
Nguyên văn bởi
tritue
Phật Nhiên Đăng - Công Chúa Diệu Thiện
Theo các kinh sách truyền lại thì Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có 33 kiếp giáng trần, khi thì làm nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì giáng sanh vào nhà cao sang quyền quí, khi thì vào nơi bần cùng khốn khổ.
Có 2 kiếp giáng trần làm phụ nữ của Ngài được người đời truyền tụng. Đó là kiếp thứ 10, Ngài giáng trần là Thị Kính ở nước Cao Ly, tu hành đắc đạo gọi là : Quan Âm Thị Kính. Kiếp chót Ngài giáng trần ở Ấn Độ là Công Chúa Diệu Thiện, cũng tu hành đắc đạo gọi là : Quan Âm Diệu Thiện.
Công Chúa Diệu Thiện là con của vua Linh Ưu, nước Hưng Lâm, một tiểu quốc của Ấn Độ, ở về phía Đông.
Từ ngày nhà vua lên ngôi đến nay đã 40 năm mà Hoàng Hậu Bửu Đức không sanh đứa con nào. Nhà vua cùng Hoàng Hậu lên núi Huê Sơn cầu tự. Ít lâu sau, Hoàng Hậu thọ thai sanh được một nàng Công Chúa, đặt tên Diệu Thanh. Sau đó lại tiếp tục có thai sanh ra Công Chúa Diệu Âm và Công Chúa Diệu Thiện.
Ba nàng Công Chúa lớn lên, nhà vua định hôn cho 2 nàng Diệu Thanh và Diệu Âm với 2 vị quan tài giỏi của triều đình, còn nàng Diệu Thiện thì nhứt định không chịu lấy chồng, mà lại xin phép vua cha cho xuất gia tu hành.
Vua Linh Ưu không bằng lòng, đày nàng vào Huê Viên gánh nước tưới hoa cực khổ, đồng thời nhờ người khuyến dụ nàng bỏ ý định đi tu, nghe lời vua cha, chịu lấy chồng. Nhưng nàng nhứt định không đổi ý, khiến vua Linh Ưu tức giận.
Hoàng Hậu rất đau lòng, xin vua cho Diệu Thiện vào tu ở chùa Bạch Tước. Vua chấp thuận nhưng ngầm ra lịnh cho các tăng ni trong chùa, bắt Diệu Thiện làm những công việc nặng nhọc, để nàng ngã lòng, sớm trở về cung nội.
Diệu Thiện vẫn rán sức làm đầy đủ bổn phận, dầu rất cực khổ nhưng không cất tiếng than.
Nhà vua thấy cách nầy thất bại nên sai quân lính đốt chùa để Diệu Thiện không còn nơi tu hành. Các tăng ni hốt hoảng lo chạy thoát thân, Công Chúa Diệu Thiện vẫn bình tỉnh, nàng cầu nguyện rồi rút trâm chích lưỡi phun máu lên không trung. Tức thì mây đen hiện ra, giây lát mưa tuôn xối xả dập tắt đám lửa. Quân lính đều kinh ngạc.
Nhà vua không vì sự mầu nhiệm đó mà hối hận việc làm, lại bắt Diệu Thiện về triều, tổ chức các cuộc đàn hát vui chơi cho Diệu Thiện say mê, bỏ việc tu hành. Nhưng vua cha vẫn thất bại trước đạo tâm vững chắc của nàng Công Chúa út.
Quá tức giận, vua Linh Ưu ra lịnh tối hậu cho Công Chúa Diệu Thiện phải chọn 1 trong 2 điều : Một là nghe lời vua cha lập gia thất, bỏ việc tu hành; hai là chịu xử trảm.
Diệu Thiện nhứt quyết chịu chết chớ không bỏ tu hành.
Thần Hoàng bay về Trời tâu bày cho Thượng Đế rõ, và Đức Thượng Đế ra lịnh cho Thần phải lo bảo hộ Diệu Thiện.
