LỤC TỔ HUỆ NĂNG (638-713)

"Ngài tên là Huệ Năng, thân phụ Ngài họ Lư, húy Hạnh Thao, thân mẫu của Ngài là Lý thị.

Ngài sanh vào đời nhà Đường, niên hiệu Trinh Quán thứ 12 nhằm năm Mậu Tuất, tháng 2, ngày mùng 8, giờ Tý.

Lúc sanh Ngài có một đạo hào quang chiếu lên hư không, lại có mùi thơm xông lên khắp căn nhà.

Trời vừa rạng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến xin viếng và gọi thân phụ Ngài nói rằng: Nhơn có đứa nhỏ sanh hồi đêm qua, nên chúng tôi đến đặt tên dùm. Nên đặt trên là chữ HUỆ, dưới là chữ NĂNG.

Thân phụ Ngài hỏi: Sao gọi là Huệ Năng?

Một thầy tăng đáp: Huệ nghĩa là đem pháp huệ mà thí cho chúng sanh, Năng nghĩa là làm được việc Phật.

Nói rồi, hai vị tăng liền đi ra, chẳng biết đến xứ nào.

Khi lọt lòng mẹ, Ngài không bú sữa, ban đêm có Thần nhân rưới nước cam lồ cho Ngài." (Trích Pháp Bảo Đàn Kinh)

Sau đó, thân phụ của Ngài qua đời, Ngài ở với mẹ, lớn lên đi bán củi kiếm tiền nuôi mẹ. Ngài không biết chữ, vì nhà nghèo, không có tiền để đi học.

Năm Ngài 24 tuổi, vẫn đi bán củi như thường lệ.

Lúc ấy có một người mua củi, bảo Huệ Năng đem đến tiệm. Khách thâu củi, Huệ Năng lãnh tiền rồi bước ra ngoài cửa, thấy một người khách tụng kinh. Huệ Năng nghe qua, tâm liền mở mang tỏ sáng, mới hỏi khách tụng kinh gì?

Khách đáp: Kinh Kim Cang.

Huệ Năng lại hỏi: Ở đâu đến mà trì tụng kinh ấy?

Khách rằng: Tôi ở chùa Đông Thiên, huyện Huỳnh Mai, xứ Kỳ Châu lại đây. Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư chủ trì giáo hóa tại đó. Môn nhơn của Ngài có trên một ngàn người. Tôi đã đến chùa lễ bái, nghe giảng và lãnh kinh ấy. Đại Sư thường khuyên các vị tăng, người tục, nếu ai trì tụng Kinh Kim Cang thì liền thấy tánh và chắc thành Phật.

Huệ Năng nghe nói thế, rồi bởi có nhơn duyên kiếp trước nên nhờ một người khách giúp Huệ Năng 10 lạng bạc, bảo sung vào việc y thực cho lão mẫu (mẹ của Huệ Năng) và dạy qua huyện Huỳnh Mai làm lễ Ngũ Tổ.

Huệ Năng an trí lão mẫu xong, liền từ giã ra đi, chẳng đầy 30 ngày thì tới huyện Huỳnh Mai, vào làm lễ Ngũ Tổ.

Ngũ Tổ hỏi: Ngươi là người phương nào, muốn cầu việc chi?

Huệ Năng đáp: Đệ tử là dân huyện Tân Châu, xứ Lãnh Nam, thiệt ở phương xa đến đây lạy Tổ Sư chỉ cầu thành Phật chớ chẳng cầu chi khác.

Tổ Sư nói: Ngươi là người Lãnh Nam, lại là giống dã man, thế nào thành Phật được.

Huệ Năng nói: Con người tuy có phân Nam Bắc, chớ Phật tánh vốn không Nam Bắc. Cái thân dã man nầy đối với Hòa Thượng, tuy chẳng giống nhau chớ tánh Phật nào có khác.

Ngũ Tổ còn muốn nói chuyện nữa, nhưng thấy chúng môn đồ đứng vây hai bên tả hữu, nên bảo Huệ Năng theo đồ chúng mà làm công việc.

Huệ Năng nói: Kính bạch Hòa Thượng, tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ, chẳng lìa tự tánh, tức là phước điền, chẳng hay Hòa Thượng còn dạy làm công việc gì nữa?

Tổ Sư nói: Cái căn tánh của người dã man nầy thiệt là sáng suốt. Ngươi chớ nói nữa, hãy đi ra nhà sau.

Huệ Năng đi ra nhà sau thì có một hành giả sai Huệ Năng bửa củi giã gạo (giã bằng chày đạp).

Trải qua 8 tháng dư, một ngày kia, Tổ Sư xảy thấy Huệ Năng, Ngài nói rằng: Ta nghĩ chỗ tri kiến của ngươi dùng được, song sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng?

