai Tu nói chẳng khác gì thiền minh sát cả, tưởng Tiền bối nói gì Hồi quang phản chiếu là cái khác ai dè nghe Ai Tu giảng vậy thì HS hiểu ra chính là cái Tuệ quán đó. Nếu Tiền bối Ai Tu tu tập theo thiền của PG Bắc tông thì HS không dám hỏi thêm, nhân Tiền bối dẫn kinh Kim Cang thì cho HS hỏi cái Ta trong cuộc sống hàng ngày như Ai Tu nè, HS nè, người này người kia là cái Ta nào, phải hiểu thế nào; còn cái Ta trong Kim Cang là cái Ta chân lý thì phải hiểu thế nào cho đúng - ví dụ: cây chuối không có lõi nhưng vẫn sinh trái, nhảy cây con vậy nếu nói con người không có Ta thì cái gì làm cho chúng ta tu hành, cái gì thọ quả, cái gì chứng thiền, cái gì tái sanh ? Xin cám ơn Tiền bối nhiều nhiều.Trích dẫn:
khi hành giã HỒI QUANG PHÃN CHIẾU ....thì sẽ thấy rõ sự hoạt động cũa nội tâm ...nên rất dể XÃ BÕ ..
SỢ mất định ..nghĩa là bạn còn TRỤ CÓ ĐỊNH nhưng nếu bạn không quan tâm thì ĐỊNH chẳng có gì là khó cã ...
hic ....chũ yếu cũa TU HỌC là tìm cầu giãi thoát ...ĐÂU CẦN phãi thế này thế kia
đã nói rõ là NHÌN VÀO NỘI TÂM xem nó hoạt động thế nào ....NẾU NÓI NHƯ BẠN ..THÌ RÕ RÀNG bạn chưa nhìn thấy nhửng CHỦNG TỬ không thiện không ác ...
vì sao ..nhửng chũng tử này ..CHĨ MỚI LÀ NHÂN ...quan trọng là hành giã GIEO nó vào chổ nào thôi
bạn quên mất trong kinh KIM CANG .bồn sư nói rất rõ
tướng TA [NGẢ]
TƯỚNG NGƯỜI [nhân ]
tướng CHÚNG SANH [có đũ lục căn ]
tướng thọ giã [nhận lảnh ]
và
dĩ sắc kiến ngã .âm thanh cầu ngả .........tìm đâu dc NHƯ LAi
bạn nên xem lại ..CỐ GẮNG HIỂU THẾ NÀO LÀ KHÔNG TA ...
**- Xin cho hỏi, vậy tác ý đến hơi thở để cho hơi thở hoà nhập vào ánh sáng HS thấy và thân an tĩnh mà không tác ý tới cảnh xung quanh thì sẽ đắc Sơ thiền phải không ạ? Tâm an lạc, thân hỷ sung mãn, người nhẹ mất trọng lượng, chỉ còn ý thức ở mũi và sự chú ý là những cái HS có. Đúng là cái tâm vi tế nếu không nhờ Tuệ quán thì không thấy được, còn quán niệm xứ nhất là quán Tâm thì thấy rõ mồn một sự sinh diệt của nó dù nhanh thật là nhanh, vừa biết là nó biến mất ngay. Chánh niệm chỉ là chỉ tập trung vào một cảnh duy nhất nên không thấy Tâm vi tế, còn Chánh niệm quán là thấy rất rõ nhờ nương Định nên nhìn rõ các quá trình diễn tiến của Tâm vi tế ấy - HS hiểu đúng ý Ga tê chưa ạ?Trích dẫn:
Khi tâm bạn dừng tạp niệm là đã vào cận định, lúc nầy đừng nghĩ ngợi gì về đắc thiền, quang tướng, âm tướng, hương tướng, tất cả các điều trên đây đều do sự tích tụ điện vũ trụ (prajna) +không khí mà ra, nếu là quang tướng sẽ xuất hiện ở phía dưới mủi sáng như cái bông gòn và to dần, (còn ánh sáng mà bạn thấy trước mặt là huệ quang, không phải quang tướng), chỉ cần tập trung nó và hiệp nhất nó với điểm xúc chạm, đừng tưởng nghĩ về nó một mình, nó (nimitta) + khí + thân hiệp lại thành một và lúc nào cũng giữ đều chánh niệm, nếu ở trạng thái nầy 3 thời thiền liên tiếp , mỗi thời trên 1 giờ 30 phút , bạn sẽ vượt qua sơ thiền, lúc đó tâm và thân an lạc, xung hỹ toàn thân,người như muốn chực bay lên, chỉ còn có cảm giác ở cái đầu là của mình,cái mủi là của mình, tất cả thân mình, chân tay như tan biến, hoặc phình to ra, hơi thở nhỏ dần, lúc nầy bạn cứ tiến vào thiền quán tứ niệm xứ, bạn sẽ tự hỏi lúc đó tôi đã cận định còn niệm đâu mà niệm, không đâu lúc nầy là cái thô tâm bị kềm theo khuông của "chánh niệm chỉ" nên cần phải dụng "chánh niệm quán " , nhưng vi tế tâm bắt đầu khởi, bạn tứ tiến hành dò từng xứ một .
- Xin hỏi thêm, vì sao Ga tê nói ánh sáng mà HS thấy là Huệ quang, ấy từ đâu mà có ? Trong khi quan sát tâm sinh diệt, càng nhìn lâu thì ánh sáng ấy càng rực rỡ.
**- cái này HS đồng ý, nhưng HS gặp trường hợp ngược lại là chỉ có tu tập thiền quán mà bỏ qua thiền chỉ, lại cho là vô ích nên cái kết quả tu quán mà không có chỉ thì 'không bao giờ bộc lộ được vi tế tâm, mà không thấy được vi tế tâm, dù cho định sâu cách mấy tuệ cũng ở mức thường và trung bình, và nó chỉ là tuệ mà không thể là huệ.' Cho nên HS muốn có cả 2 chỉ quán song tu song tiến thì mới đi xa hơn được, nhìn sâu vào bên trong tâm thức được. Xin Ga tê chỉ giáo thêm !Trích dẫn:
Điều quan trọng của đạt nhất thiền là ở cả hai tầng thiền định và quán, không phải chỉ ở tầng định không mà thôi,đây là sự lầm lạc tai hại, vì khi đạt được cận định ở thiền định, người ta không còn muốn bước vào thiền quán, và cho là không cần thiết, nếu không thiền quán thì không bao giờ bộc lộ được vi tế tâm, mà không thấy được vi tế tâm, dù cho định sâu cách mấy tuệ cũng ở mức thường và trung bình, và nó chỉ là tuệ mà không thể là huệ .
**- cái này HS không đồng ý lắm nhưng cũng không phủ định gì thêm. Cái này nghe khẩu khí giống Chú VQ quá, coi bộ trộn pháp rồi nhưng cũng hay đó, HS cũng có trộn pháp nhưng không nhiều như vậy đâu.Trích dẫn:
Cái chính của thiền không phải ở ngồi thiền, mà sau khi xả thiền bạn phải thân hành niệm và mọi tư thế cũng đều tứ niệm xứ, vấn đề chính đừng bao giờ xem đồng hồ, đừng bao giờ so sánh tác dụng thiền của hôm nay và hôm qua, đừng bao giờ mong đắc thiền, cần phải tu nhiều pháp bổ túc như lễ lạy Phật mỗi ngày hàng ngàn lần, niệm tâm từ, niệm ân đức Phật, thỉnh Phật chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, sám hối ,hồi hướng.....Nếu bạn miên mật trong thất 21 ngày , mỗi ngày thọ thực 1 buổi Ngọ, đắc thiền chẳng bao lâu.
