Phật gieo mạ - Ba-ra-hoa-đa

Ba-ra-hoa-đa là chữ phiên âm của tiếng Phạn là : Bharavadja, hay nói đầy đủ là Kasibharavadja. Là tên của một tu sĩ Bà-La-Môn ở xứ Magadha nước Ấn Độ.

Vị Bà-La-Môn nầy hỏi Đức Phật Thích Ca là Đức Phật cày và gieo mạ như thế nào ?

Trong Kinh Tạng của Phật giáo, có chép câu chuyện về Đức Phật Thích Ca gieo giống và cày cấy như sau đây :

Một ngày kia, Đức Phật đến một làng theo Đạo Bà-La-Môn của xứ Magadha. Lúc ấy có lối 500 người đang chuẩn bị ra đồng làm việc cho Ông Bà-La-Môn giàu có tên là Ba-ra-hoa-đa. Đức Phật đắp y mang bát đến nơi mà người ta đang phân phối vật thực và đứng sang một bên.

Ông Bà-La-Môn Ba-ra-hoa-đa thấy vậy nói :

- Nầy Tôn giả ! Tôi cày và gieo, mới có lương thực cho tôi ăn. Tôn giả cũng phải vậy, ông cũng phải cày, gieo, và sau đó ông ăn.

Đức Phật đáp :

- Nầy ông Bà-La-Môn ! Như Lai cũng là một nông dân, cũng cày, và gieo. Cày và gieo xong thì Như Lai ăn.

- Nhưng mà tôi có thấy ông cày đâu ! Cái cày, cái ách, lưỡi cày và bò kéo của Tôn giả đâu mà tôi chẳng thấy, mặc dầu Tôn giả nói : Tôn giả cày, gieo. Tôn giả tự xưng là nông dân nhưng tôi có thấy Tôn giả cày lúc nào đâu ?

Như Lai đáp:

- Đức tin là hột giống, kỷ luật là mưa, trí tuệ là cái ách cày và cây cày, khiêm tốn là cán cày, tâm là dây cương, niệm là lưỡi cày và roi bò. Như Lai sống với Lục căn thu thúc, lời nói và ăn uống độ lượng. Như Lai đã dùng sự chơn thật để cắt từ cọng cỏ dại. Thành đạt Đạo quả tối thượng là mở dây thả bò. Tinh tấn là loài thú chở nặng đã đưa Như Lai đến trạng thái không ràng buộc (Niết Bàn). Trực chỉ thẳng tiến, không quay trở lại và đã đi, nó không còn phiền não. Đó là lằn cày của Như Lai được thực hiện như thế đó. Hậu quả của nó là trạng thái bất tử. Đã kéo xong lằn cày thì không còn phiền muộn và âu sầu nữa.

Nghe Đức Phật nói xong, vị Bà-La-Môn bới đầy một chén cơm trộn sữa dâng cho Như Lai và nói :

- Cầu xin Tôn giả Cồ-Đàm độ chén cơm trộn sữa nầy. Tôn giả Cồ-Đàm quả thật là một nông dân vĩ đại, vì Ngài đã trồng một loại cây trổ trái bất tử. Ý nghĩ của kẻ hèn nầy là thuộc về vật chất, còn lời nói của Tôn giả thuộc về tinh thần. Gieo mạ cấy lúa để có cơm ăn là nuôi phần xác thịt, còn truyền giảng Đạo lý của Như Lai là cái cày, và gieo mạ là để nuôi phần linh hồn. Cả hai đều quan trọng nhưng phần linh hồn thì trọng hơn phần thể xác, vì rằng nuôi xác thịt cho mập béo mà phần trí hóa tối tăm thì có ích chi đâu ! Thật cao cả thay giáo pháp của Như Lai ! Cầu xin Như Lai độ chén cơm trộn sữa nầy.

Đức Phật liền từ chối, nói rằng :

- Vật thực nhận lãnh do sự giảng đạo thì không thích đáng cho Như Lai dùng. Nầy ông Bà-La-Môn ! Đó là thông lệ của bậc Đại Giác. Đấng Chánh Biến Tri không thể dùng vật thực ấy. Khi nào truyền thống nầy còn tồn tại thì đó là Chánh mạng.