Huệ Năng đáp: Đệ tử cũng hiểu ý của Tổ Sư, nên chẳng dám đến trước nhà, khiến cho người ta không biết.

Một ngày kia, Ngũ Tổ bảo các môn nhân đều tựu lại mà dạy rằng:

- Ta nói cho chúng đệ tử rõ, sự sống thác của người đời là việc lớn. Các ngươi trọn ngày chỉ cầu phước điền chớ chẳng cầu ra khỏi biển khổ sống thác. Nếu tánh mình mê muội thì phước nào cứu được. Các ngươi lui về, mỗi người đem trí huệ của mình, lấy tánh Bát Nhã của bổn tâm mình mà làm một Bài Kệ, đem trình cho ta xem. Nếu ai hiểu rõ đại ý, ta sẽ truyền y pháp cho làm Tổ thứ sáu. Hãy đi cho mau, chẳng đặng chậm trễ. Nếu để tâm suy nghĩ độ lượng ắt chẳng hạp dùng. Phàm người thấy tánh, khi nghe pháp rồi thì phải thấy liền. Nếu được như thế thì dẫu quơ đao ra trận, cũng thấy tánh. (Người lợi căn, dầu gặp cảnh nguy nan gấp rút, bao giờ cũng thấy tánh mình.)

Các môn nhân khi được lịnh sắp phân rồi, liền lui ra, lần lượt kêu nhau mà truyền rằng: Bọn chúng ta chẳng nên lóng tâm dùng ý mà làm kệ để trình Hòa Thượng, vì có ích chi đâu! Thượng Tọa Thần Tú hiện làm Giáo Thọ, chắc người làm kệ được. Chúng ta đừng làm kệ chi cho hao tổn tâm lực rất uổng.

Chúng môn nhơn nghe nói thì yên lòng, đồng bảo nhau từ đây sắp sau, chúng ta nương cậy Đại Sư Thần Tú, cần gì phải làm kệ cho phiền lòng.

Còn Đại Sư Thần Tú suy nghĩ: Các người ấy không trình kệ, là vì nể ta là Giáo Thọ, thầy của bọn chúng. Ta phải làm kệ trình Hòa Thượng. Nếu không trình kệ thì Hòa Thượng đâu biết chỗ thấy hiểu trong tâm ta sâu cạn thế nào. Bổn ý ta trình kệ mà cầu pháp thì tốt, còn mong vào ngôi Tổ thì xấu, cũng giống như người phàm, lòng mong đoạt ngôi Thánh. Bằng chẳng trình kệ, rốt không đắc pháp. Thiệt rất khó! Rất khó!

Nguyên trước nhà Ngũ Tổ có ba gian nhà cầu. Ngài tính rước quan Cung Phụng là Lư Trân vẽ các biến tướng thuật trong Kinh Lăng Già (Quang cảnh lúc Phật thuyết pháp tại Hội Lăng Già) và cái bản đồ chỉ sự truyền kế của 5 vị Tổ Sư gọi là Ngũ Tổ huyết mạch đồ, để lưu truyền cho đời cúng dường.

Đại Sư Thần Tú làm kệ xong, muốn đem trình mấy phen, nhưng mỗi khi đến trước nhà Tổ thì lòng hoảng hốt, mồ hôi ra ướt cả mình, nghĩ rằng trình kệ chẳng đặng.

Trước sau trải qua 4 ngày 13 phen mà trình kệ chẳng đặng. Sư Thần Tú mới suy nghĩ, chi bằng biên bài kệ nơi vách nhà cầu, nếu thình lình Hòa Thượng xem thấy mà khen hay thì ta ra làm lễ, nói rằng bài kệ ấy của Thần Tú làm, bằng Ngài nói rằng bài kệ ấy chẳng đặng dùng, thiệt uổng công ta vào núi theo thầy học đạo tu hành đã bao nhiêu năm nay.

Đêm ấy, đến canh ba, Thần Tú chẳng cho ai biết, tự mình cầm đèn, biên bài kệ nơi vách nhà cầu phía Nam, bày rõ chỗ thấy của tâm mình.

Kệ rằng:

Thân thị bồ đề thọ, 身是菩提樹
Tâm như minh cảnh đài, 心如明鏡臺
Thời thời cần phất thức, 時時勤拂拭
Vật sử nhạ trần ai. 勿使惹塵埃

GIẢI NGHĨA:
Thân: thân mình. Thị: là. Thọ: Thụ: cây. Minh: sáng.
Cảnh: còn đọc là Kính: tấm gương soi mặt. Đài: cái giá đỡ.
Thời thời: luôn luôn. Phất: quét. Thức: lau chùi.
Vật: chớ. Sử: khiến cho. Nhạ: rước lấy. Trần: bụi, cõi trần.
Ai: bụi bặm. Nhạ trần ai: dính bụi trần.