**- Nếu nói lý vô ngã thì e rằng HS thấy cái định nghĩa Chơn tâm không có cơ sở, nó chỉ là quy trình vận động của danh uẩn mà thôi, người thường không thấy vì không học không hiểu, còn người có học có hành sẽ hiểu được phần ngủ ngầm kia. Cõi các vị trời Vô Tưởng không có danh uẩn mà chỉ có sắc uẩn, thì trường hợp này là đời sống thực vật chiếm 100% hoạt động sinh mạng của chư vị ấy, dù nhân tái sanh vào đây là tâm quả Tứ Thiền. HS cũng không thấy hứng thú với danh từ Hồi quang phản chiếu. Nhân đây cho HS hỏi Ga tê hiểu thế nào về cái Ta trong kinh và cuộc sống thực tế : như Ga tê nè, HS nè, người này người kia là cái Ta nào, phải hiểu thế nào; còn cái Ta trong kinh Vô Ngã Tướng là cái Ta chân lý thì phải hiểu thế nào cho đúng - ví dụ: cây chuối không có lõi nhưng vẫn sinh trái, nhảy cây con vậy nếu nói con người không có Ta thì cái gì làm cho chúng ta tu hành, cái gì thọ quả, cái gì chứng thiền, cái gì tái sanh ?Trích dẫn:
Phật không bao giờ dạy ngồi thiền là phải quên thân quên hơi thở, mà phải niệm thấy thân mình đang hành, thấy người mình đang thở trong sự tỉnh giác vi tế, để cái chơn tâm của mình nó thấu tỏ được cả cái vô thức 95% điều khiển cái thân.Bạn có thể vẫn sống , thân nằm yên , óc không nghĩ, một đời sống thực vật, 5% hoạt động ý thức không hoạt động, nhưng 95 % hoạt động vô thức vẫn đang chạy trơn tru trong thân tâm bạn, Phật tìm ra 5% kia là phàm tâm, 95% nầy mới là chơn tâm, vì nó tự động, nó thuộc về tánh tự nhiên thuần thục mà không cần ai huấn luyện, chẳng có ai chỉ cho tim phải đập bao nhiêu nhịp /phút khi bạn mệt, hay thở bao nhiêu hơi khi lặn xuống, người tu thường bị cái danh từ mỹ miều hồi quang phản chiệu- tự tánh hiển bày, mà quên đi lời Phật dạy.
Xin cám ơn Ga tê thật nhiều !
do bạn học nhiều nên gọi đo là THIỀN MINH SÁT ..còn học trò chĩ biết hành ...nên chẳng biết gọi nó là gì ..thông cãm cho học trò nhé
nói về cái ta và không ta ...CẢ HAI CHĨ LÀ phương tiện ....
khi bạn NHẬP ĐINH thấy rõ .minh bạch ...quan trọng là CỤ THỂ ....caÍ TA KHÔNG CÒN LÀ ta ...VÌ LÀ tất cã ....thì lúc ấy bạn sẽ hiểu mình nói gì
hãy có gắng hiểu nhé
mình chĩ có thễ nói dc như vậy thôi ..vì trình đô còn kém ..chỉ là biết gì nói đó
bạn thông cãm nha
thân
OKie, vậy cũng đủ rồi, cám ơn Tiền bối Ai Tu thật nhiều, Hoa Sen sẽ cố gắng thực hành rồi hỏi tiếp nha ! thân chào. bên kia bà Minh Đài quăng bom tùm lum, Tiền bối đừng bận tâm bà đó chuyên môn là nghề đu dây điện và bán điện mà !
hic ...mọi người đều là bạn ......đều là người 1 nhà
huhu đừng phận biệt thì mới vào d BÌNH ĐẲNG cũa như lai
thân
Bạn đã ở nhất thiền rất lâu mà không hay, khi thân an tâm an hỹ lạc sinh là đã ở tầng thiền thứ nhất, cho dù bạn không vào thiền định trước , chỉ cần vào thiền tứ niệm xứ và niệm thở cho tới thân tâm an tịnh niệm niệm kế tục giữ chánh niệm là hơi trở ra vào là đang ở thiền định, dù là không phải chánh danh và mục đích là tôi tu thiền định, nhưng nó là đã là, và hiện có tác dụng là thiền định, do đó nhiềupháp tu người Thầy sợ đệ tử lạc vào thiền định, mà không bao giờ muốn bước qua thiền quán, vị định quyến rũ hơn quán (họ cho là vậy, vì vô minh, nhưng thức tế ngược lại) Thầy chỉ cho phép học trò thực hành tứ niệm xứ, mà không bao giờ dạy thiền định, nhưng chú tâm chánh niệm giữ hơi thở cho đều là thiền định rồi.Có phải không? tạp niệm không xâm, không thấy cỉ niệm thở là nó đó!
Bạn hãy hiểu một cách rộng như vầy thiền định là chế tâm thô, thiền quán là chế tâm vi, khi chế tâm vi ở thời thiền nầy , tâm thô thời thiền kế sẽ ít thô hơn, và càng ngày tâm thô này cũng biến, bước vào thiền định vài hơi là định ngay, thì có cần thiền định hay khộng?
Ánh sáng mà bạn thấy quanh thân mình, quanh phòng mình là sự cộng hưởng thân tâm với vũ trụ quang đây là huệ quang , không phải nimitta, nimitta lúc đầu nặng nề chìm ở dưới , khi ngồi đủ định lâu nó sẽ trồi lên, nó giống như cái bùi nhùi lửa trong đêm mưa gió , lập loè, lúc sáng lúc tối, vừa thấy là nó tắt, khi định đủ lâu nó sáng tỏ và to hơn, khi nhìn thấy nó mà quên hợp nhất nó với thân và khí nó cũng tắt, vì lúc đó là mất định.
Bạn tham khảo thêm phần theo dỏi nimitta ở phần an chỉ định janas mà các vị thiền sư đã hướng dẫn , để giữ cho nimitta trở thành ích lợi cho mình.
Đây không phải trộn pháp mà pháp tu thiền nguyên thủy của Thái Lan hầu hết đều có lễ lạy Phật , quán tâm từ, niệm tâm từ cho chúng sanh quanh nhà mình , quanh nơi mình ở, quanh huyện mình , khắp cả nước, cả thế giới, cầu cho mọi người và mọi chúng sanh đều được thâ tâm an lạc pháp lành phát sinh.Niệm ân đức Phật, niệm từ bi, tụng kinh sáng tối.......
Pháp lễ lạy nầy giúp nhiều người bị stress trở nên yêu thích và giúp cho sức khoẻ dẽo dai.Nhưng khi lễ cũng phải niệm thân, chứ không lễ như người thường, thí dụ:
Đứng trước tượng Phật, niệm trong tâm:
Tôi chắp hai tay, giơ lên khỏi đầu, tôi hạ tay xuống, khom lưng cúi đầu , chân phải quỳ trước, chân trái quỳ sau, dập đầu sát đất, hai tay chạm đất , tôi kéo hai tay lên ngang ngực, thân lưng thằng, tôi kéo chân phải ,đứng chân phải trước, đứng chân trái sau......
Cái Ta mà Phật nói là Tự ngã , là cái mà ta tự cho là Ta, khi gặp trở ngại thì cái ta nầy cũng tự biến đổi vì dục giới, thí dụ: bạn cho rằng người bạn yêu phải là gia đình gia giáo, phải có học thức, phải đẹp người đẹp nết, phải thương yêu con nít.
Nhưng khi phải lòng người nào đó, người nầy chẳng có cái gì nằm trong các tiêu chí nầy, bạn cũng sẳn sàng tự bỏ các tiêu chí nầy và lập ra các tiêu chí khác , cho phù hợp với cô ta và yêu lấy cái Tự ngã mới mà quên đi cái Tự ngã trước đó, do đó tự ngã có tính thay đổi theo tình huống, theo đối tượng. Sau khi cưới cô ta, đến một ngày bạn thấy cô ta dằn mặt cha mẹ bạn, đánh đập con cái bạn ( vì ghét con nít) , ăn nói xấc xược......bạn chợt nhận ra cái "tự ngã mới" mà mình tự xây dựng sau nầy làm mình đau khổ .
Tự ngã nầy tôi gọi là tự ngã đối tượng, tức là cái mà mình cho là mình phù hợp với đối tượng , qua các sắc pháp uẩn mà mình cho là hợp lý nhất.
Còn Tự ngã do phàm Tâm ,chính là tánh mà mình bị ô nhiễm do gia đình- xã hội- giòng giống....
Tự ngã do sắc pháp lôi cuốn, khi bạn đọc một cuốn truyện bạn muốn mình nhập vai vào vai chính, nhưng khi đọc Lộc Đỉnh Ký , tự nhiên hụt hẫng, vì thấy mình không thể là hắn được.
Tự ngã chung chung là cái mà mình tự cho là mình của mình , cái tự ngã nầy vô thường và hay biến đổi theo tập khí theo thời gian.
Không có cái không ta , mà chỉ có cái chính ta, cái chơn tâm, ta thật khổ ta biết ta thật khổ, ta muốn thoát khổ, ta đói, ta biết ta đói, ta cần ăn , những sự dối trá sẽ chẳng thể thấy đâu là chơn lý.
-À! nhờ tu Phật mà tôi thấy sướng quá! ăn ít mà thấy trí tuệ sáng láng!
Khi tự ngã che hết bản tâm thì tự ngã ở phía trước, bản tâm không thể thấy, người tu thì bản tâm trở nên sáng tỏ, thấy cái phàm tâm đang khởi nghĩ thấy cái phàm thân đang làm. vậy cái gì thấy, đó là chơn tâm hay bàn tâm thấy.
Bạn tu thiền tứ niệm xứ sẽ có cảm nhận nầy, vì niệm 4 xứ là ai niệm, là bản tâm bạn đang niệm
Thiên quang rực rỡ Chúa Xuân về,
Ðem Ðạo khuyên đời tỉnh giấc mê,
Hiệp sức chung tay xây Thánh Thiện,
Nguyên Nhân mới trọn vẹn câu thề.
VẠN-HẠNH THIỀN-SƯ, Bần Tăng chào mừng chư hướng Ðạo, mừng chư đạo hữu đạo tràng.
Nhân tiết Xuân sang, Bần Tăng đến trước thăm viếng chư đạo hữu, sau có một đôi lời đạo đàm cùng chúc Xuân trên bước đường thế Thiên hành hóa.
Ðã là đồng chung nhiệm vụ, đồng chung sứ mạng nên cảm thông nhau. Tuy xa cách nơi cõi dương gian và miền Phật cảnh, nhưng tâm hồn vẫn còn tưởng nhớ nhau, thì sự xa cách kia không còn là vấn đề. Bần Tăng mong ước chư đạo hữu kiên tâm trì chí để vượt qua những nổi khó khăn mọi mặt trên cõi vô thường nầy mà tăng tiến trên bước đường hành Ðạo, dày công lập đức để sớm trở về cùng đoàn viên nơi non Bồng nước Nhược.
Chư đạo hữu ơi! Nếu lấy theo nhận xét của thế nhân thì xem cõi đời nầy là nơi đủ mùi vị vui buồn cùng sướng khổ, nhưng nếu lấy theo nhận xét của bậc giác ngộ, hay nói xa hơn nữa là sự nhận xét của hàng Tiên Phật, thì cõi đời nầy là chốn sông mê bể khổ. Con người sinh trưởng nơi đây để chịu sự trui rèn đúc giũa để trở nên hàng Tiên Phật sau thời kỳ trả quả nghiệp duyên. Những điều mà thế nhân gọi là vui, là hạnh hưởng, đó là những điều tạm bợ cho con người lấy đó an ủi để chịu đựng bớt căng thẳng thần kinh trong thời kỳ trui rèn đúc giũa.
Có hiểu được như vậy mới quan niệm được hướng đi của con người trong cõi vô thường nầy.
Lời thường nói: "Tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời". Lời ấy không ngoa, nhưng có sai bởi nơi người nhận xét mỗi cách khác nhau.
Chư đạo hữu thử nhìn một cội cây hoặc hoa quả đang lên, mỗi mỗi đều trong luật tiệm tiến, từ bé đến lớn, từ thấp lên cao, theo thời gian trưởng thành. Sự tu tiến của người cũng thế, không phải suốt một đời gây ra bao điều tội ác, chỉ có một giờ hối ngộ là được thành Phật nên Tiên. Nếu quan niệm như vậy thì còn đâu là luật công bình của Tạo Hóa.
Có thể xem đạo nghiệp cùng tác phong đạo hạnh của một người trong kiếp hiện tại mà đoán được trong những kiếp quá khứ. Thế nên người tu hành luôn luôn thận trọng gìn giữ thân tâm từ ngày, từ giờ, từ phút, từ ý nghĩ, lời nói đến hành động.
Vì là kiếp người đang trong lò trui rèn, thì bao nhiêu ngoại cảnh xảy đến rất phức tạp chen lấn trong sự giao tế của nếp sống hằng ngày. Phải cố gắng phân tách lọc lược những điều thuần thiện hạp Ðạo Lý để mà suy, mà nói, mà hành.
Ðường Ðạo tuy rộng thênh thang, nhưng chung qui chỉ có hai lối là: Bến Mê và Bờ Giác. Hễ giác là được Tịnh Ðộ siêu thăng, còn mê thì trầm luân trong lục đạo luân hồi. Trong chỗ giác mê cũng lắm điều phức tạp, tùy theo nhận xét của mỗi người. Có người tự biết mình mê, sớm tìm về nẻo giác. Còn người tuy chưa biết mình mê nhưng được sự chỉ dẫn liền phục thiện để xa lối mê quày về nẻo giác. Trong lúc đó, cũng có người đã giác mà lại giả đò mê. Ðiều nầy mới là trở ngại rất lớn cho sự tiến hóa.
Thế nên hai chữ "Sắc Không, Không Sắc" người tu thường lẫn lộn, nói rằng "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc".
Ðã nói rằng Ðạo, cuối cùng của Ðạo là "Không", mà hữu thể vạn vật đang có kia mà? Còn nói rằng "Sắc" thì sao không vật gì trong vạn loại trường tồn miên viễn mà phải nay đổi mai dời?
Vậy thì người tu phải khổ công tìm học để hiểu và hành cho rõ những điều "Không, Sắc".
Chư đạo hữu ơi! Bần Tăng quan sát qua một vòng thấy phần đông chư đạo hữu đã được thực hành phương pháp tham thiền tịnh định, hoặc một số đạo hữu đang muốn nhập định tham thiền. Bần Tăng cho việc đó là tốt lắm, vì con người trong cõi phàm, muốn thay hồn đổi xác, hoặc xuất thần đến một cõi Phật Tiên, điều sơ đẳng là phải qua được cửa tham thiền nhập định. Nhưng mỗi đạo hữu đã thực hành rồi có thấy được sự nhập định của mình có thật đại tịnh hay chưa? Có xem mà không thấy, có lắng mà không nghe, có ngửi mà không mùi, có ngồi mà không tọa, có suy nghĩ mà không trầm tư chăng? Hay vẫn còn trong trạng thái: càng nhắm mắt lại thấy sự vật càng to tướng, càng tịnh nhĩ càng nghe rõ âm vang, càng tịnh tỷ càng cảm thấy mùi thơm ngào ngạt, càng tịnh tọa càng nghe tay chân mỏi, lưng ngứa ngáy khắp cả châu thân, càng kềm lòng yên định càng nhớ đến trăm muôn ngàn việc còn dở dang bận rộn, càng tịnh tâm càng nhớ đến những ân oán vui buồn tự mấy mươi năm trong quá khứ! Có trả lời được những câu hỏi ấy mới làm chủ và thấy được mức tu tiến của mình.