C. 1: Thân thị bồ đề thọ: Thân là cây bồ đề,
C. 2: Tâm như minhcảnh đài: Tâm như đài gương sáng,
C. 3: Thời thời cần phất thức: Luôn luôn cần quét lau.
C. 4: Vật sử nhạ trần ai: Chớ để dính bụi trần

KHẢO DỊ:

Câu 4 có bản khác chép là:

- Mạc khiển hữu trần ai.
- Mạc sử nhá trần ai.

Lời giải của Hòa Thượng Thích Minh Trực trong bản dịch Pháp Bảo Đàn Kinh:

"Đại ý bài kệ nầy chứng tỏ Sư Thần Tú khi ấy thân căn chưa trong sạch, tâm thể chưa tỏ sáng, nên cầu cho thân trong sạch như cây bồ đề, tâm tỏ sáng như đài gương, giờ giờ còn công phu dẹp dục dứt tình, nên chưa giải thoát.

Sư Thần Tú thật là thông minh, nhưng bởi duyên nghiệp còn nhiễm vương, nên chưa hạp thời đắc pháp.

Bài kệ của Sư Thần Tú có ý nghĩa hay, nhưng chỉ hạp dùng cho hàng trung hạ, tu từ thấp lên cao, tức theo Tiệm giáo.

Đây là bài giải cho hiểu ý nghĩa, chớ chẳng phải phân biệt chỗ cao thấp hơn thua. Người xem kinh chẳng nên tỏ ý khinh dể mà phải mê, thất đạo tâm."

Sư Thần Tú ví thân mình giống cây bồ đề, tâm mình như đài gương sáng. Đài gương sáng mà để cho bụi bám thì mất sáng, bị mờ đi, nên cần phải quét chùi cho hết bụi bặm, thì nó sẽ sáng mãi.

Bài kệ nầy rất hay, vì nó gần gũi với phần đông người tu hành, vì tâm chúng ta hiện giờ mù mịt u tối vì bị các thứ bụi dơ như phiền não, vọng tưởng che phủ, nên chúng ta cần phải lau chùi luôn thì mới là đài gương sáng.

Sư Thần Tú biên bài kệ rồi bèn trở xuống phòng, chẳng ai hay biết. Thần Tú lại suy nghĩ: Nếu ngày mai, Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng tức là ta có duyên với pháp, bằng Ngài nói chẳng đặng dùng, ấy bởi tâm ta muội mê, nghiệp chướng kiếp trước còn nặng, nên chẳng hạp thời đắc pháp. Thánh ý thật khó dò!

Ở trong phòng, Thần Tú cứ lo nghĩ mãi, suốt cả năm canh nằm ngồi chẳng yên.

Ngũ Tổ đã biết trước Sư Thần Tú chưa vào đặng cửa Đạo, vì người chưa thấy tự tánh.

Trời sáng, Ngũ Tổ vời Lư Trân đến bảo vẽ cảnh biến tướng và cái bản đồ nói trên nơi vách nhà cầu phía Nam, xảy thấy bài kệ ấy. Ngũ Tố bảo rằng:

- Nầy quan Cung Phụng, thôi chẳng cần vẽ, thiệt nhọc công ông ở phương xa đến đây. Kinh có nói rằng: Phàm vật có hình tướng đều là giả dối. Vậy cứ để bài kệ ấy cho người trì tụng. Cứ y theo bài kệ ấy mà tu hành thì khỏi đọa vào đường ác, y theo bài kệ ấy tu hành thì ích lợi lớn.

Ngũ Tổ dạy các môn nhân đốt nhang lễ kỉnh, bảo cả thảy tụng bài kệ ấy thì lần lần thấy tánh. Các môn nhơn tụng kệ đều khen thật hay.

Đến canh ba, Ngũ Tổ kêu Thần Tú vào nhà, hỏi rằng:

- Bài kệ ấy phải của ngươi làm ra chăng?

Thần Tú đáp:

- Thiệt Thần Tú nầy làm, nhưng kẻ đệ tử chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ mong Hòa Thượng từ bi xem coi đệ tử có chút trí huệ chăng?