Thông thường nơi chỗ tịnh là một nơi lặng lẽ xa cách mọi hoạt động thường nhựt của thế nhân, nhưng đó chỉ là hình thức của phần tịnh nơi buổi ban sơ, cố gắng tập làm sao đến khi ngồi giữa chợ đông mà mắt không thấy người, tai không nghe tiếng, mũi không còn biết hơi, thân không còn biết giao động, trí không còn tưởng vu vơ, đó mới thật là Ðại Tịnh. Có Ðại Tịnh thì thần mới tụ, tụ rồi mới xuất phi thăng đến miền Thượng Giới. Khó quá phải không chư đạo hữu? Nhưng không phải khó mà chẳng ai làm được, vì từ chân núi vẫn có xe chạy đến chót núi kia mà.
Như vậy kể cũng nhiều rồi. Bần Tăng mỗi lần gặp chư đạo hữu là cảm thấy phải nói nhiều, nói thêm về phương pháp cùng đường đi nước bước trong phạm vi tu thân hành đạo.
Thông thường, Bần Tăng cũng không quên để lời chúc nhau trong những ngày Xuân đến.
Thi:
Xuân nầy đạo hữu rán lo tu,
Một kiếp tu hành hưởng vạn thu,
Công khó mót bòn không nản chí,
Công trình, công quả rạng công phu.
- nghe huynh nói vậy mà ngạc nhiên quá. HS không nghĩ là trạng thái này là Nhất thiền, chỉ nghĩ ở Cận định thôi, nhưng quả thật là chỉ có ngồi xuống vài giây hít thở là tâm an lạc xuất hiện ngay, ánh sáng xuất hiện, càng ngồi lâu thì càng sáng, nhiều khi ngồi cả giờ vẫn không hay biết là đã ngồi lâu, nhiều khi người nhà gọi thì nói ủa mới ngồi chút xíu mà ai dè là hơn cả giờ rồi. từ trước HS tu quán trước, qua một thời gian thấy tâm mình không đi xa hơn nên thấy thiếu cái định lực nên tập tu định, hồi đó thầy HS có nói người tu quán mà thấy được sinh diệt rõ ràng thì khi qua tu định sẽ dễ nhập định, bây giờ nghe huynh nói vậy mới hiểu. Tuy nhiên bây giờ tỉnh giác quá nên cái nhỏ nhất người ta không nghe, không cảm nhận được thì mình lại thấy quá rõ, nhiều hôm quên được xung quanh nhưng có hôm thì vẫn không quên được, vậy phải buông xả cái thấy, nghe rất tỉnh này để vào một cảnh mà thôi, vì Quán khác Chỉ mà, đúng không huynh?Trích dẫn:
Bạn đã ở nhất thiền rất lâu mà không hay, khi thân an tâm an hỹ lạc sinh là đã ở tầng thiền thứ nhất, cho dù bạn không vào thiền định trước , chỉ cần vào thiền tứ niệm xứ và niệm thở cho tới thân tâm an tịnh niệm niệm kế tục giữ chánh niệm là hơi trở ra vào là đang ở thiền định, dù là không phải chánh danh và mục đích là tôi tu thiền định, nhưng nó là đã là, và hiện có tác dụng là thiền định, do đó nhiềupháp tu người Thầy sợ đệ tử lạc vào thiền định, mà không bao giờ muốn bước qua thiền quán, vị định quyến rũ hơn quán (họ cho là vậy, vì vô minh, nhưng thức tế ngược lại) Thầy chỉ cho phép học trò thực hành tứ niệm xứ, mà không bao giờ dạy thiền định, nhưng chú tâm chánh niệm giữ hơi thở cho đều là thiền định rồi.Có phải không? tạp niệm không xâm, không thấy chỉ niệm thở là nó đó!
- nếu huynh diễn tả kỹ như vậy thì HS không dám cãi, vì HS cũng có tụng kinh và lễ bái Tam Bảo như vậy tuy không có lạy nhiều như huynh thôi, à mà khi làm cái gì mình cũng thấy rõ ràng mà, cảm giác thân thọ rất rõ nên nhiều khi không có niệm 'tui lạy, tui ăn' mà vẫn thấy mình cử động nhịp nhàng như thể mình đang thấy một cái khác.Trích dẫn:
Đây không phải trộn pháp mà pháp tu thiền nguyên thủy của Thái Lan hầu hết đều có lễ lạy Phật , quán tâm từ, niệm tâm từ cho chúng sanh quanh nhà mình , quanh nơi mình ở, quanh huyện mình , khắp cả nước, cả thế giới, cầu cho mọi người và mọi chúng sanh đều được thâ tâm an lạc pháp lành phát sinh.Niệm ân đức Phật, niệm từ bi, tụng kinh sáng tối.......
Pháp lễ lạy nầy giúp nhiều người bị stress trở nên yêu thích và giúp cho sức khoẻ dẽo dai.Nhưng khi lễ cũng phải niệm thân, chứ không lễ như người thường, thí dụ:
Đứng trước tượng Phật, niệm trong tâm:
Tôi chắp hai tay, giơ lên khỏi đầu, tôi hạ tay xuống, khom lưng cúi đầu , chân phải quỳ trước, chân trái quỳ sau, dập đầu sát đất, hai tay chạm đất , tôi kéo hai tay lên ngang ngực, thân lưng thằng, tôi kéo chân phải ,đứng chân phải trước, đứng chân trái sau......
Xin cám ơn huynh đã mất thời gian cho HS, vậy là HS hiểu rồi sẽ thực hành nhiều hơn cho thành thạo.
Vô Định đi rồi còn quay lại. Tâm Vô Định không sáng nên xưng Minh Đài thật tệ quá ! HS nói gì kệ HS, Vô Định lo cho Vô Định đi chớ có suy bụng ta ra bụng người, sao biết HS soi gương = lưng ? nói năng nhăng nhít !
- đây chính là cái mà HS tìm kiếm. Vâng, HS sẽ suy nghĩ kỹ về điều này.Trích dẫn:
Khi tự ngã che hết bản tâm thì tự ngã ở phía trước, bản tâm không thể thấy, người tu thì bản tâm trở nên sáng tỏ, thấy cái phàm tâm đang khởi nghĩ thấy cái phàm thân đang làm. vậy cái gì thấy, đó là chơn tâm hay bàn tâm thấy.
Bạn tu thiền tứ niệm xứ sẽ có cảm nhận nầy, vì niệm 4 xứ là ai niệm, là bản tâm bạn đang niệm
Đây là cái Ta mà HS nghĩ ngợi mãi, nay tìm thấy trong bài giảng Vô Ngã Tướng của Thiền Sư Mahasi :
http://www.budsas.org/uni/u-kinhvnt/kvnt06.htm
Saṅkhārā, Hành, là nguyên động lực đưa đến những hành động có ý muốn bằng thân, khẩu, ý. Theo ý nghĩa trừu tượng, đây là năm mươi hai tâm sở -- do tác ý, cetanā, dẫn đầu. Những tâm sở nầy có ảnh hưởng trong một phạm vi rộng lớn. Năng lực làm động cơ nằm phía sau tất cả những hành động bằng thân như đi, đứng, ngồi, nằm, co vào, duỗi ra và cử động là saṅkhārā, hành; những hành động bằng khẩu cũng do chính saṅkhāra nầy thúc đẩy. Những lời nói của Sư (Ngài Mahāsi Sayadaw) hiện thời cũng do saṅkhārā, hành, làm động cơ. Khi nói và đọc kinh, mỗi tiếng được thốt ra đều do saṅkhārā. Cũng chính saṅkhārā nằm phía sau mọi ý nghĩ và mọi tính toán trong tâm.
Thông thường người ta nghĩ rằng những hành động -- bằng thân, khẩu, ý -- ấy là do "tôi, tự ngã của tôi" thực hiện, và cái "tôi", người hành động ấy, là thường còn. Nhưng vị hành giả có chánh niệm quán chiếu di động phồng lên xẹp xuống của bụng và thận trọng ghi nhận mọi sinh hoạt của tâm, ngay vào lúc nó khởi phát. Vị ấy nhận thức rằng cetanā, tâm sở tác ý, liên hợp với tâm tham (lobha) làm phát sanh ý muốn và thúc đẩy ta làm theo những gì nó muốn. Người hành thiền phải ghi nhận những sinh hoạt tâm linh ấy, "ưa thích," "muốn". Khi liên hợp với tâm sân, tác ý phát hiện là tình trạng nổi nóng, hay giận dữ. Khi tác ý liên hợp với tâm si, ta nghĩ đến những hành động sai lầm; những ý tưởng sai lầm ấy phải được ghi nhận. Khi liên hợp với ngã mạn, tác ý thổi phồng tự ngã, và ta phải loại bỏ bằng cách niệm, "ngã mạn, ngã mạn." Khi liên hợp với lòng ganh ghét, đố kỵ, hay bỏn xẻn, tác ý liên hợp với tánh ganh tỵ và bỏn xẻn, phải được ghi nhận đúng như vậy.
Khi tác ý phát sanh liên hợp với đức tin và niềm tin vững chắc ấy làm phát triển tâm đạo nhiệt thành và lòng tôn kính Phật, Pháp, Tăng, thúc đẩy ta lễ bái Tam Bảo. Những tư tưởng ấy được ghi nhận là đức tin, tâm đạo và lòng tôn kính, ngay khi nó khởi phát. Hành động bất thiện (akusala) đưa đến quả dữ, nhưng tác ý có thể chận đứng, cắt đứt luồng tư tưởng bất thiện, khuyến khích ta gạt bỏ tư tưởng bất thiện ấy. Hành động thiện (kusala) dẫn đến quả lành; tác ý có thể thúc giục ta theo chiều hướng thiện ấy. Tác ý có thể phát hiện dưới nhiều hình thức và phải được ghi nhận đúng như vậy. Tác ý có thể phát hiện liên hợp với niệm, chăm chú vào một sự kiện nào, vào một lúc nào, một hành động thiện tương tợ có thể được thực hiện. Tác ý có thể khởi sanh theo nhiều phương cách khác nhau, và thái độ tâm linh của những chặp tư tưởng ấy cũng phải được ghi nhận. Khi tâm từ (mettā) phát sanh cùng với tác ý (cetanā) thì có những cảm nghĩ từ thiện đối với người khác, những tư tưởng muốn làm cho người khác có hạnh phúc. Với tâm bi, tác ý phát sanh liên hợp với lòng thương hại kẻ khác và những suy tư tìm cách giúp người thoát khỏi cảnh bất hạnh. Tất cả những thái độ tâm linh ấy phải được thận trọng ghi nhận.
Người thường không thể ghi nhận những hiện tượng sắc và danh ngay vào lúc nó khởi sanh, tin tưởng rằng hành (hay tâm sở tác ý) là tốt đẹp và hoan hỷ thỏa thích trong ấy. Ðó là dính mắc với tham ái. Nghĩ rằng những việc làm ấy là của ta, do chính ta thực hiện, rằng ta có thể làm giỏi hơn những người khác, đó là dính mắc với ngã mạn. Nghĩ rằng những hoạt động như đi, đứng, ngồi, co vào, duỗi ra, và di động, do chính ta thực hiện -- "Tôi đi, chính tôi làm điều ấy; tôi nói, chính tôi nói; tôi nghĩ, chính tôi nghĩ; tôi thấy, tôi nhìn, tôi nghe, chính tôi thấy, nghe, nhìn, và lắng tai" -- là dính mắc với tà kiến. Nghĩ rằng sự dính mắc ấy nằm bên trong người hành động, được gọi là kāraka attā, tin tưởng rằng tất cả những hành động -- bằng thân, khẩu và ý -- đều do chính ta thực hiện. Tin tưởng rằng cái "ta" ấy, vốn nằm bên trong ta, đi khi nó muốn đi, đứng, ngồi, co vào, duỗi ra, nói, và suy tư khi nó muốn, khi nó quyết định, và chính ta điều khiển.
Huynh Ai Tu nói hay wa'... Hiện mỗi khi Thiền , QL thường mặt-Miệng vẫn nở Nụ cười suốt buổi Thiền. Nhiều khi cố xã bỏ ..Mà rồi nhìn lại vẫn đang cười mà kog hay. Nó cứ gắn liền suốt buổi Thiền như thế. Vậy có thể gọi là "Hỷ" là "Lạc" được kog vậy Huynh ?... Rồi sau đó ,đi tiếp thế nào vậy Huynh... huynh hảy nói cái thật hành của Huynh nha.
Tới đây xin các Quý ĐH cho QL gôm vài ý mà QL cũng đang vướng mắc ....Thông wa đây có thể giúp cho QL thêm sáng tỏ nha. Kính,
Trích từ Huynh ..hoasenngancanh..:
"...Đề mục hiện tại của HS là hơi thở, tới đoạn nó phát sáng thì mất dấu, không còn tạo ấn tượng mạnh cho HS nữa, vậy HS có nên đổi đề mục khác để sự tác động của nó mạnh hơn không? "
* QL cũng có điểm kẹt giống như vầy nà... Mà Ánh sáng trước mắt thì kog biết diễn đạt làm sao!!
Trích từ Huynh Ai Tu ..:
"...CHÍNH VÌ LẼ NÀY MÀ RẤT NHIỀU HÀNH GIÃ BỊ DÍNH MẮC ...cho nên mới bảo ĐỪNG QUAN TÂM HƠI THỠ ..cứ đễ TỰ NHIÊN ..
hơi thở vốn là sự sống ...cho nên muốn quên hơi thở là 1 việc rất KHÓ LÀM
...MUỐN NHẬP ĐỊNH ..điều cơ bãn là hành giã phãi quên THÂN và HƠI THỠ .
LỜI BẠN NÓI ỡ trên ..thật ra bạn chưa quên dc thân ...nhưng vì nó quá VI TẾ cho nên bạn ko thấy ...RÕ RÀNG là bạn còn trụ nơi THẤY BIẾT
TÂM AN LẠC SÁNG SUỐT ..cái này là bạn đang đứng trước cữa cũa ĐỊNH chĩ cần bạn BUÔNG XÃ ...cái thấy biết và HỒI QUANG PHÃN CHIẾU tức bạn nhìn vào bên trong .
qua lời bạn diển đạt ..nếu bạn HỒI QUANG PHÃN CHIẾU thì trong vòng 7 ngày ..là chậm nhất ..bạn sẽ nhập định
bạn không cần thay đổi cách thở ...mà bạn CẦN HỒI QUANG PHÃN CHIẾU ...vì đó chính là CÁCH DUY NHẤT đễ bạn quên hơi thỡ mà đi vào định
nhửng diều bạn hõi và nghĩ ỡ trên đều đúng cã
hy vọng nhửng kiến giãi cũa học trò có ích cho bạn
thân."
* QL thử hành theo cách này xem sao nha..
Trích từ hoasenngancanh :
"...Xin cho hỏi :
- quên hơi thở thì có mất quang tướng không ? vì nghe nói mất quang tướng là mất tâm định ?
- quên thân bằng cách nào ?
- trong thiền minh sát thì tâm an lạc sáng suốt rất quan trọng cho nên HS chứng tuệ Hành xả dễ dàng, nhưng trong định thì HS lại không vào được cửa Sơ định. Hồi quang phản chiếu trong Quán là nhìn vô tâm thức xem sự thay đổi của tâm thức, vậy trong thiền Định là nhìn vô cái gì, xin nói rõ hơn. Xin cám ơn Tiền bối. "
* Cũng là câu hỏi của QL ... Kính xin các Tiền bối vui lòng nói rỏ thêm ạ!