- Ngươi làm bài kệ ấy tỏ ra chưa thấy bổn tánh. Ngươi mới tới ngoài thềm cửa, chưa vào trong nhà. Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà tìm đạo Vô thượng Bồ Đề thì rõ ràng chưa thể được. Theo đạo Vô thượng Bồ Đề, hễ khi nghe nói pháp rồi, liền phải biết bổn tâm và thấy bổn tánh của mình. Tâm mình chẳng sanh chẳng diệt, trong cả thảy thời gian, niệm niệm liền thấy tánh. Đối với muôn pháp, tâm mình suốt thông, không ngưng trệ. Một pháp, mình thấy hiểu thấu chơn tướng, cả thảy các pháp, mình đều hiểu thấu chơn tướng. Đối với muôn cảnh, tâm mình như như, tâm như như tức là tâm chơn thật. Thấy như thế, ấy là thấy tánh Vô thượng Bồ Đề của mình.

Ngươi hãy lui ra, suy nghĩ trong hai ngày, rồi làm bài kệ khác đem lại cho ta xem. Nếu bài kệ của ngươi vào đặng cửa Đạo. Ta sẽ truyền y pháp cho.

Sư Thần Tú làm lễ rồi lui ra. Trải qua mấy ngày, Thần Tú làm kệ chẳng xong thì trong lòng hoảng hốt, thần ý bồi hồi dường như mê mộng, đi ngồi chẳng an vui.

Cách hai ngày, có một tên đồng tử đi ngang qua phòng giã gạo, xướng tụng bài kệ ấy cho Huệ Năng nghe qua, biết bài kệ ấy chưa thấy bổn tánh.Tuy ta (Huệ Năng tự xưng) chưa được Ngũ Tổ chỉ dạy, chớ đã sớm biết đại ý, mới hỏi đồng tử rằng:

- Tụng bài kệ gì vậy?

Đồng tử đáp: - Người dã man nầy không hay biết chi hết. Đại Sư nói sự sống thác của người thế gian là việc lớn. Vì muốn truyền y pháp, nên Ngài dạy các môn nhơn mỗi người làm một bài kệ đem trình cho Ngài xem. Nếu ai hiểu đại ý, Ngài sẽ truyền y pháp cho, đặng làm Tổ thứ sáu. Thượng Tọa Thần Tú có biên một bài kệ vô tướng nơi vách nhà cầu phía Nam. Đại Sư dạy mỗi người đều phải tụng. Nếu y theo bài kệ ấy mà tu hành thì khỏi đọa vào đường ác, y theo bài kệ ấy mà tu hành thì có ích lợi lớn.

Huệ Năng nói: - Tôi cũng muốn tụng bài kệ ấy để kết nhơn duyên về đời sau. Nầy, thượng nhơn, tôi ở đây giã gạo đã trên 8 tháng mà chưa từng ra trước nhà Tổ, mong thượng nhơn dẫn tôi ra đến trước bài kệ ấy đặng lễ bái.

Đồng tử dẫn ta đến trước bài kệ ấy. Ta nói:

- Huệ Năng không biết chữ, xin thượng nhơn đọc dùm.

Khi ấy có quan Biệt Giá ở Giang Châu, họ Trương tên Nhựt Dụng, cất tiếng đọc lớn. Huệ Năng nghe rồi bèn nói:

- Tôi cũng có một bài kệ, mong ơn Biệt Giá biên dùm.

Biệt Giá nói:

- Ngươi cũng biết làm kệ nữa sao? Việc nầy ít có.

Huệ Năng ngó quan Biệt Giá mà nói:

- Muốn học đạo Vô thượng Bồ Đề thì chẳng nên khinh dể hàng sơ học. Có kẻ bực thấp mà thường thường phát sanh trí huệ rất cao, có người bực cao mà thường thường chôn lấp ý trí của mình, nếu khinh dể người ắt có tội vô lượng vô biên.

Biệt Giá nói: - Ngươi hãy ngâm bài kệ đi, ta biên dùm cho. Nếu ngươi đắc pháp thì phải độ ta trước, chớ quên.

Huệ Năng ngâm bài kệ rằng:
Bồ đề bổn vô thọ, 菩提本無樹
Minh cảnh diệc phi đài, 明鏡亦非臺
Bổn lai vô nhất vật, 本來無一物
Hà xứ nhạ trần ai? 何處惹塵埃

GIẢI NGHĨA:
Bổn: vốn là. Vô: không. Thọ: Thụ: cây.
Minh cảnh: Minh kính: cái gương sáng. Diệc: cũng.
Phi: không phải, chẳng phải. Đài: cái giá đỡ.
Bổn lai: từ trước tới sau. Nhất vật: một vật.
Hà xứ: xứ nào, chỗ nào? Nhạ trần ai: dính bụi trần.

C.1: Bồ đề bổn vô thọ: Bồ đề vốn không cây,
C.2: Minh cảnh diệc phi đài: Gương sáng cũng chẳng đài,
C.3: Bổn lai vô nhất vật: Xưa nay không một vật,
C.4: Hà xứ nhạ trần ai? Chỗ nào dính bụi trần?