Và cuối cùng thì cũng giống... tuy rằng kog được như Huynh hoasenngancanh. Nhưng những gì mà hoasenngancanh hỏi ..Cũng là QL mong biết.. ĐH ga tê ga tê, Huynh AITU... hoan hỷ mà nói Pháp .Nhưng vẫn còn nhiều điều QL thật tâm chưa thông tỏ... Lần nửa Kính các Bậc Tiền Bối đã thật vượt wa các tầng THIỀN... Xin hảy Từ Bi mà nói Pháp..:not_worthy:
Vài hàng ,Mong được tỏ Ngộ... Như có gì kog phải. QL xin được tha thứ.
Kính.
P/S : Xin dùng cái Chân Thật đã Thông Đạt (..Đừng viện dẫn từ Kinh sách.)
A DI ĐÀ PHẬT
huynh QLac chịu khó xem lại bài của huynh Ai Tu ở trang 40:
và của huynh Ga tê trả lời cho Hoa Sen trong trang 41 đoạn: Khi tâm bạn dừng tạp niệm là đã vào cận định,...Trích dẫn:
rất đơn giãn ..NGOÀI KHÔNG DÍNH MẮC TRẦN CÃNH gọi là thiền ..TRONG 1 niệm không rời .không TÁN LOẠN gọi là ĐỊNH ..
xem xét hơi thở nhưng đừng quan tâm nhiều ...cứ TỰ NHIÊN BUÔNG THÃ
hít thỡ bình thường .chĩ cần nhớ KÝ SỐ ko quên là tốt rồi ...đến khi hơi thở nhẹ dần ...
THẤY RÕ ĐANG KO CÓ NGƯỜI NGỒI
và đoạn:Bạn đã ở nhất thiền rất lâu mà không hay,
hy vọng sẽ giúp ích cho huynh.
quả thật không thể nói được , chỉ dùng ý mà hiểu rồi hành thì may ra . Cơ bản lại không nằm ở chỗ đó ... hic hic
.... nếu có mục đích để vượt qua thì ....hic hic ... lại rằng nó ko có cửa ...
- cái vụ cười này HS cũng thường xuyên nhưng khác với QL một chút là HS biết rõ HS đang cười, và trong tâm của HS có hỷ lạc rất mạnh mẽ, nhiều khi chưa vào định tâm được HS nghĩ đến sự an lạc của Ân Đức Phật thế là lòng hân hoan, mỉm cười, tâm nhẹ nhàng hơn và tâm định xuất hiện, đây là cách làm ngược của HS để dẫn tâm vào định những khi tâm khó vào định.Trích dẫn:
Huynh Ai Tu nói hay wa'... Hiện mỗi khi Thiền , QL thường mặt-Miệng vẫn nở Nụ cười suốt buổi Thiền. Nhiều khi cố xã bỏ ..Mà rồi nhìn lại vẫn đang cười mà kog hay. Nó cứ gắn liền suốt buổi Thiền như thế. Vậy có thể gọi là "Hỷ" là "Lạc" được kog vậy Huynh ?... Rồi sau đó ,đi tiếp thế nào vậy Huynh... huynh hảy nói cái thật hành của Huynh nha.
cửa vào sơ thiền ... hic hic ... là ly tướng ... tự ly ... vào được sẽ thấy ... mặt trăng , mặt trời , các vì tinh tú chiếu soi vào mình .... khắp nơi là ánh sáng quang minh không ngăn ngại ... thân tâm rỗng lặng ... hơi thở không có ... cảm giác lơ lửng ... hic hic ... nhẹ nhàng , thanh thoát , ... không có niệm khởi . nếu khởi niệm thì ... liền được như ý ...
nếu thân bắt đầu có khí chuyển động mạnh thành từng đợt , lúc như thác nước , lúc như mưa rơi , từng hạt ... mát lạnh ... hòa khắp ... thì ... hic hic ....cửa vào của nó là ly tâm ...
Trích dẫn:
Bạn đã ở nhất thiền rất lâu mà không hay, khi thân an tâm an hỹ lạc sinh là đã ở tầng thiền thứ nhất, cho dù bạn không vào thiền định trước , chỉ cần vào thiền tứ niệm xứ và niệm thở cho tới thân tâm an tịnh niệm niệm kế tục giữ chánh niệm là hơi trở ra vào là đang ở thiền định, dù là không phải chánh danh và mục đích là tôi tu thiền định, nhưng nó là đã là, và hiện có tác dụng là thiền định, do đó nhiềupháp tu người Thầy sợ đệ tử lạc vào thiền định, mà không bao giờ muốn bước qua thiền quán, vị định quyến rũ hơn quán (họ cho là vậy, vì vô minh, nhưng thức tế ngược lại) Thầy chỉ cho phép học trò thực hành tứ niệm xứ, mà không bao giờ dạy thiền định, nhưng chú tâm chánh niệm giữ hơi thở cho đều là thiền định rồi.Có phải không? tạp niệm không xâm, không thấy chỉ niệm thở là nó đó!
---------------------------------------------------------------------------------------
Đoạn này đọc tới đọc lui nó không phải là thiền ,mà là an TỊNH ,GIỮ HƠI THỞ ,tâm giữ chánh niệm ,niệm niệm hành tứ niệm xứ ,không phải thiền mà mới AN TỊNH mà thôi.
Còn thấp hơn sơ thiền quán mà MINH ĐÀI nói nữa
Cái này mới là Khán tịnh chứ cũng chưa có An tịnh nữa mđ ah, khán tịnh tức là thưởng thức cái im lặng vốn có, hay giống như là người ngồi nhìn bờ sông có mây trôi lặng lẽ vậy. Nhưng cái hay này là sông và mây ở trong lòng, vậy cũng là tốt rồi.
Thực ra Thiền giúp con người trở lại năng động chứ ko phải là đè bẹp năng động, sự hợp lý ở đây là Thiền giúp người ta dẹp đi cái động vô ích (do kiết sử và điều kiện giới hạn) và tăng tiến cái động có ích của nhận thức, tất nhiên là nhận thức trong tình trạng hiểu thấu sự rơi rụng mất thân tâm - là trút bỏ đc gánh nặng xưa nay của thân tâm mình, có lẽ bắt đầu bằng tư duy hoặc là Diệu quán sát trí; Đại viên kính trí,..v..v...
*Lâu lắm mới thấy mđ nói chuẩn ko cần chỉnh, tôi thấy cái ánh sáng của từ bi trong mắt mđ rồi đó. Cố gắng lên!
Biết thì nói, không biết thì thôi, không ai nói mình không biết, đây là giai đoạn tu tập của thiền sinh ở trường thiền Pa -Auk, nói về Tịnh, các cấp Định, và các bậc thiền và hãy tự hỏi vì sao có hàng ngàn thiền sinh từ các nơi trên thế giới về đây tu tập?
Trích bài PHƯƠNG PHÁP TU TẠI THIỀN LÂM PA-AUK (Thích Giác Hoàng)Trích dẫn:
2. Tâm Tịnh (Cittavissudhi): Để tâm tại nhân trung theo dõi hơi thở ra vào (ānāpānassati) một cách thuần thục. Giai đoạn này định mà hành giả đạt được gọi là Đẳng Phần Định (Sadisūpacāra).
Với sự nỗ lực của hành giả tiếp tục niệm hơi thở ra vào một cách thuần thục hơn, các phiền não một phần nào lắng dần thì 3 thiền tướng (nimitta) sau đây xuất hiện: (1) Biến tác tướng (Parikamma-nimitta): hành giả sẽ thấy những sợi khói có màu lam nhạt xuất hiện trước mặt. (2) Thủ tướng (Uggaha-nimitta): màu trắng, (3) Tợ tướng (Paṭibhāga-nimitta): màu sáng hoặc một khối trong suốt như viên ngọc. Một khi 3 thiền tướng trên xuất hiện, có thể nói hành giả bắt đầu vào được Cận Định (Upacāra-samādhi).
Đây là giai đoạn hơi khó khăn và mất thời gian đối với một số hành giả, đòi hỏi sự nhẫn nại và kiên trì của hành giả rất nhiều. Nếu thành tựu được giai đoạn này rồi thì các giai đoạn kế tiếp có thể đi nhanh hơn.
Tiếp đến hành giả được hướng dẫn thiền tập bốn trạng thái thiền Sắc giới. HT thiền chủ là vị hướng dẫn rất thành tựu về bốn trạng thái thiền này. Có một vị Sa-di khoảng 10-12 tuổi đang ở đó, được HT ấn chứng là xuất nhập sơ thiền đến tứ thiền tự tại. Nghe nói, nhiều vị tu ở đó khoảng 5 – 6 tháng đều thành tựu bốn thiền sắc giới này cả.
Qua được tứ thiền, hành giả được hướng dẫn quán niệm 32 thể trược (kōṭṭhāsa) trong thân, Quán niệm xương trắng (Aṭṭhikōṭṭhāsa), Quán niệm Ka-si-na màu trắng (Ōdātakasiṇa).
Qua được giai đoạn trên, hành giả được dạy 4 trạng thái thiền Vô sắc giới (Arūpa-jhāna). Trong một số trường hợp Tứ thiền Vô Sắc không cần thiết dạy cho thiền sinh, nên trong hoạ đồ của HT không thấy đề cập tới, nhưng trong thực tế Ngài có dạy cho một số thiền sinh tại thiền viện.
Qua Tứ Thiền Sắc Giới, các phép quán niệm như: Từ Bi Quán Niệm (Metta Kammatṭṭhāna), Ân Phật Quán Niệm (Buddhānussati kammaṭṭhāna), Bất Tịnh Quán Niệm (Asubha kammaṭṭhāna), Tử Quán Niệm (Maranānussati kammaṭṭhāna) đều được hướng dẫn.
Bốn phép quán niệm trên được gọi là bốn phép Quán Niệm Phòng Hộ (Caturārakkha kammaṭṭhāna), các vị độc cư núi rừng cần phải học, đôi khi còn học trước cả các phép quán niệm khác.
Từ giai đoạn tập nhập sơ thiền đến giai đoạn an trụ tâm trên tứ đại để quán chiếu, hành giả có thể rơi vào hai trạng thái định: An Chỉ Định (Appanā Samādhi) và Cận Hành Định (Upacāra Samādhi).
Đỉnh cao của phép quán này trong giai đoạn này là quán niệm Giới Đề Mục (Dhātukammaṭṭhāna), Bốn đại (Mahābhūta) và các đặc tính, tướng trạng (Lakkhaṇa) của nó.
Đây là hướng tổng quát của lộ trình tu tập, nhưng không nhất thiết hành giả nào cũng đi rập khuôn. Có vị được hướng dẫn chọn một trong 4 đại, ví dụ quán Kasiṇa trắng (Ōdātakasiṇa) ngay khi đạt được tứ thiền. Có trường hợp từ Tam thiền hành giả được dạy Từ Bi Quán Niệm (Metta Kammaṭṭhāna), và cũng có thể học cách quán 3 tâm vô lượng khác nữa. Điều này tuỳ thuộc vào căn tính của thiền sinh và sự linh động uyển chuyển của Thiền Sư. Nói tóm lại, các đề mục trong 7 phần của thiền định đều được hướng dẫn: (1) mười đề mục trước mặt (kasiṇa), (2) mười đề tử thi (asubha), (3) mười đề tưởng nhớ (anussati), (4) bốn đề vô lượng tâm (brahma-vihāra), (5) bốn đề vô sắc (ārupa), (6) một đề thực phẩm nhơ bẩn (āhāre-paṭikūla-saññā), (7) một đề liễu tri tứ đại (catudhātu-vavatthāna). Và dĩ nhiên lộ trình đó không nhất thiết phải đi hết một cách chi tiết. Ví dụ, hành giả được hướng dẫn chọn một trong 4 đại quán niệm, khi quán niệm thành công, các đại khác có thể được giản lược.
Như đã nói ở trên, đôi lúc thiền sinh không thành tựu khi khởi động bằng quán niệm hơi thở thì thiền sinh chọn lộ trình thứ hai như sau:
Chọn một trong 4 đại để quán các tướng trạng của nó. Khi 3 thiền tướng xuất hiện thì các phép quán 32 thể trược trong thân (thirty-two kōṭṭhāsas), quán xương trắng (Aṭṭhikōṭṭhāsa), Ka-si-na trắng (Ōdātakasiṇa) được dạy tiếp. Sau đó qua 4 thiền sắc giới (rūpa-jhāna), rồi qua 4 pháp quán niệm phòng hộ (Caturārakkha kammaṭṭhāna).
3. Kiến Tịnh (Diṭṭhi-vissuddhi)
Nhờ sự thành tựu của Tâm Thanh Tịnh, hành giả có thể tiếp tục quán sát danh sắc và thành tựu bốn trí: (1) Sắc Nhiếp Thọ Trí (Rūpa pariggaha-ñāṇa), (2) Danh Nhiếp Thọ Trí (Nāma pariggaha-ñāṇa), (3) Danh Sắc Nhiếp Thọ Trí (Nāmarūpa pariggaha-ñāṇa), (4) Danh Sắc Sai Biệt Trí (Nāmarūpa vavatthāna-ñāṇa). Bốn loại trí này gọi tổng quát là “Danh Sắc Thức Biệt Trí” (Nāmarūpa pariccheda-ñāṇa) [1].[1] Đây là Trí đầu tiên hành giả đạt được trong 16 loại trí từ Kiến Thanh Tịnh cho đến hết lộ trình của nó. Hành giả trong giai đoạn này có thể nhận chân và phân biệt thế nào là danh và sắc một cách tường tận, nghĩa là quán chiếu sự sanh sanh diệt diệt của danh sắc một cách rõ ràng. Một số vị gọi là tách được danh ra khỏi sắc và từ đó làm chủ một phần nào thân tâm của mình.
4. Đoạn Nghi Tịnh (Kaṅkhāvitaraṇa-vissuddhi)
Trong lộ trình này, hành giả được hướng dẫn Quán Thập Nhị Nhân Duyên. Hai phương pháp được chọn để quán đó là Phép Quán Thứ Nhất và Phép Quán Thứ Năm. Tôi nghe những vị tu lâu năm ở đó nói lại, thành tựu hai phép quán này, hành giả có thể nhìn thấu được một kiếp, hai kiếp hoặc 3 kiếp trong quá khứ của mình. Thành tựu hai phép quán này, hành giả đạt được Duyên Nhiếp Thọ Trí (Paccayapariggaha-ñāṇa) [2]. Đây là trí thứ 2 trong 16 loại trí trong lộ trình Thất Tịnh – Thập Lục Quán Trí. Tri kiến đạt được của hai giai đoạn 3 và 4 được gọi là Tri Biến Tri (Ñāta-pariññā).
5. Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh (Maggāmaggañāṇa-dassanavissuddhi)
Trong giai đoạn này hành giả đạt được hai loại trí, đó là: Tư Duy Trí (Sammasana-ñāṇa) [3] và Sinh Diệt Tuỳ Quán Trí (Udayababaya-ñāṇa) [4]. Hai trí trên cũng có thể gọi tắt lại là Độ Biến Tri (Tīraṇa-pariññā). Trong giai đoạn này hành giả thật sự đi vào lộ trình Minh Sát Chiếu Kiến (Vipassanā-kammaṭṭhāna). Đặc tính (lakkhaṇa), tác dụng (rasa), hiện trạng (paccupaṭṭhāna), và cận nhân (padaṭṭhāna) của các sự vật hiện tượng được nhìn đúng như bản chất, tướng trạng của chúng.
6. Hành Đạo Tri Kiến Tịnh (Paṭipadāñāṇadassana-vissuddhi)
Ở giai đoạn này hành giả đạt được 9 loại trí kế tiếp, đó là: Hoại Diệt Tuỳ Quán Trí (Bhaṅga-ñāṇa) [5], Bố Uý Hiện Khởi Trí (bhaya-ñāṇa) [6], Quá Hoạn Tuỳ Quán Trí (Ādinava-ñāṇa) [7], Yểm Ly Tuỳ Quán Trí (Nibbidā-ñāṇa) [8], Dục Giải Thoát Trí (Muñcitukamyatā-ñāṇa) [9], Thẩm Sát Tuỳ Quán Trí (Paṭisaṅkhā-ñāṇa) [10], Hành Xả Trí (Saṅkhārupekkhā-ñāṇa) [11], Tuỳ Thuận Trí (Anuloma-ñāṇa) [12], Chủng Sanh Trí (Gotrabhu-ñāṇa) [13].
7. Tri Kiến Tịnh (Ñāṇadassana-vissuddhi)
Tới giai đoạn này nghĩa là hành giả đã vô được 4 Đạo (Magga). Trong giai đoạn này, 3 trí sau sẽ hiện khởi: Đạo Trí (Magga-ñāṇa) [14], Quả Trí (Phala-ñāṇa) [15], và cuối cùng là Tỉnh Sát Trí (Paccavekkhaṇa-ñāṇa) [16].
Mười ba (13) loại trí từ giai đoạn thứ 6 đến thứ 7 có thể gọi tắt lại là Đoạn Biến Trí (Pahāna-pariññā). Tới đây, đối với một hành giả, ” sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, không còn trở lui đời sống này nữa.”
********************************
Đây là lộ trình căn bản mà HT và các vị giáo thọ ở thiền viện hướng dẫn thiền sinh tu tập. Vì thoả mãn tính tò mò nghiên cứu, và cũng để giúp cho những vị không biết tiếng Anh (tôi đã gặp ở Miến và ở vài nơi khác) bất đắc dĩ trình bày tóm tắt lộ trình tu trên.
(10/29/2010) (Xem: 8551) của Tác giả : Thích Giác Hoàng
Bạn đã mô tả rất đúng, tuy nhiên theo tôi mình ko nên dùng từ ly tâm - đây lại là chấp ngã, vì thấy rằng tâm có thật (do vậy mới có ly). Cái Tâm bạn nói tới theo tôi hiểu là tâm đã nằm yên trong lòng Mẹ của nó - Mẹ nó chính là Bổn tánh thanh tịnh của các pháp, nó nằm trong tay Mẹ và nghe tiếng Mẹ ru, nó mở mắt, nghe ngóng và thấy an lành, sự an lành như là suối chảy vào mùa Thu. Mọi thứ hiện tướng mà bạn nói là thể hiện của cái an lành đó: ánh sáng tràn hư không, câu ru rì rào an nhiên, thân thể ko trọng lượng, rồi nó thấy nó như hòa vào tất cả ánh sáng và âm thanh ko ngăn ngại. Nó ko thấy nó là nhỏ bé, cũng ko thấy là lớn, cũng ko thấy là trung tâm. Nó trọn vẹn trong 1 Niệm. Người học Đạo sẽ biết Niệm đó là gì.
Sơ thiền làm gì có nhập định , xin hỏi bà thế nào là nhập định?Bà vọng ngữ rồi, bài dài như vậy tôi vừa post lên bà đã đọc qua hết ư?Tọi post lúc 28-02-2012, 04:12 PM , bà đọc và trả lời có 7 phút. Kinh thế!
Thật là tài tình he.
Bài nầy không phải của tôi mà của Thầy Thích Giác Hoàng sang Myanma học thiền và ghi lại.Ở VN cũng có nhiều vị tu thiền nhiều năm không kết quả , sang đó một tuần đắc sơ thiền và nhị thiền.
Bạn Hoa Sen ơi , hình như bạn chưa rảnh phải không? còn tôi chẳng muốn trả lời.
Xin chùi bút vậy!
Bái tạ
Trong mỗi bật thiền đều có hỷ lạc tịnh định xã ,cũng như động rồi lắng xuống rồi im lặng lắng đọng của THÂN TÂM , nhưng cái diễn hoạt của sơ thiền là tầm ,tức là do tâm tìm kiếm ,chưa phải cái tự nhiên mà có của nhị thiền ,tam thiền ,và tứ thiền ,cho nên mỗi khi bạn bị MINH ĐÀI nói động ,thì TÂM vẫn bị quấy đục ,là như vậy
nói cho dễ hiểu sơ thiền là cái suy nghỉ của trẻ ,chưa ý thức
LÀm gì mà có cái tự nhiên mà có của nhị tam tứ thiền, khi đã đạt sơ thiền là đã gần hết tầm gần hết tứ rồi, chỉ còn sơ tâm vi tế và một ít thô tâm tồn tại thôi.
Xin hỏi Tứ thiền có hỷ lạc tịnh định không?
Nếu có thì nó đang ở nhị thiền chưa qua được tam thiền nữa! Hết biết!
Tâm tôi không hề vấn đục vì phải cải với bà đâu, mà tôi chỉ mong bà hãy chơn thành với chính mình, hãy thương thân mình một chút, để sống và tu tập cho mình, chớ nên khoa trương quá mức , cho rằng cái gì ta cũng biết ta cũng đã qua, nhưng thực tế thì sao?
Một cái thùng rỗng to tướng , đương nhiên càng gõ thì tiếng càng vang , nhưng làm thế nào để được giải thoát trong khi cái tâm chơn thành không hiện hữu trong chính bản thân của bà.
Ha ha một câu nói đáng ghi vào từ điển, người thiền sinh nào không mong qua được sơ thiền, Hoa Sen qua mà còn không biết chắc mình đã qua! không học tiểu học mà đòi đi học đại học sao?
Về thiền ga tê chỉ biết tới đó, xin kiếu để còn kịp thời thiền chiều.
bye!
thân chào chư ĐỒNG HOC
hoc trò vì ít đọc kinh sách nên đôi khi ko hiễu những từ như sơ thiền ..nhị thiền gì đó ..
nhưng học trò khi thực hành pháp THỠ ..thì có một khoãng thời gian sau khi thiền khoãng 45 phút trỡ lên thì ..
HỌC TRÒ THẤY RÕ RÀNG CÁI THÂn NÀY LÀ NHỮNG HẠT TRẮNG TRONG CÓ NHÂN TRẮNG Ỡ CHÍNH GIỮA những hạt này là những hạt mà giữa những trưa nắng nóng bay trong hư không ....
vì học trò không hiễu biết gì về sách vỡ THIỀN nên chẵng hiễu trạng thái này là gì ..nhưng khi nó xuất hiện thì tất cã bệnh đau nhức sưng trặc tự nhiên bến mất sau khi xã thiền ....
có lẽ do nhờ hành trì miên mật nên học trò khi thì đang ăn cơm nhập định ..khi thì đang đạp xe ngoài đường cũng nhập định ...
nhưng có cái hay là thường NGỘ công án ..vào những lúc suy niệm
có 1 điều học trò muốn TÂM SỰ với các bạn ..là học trò biết ..hiểu ..nhưng lại không biết cách diển đạt vì trình độ học thức kém lắm .
trong diển đàn này có 1 THIỆN TRI THỨC ..đả thật hành ..và đũ trình độ nói cho các bạn nghe vị này hiễu biết hơn học trò rất nhiều ....nhưng từ nay mong các bạn chĩ nên thão luận và hõi những điều cần thiết ..đừng tranh luận nữa
nickname của vị này là QUINSHIHUAN..các bạn nên tham khão ý kiến cũa vị này ..còn học trò xin đừng lại ỡ đây
thân
à quên nỬA ..mình còn 1 kinh nghiệm cuối hy vọng giúp đươc các bạn
ĐÓ LÀ ....ĐỪNG QUAN TÂM GÌ CÃ ..CỨ chăm chú vào đề mục ....rồi khi quên cã đề mục ..một cách TĨNH THỨC cá bạn sẽ hiểu thế nào là NHẬP ĐỊNH
THÂN