Diệu Thiện bị đưa ra pháp trường hành quyết. Khi đao phủ đưa đao lên định chém thì đao gãy nát, lại lấy cung ra bắn tên cho chết thì tên vừa tới Diệu Thiện, tên bỗng gãy làm hai. Kẻ hành quyết không giết được Diệu Thiện bằng 2 cách trên, liền đến siết cổ Diệu Thiện.
Bỗng cuồng phong nổi lên, cát bay đá chạy, Thần Hoàng hóa thành mãnh hổ cõng Diệu Thiện chạy tuốt vào rừng. Các quan giám sát bị một phen kinh khủng, trở về triều tâu lại. Vua Linh Ưu không chút nao núng, nói Công chúa bất hiếu nên bị cọp tha mất xác.
Công Chúa Diệu Thiện tỉnh dậy thấy mình đang nằm trong rừng vắng vẻ, không biết phải làm sao và đi phương nào.
Đức Phật Nhiên Đăng hiện ra đứng trên mây, bảo nàng Diệu Thiện hãy đi ra Nam Hải, đến núi Phổ Đà tu hành thêm thì sau nầy sẽ đắc quả Như Lai. Muốn đến đó phải trải 3000 dặm đường. Đức Phật tặng nàng một trái Đào Tiên, ăn vào không biết đói khát trọn năm, mà còn được khỏe mạnh.
Diệu Thiện thọ lãnh và bái tạ Phật, tìm đường đi Nam Hải. Thái Bạch Kim Tinh hiện xuống, truyền Thần Hoàng biến ra Thần hổ, cõng Diệu Thiện đến Phổ Đà Sơn. Tại đây, Diệu Thiện tu thiền định 9 năm, đạo pháp đạt được cao siêu.
Ngày 19 tháng 2 năm ấy, là ngày thành đạo của Công Chúa Diệu Thiện, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến chúc mừng và xưng tụng công đức của một vị Bồ Tát mới đắc đạo.
Công Chúa Diệu Thiện ngự trên tòa sen, hào quang sáng lòa, xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát.
Ngày kia, con gái của Thái Tử của Long Vương Nam Hải (thường gọi là Long Nữ) hóa làm con cá dạo chơi nơi mé biển, bị một ông chài bắt được, đem ra chợ bán. Đức Quan Âm biết được, sai Thiện Tài đồng tử hóa ra một thường nhơn đến mua con cá ấy rồi đem ra biển Nam thả xuống nước. Nam Hải Long Vương nhớ ơn Bồ Tát cứu cháu nội mình nên sai Long Nữ đem dâng Bồ Tát một cục ngọc Dạ Minh Châu, để Bồ Tát đọc sách ban đêm mà không cần đốt đèn. Long Nữ dâng ngọc xong, cảm phục công đức của Bồ Tát nên xin qui y theo hầu Bồ Tát, được Bồ Tát thâu làm đệ tử .
Nhắc lại, từ khi vua Linh Ưu ra lịnh giết chết Diệu Thiện, nhà vua bị một chứng bịnh nan y vô cùng khổ sở, bị lở lói khắp mình mẩy, đau nhức và hôi thối rất khó chịu. Nhiều danh y đến điều trị, nhưng đều không khỏi bịnh.
Đức Quan Âm ở Phổ Đà Sơn Nam Hải biết việc đó, nên giả làm một vị sư già, đến kinh thành, xin trị bịnh cho nhà vua. Sau khi xem mạch, vị sư già tâu :
- Bịnh của Bệ hạ do oan nghiệt nhập với chất độc của đồ cao lương mỹ vị và tửu nhục hằng ngày mà phát sanh ra ngoài thành bịnh nan y. Nếu muốn chữa lành thì phải có đôi mắt và đôi cánh tay của một đứa con thì mới chế thuốc được.
Nghe vậy, nhà vua vội đòi 2 vị Công chúa Diệu Thanh và Diệu Âm vào, lập lại lời nói của sư già, hỏi xem có đứa con nào chịu hy sinh cho vua cha không. Hai Công chúa đồng tâu :
- Xin phụ vương đừng nghe lời ông sãi mầm nầy. Một người bị chặt 2 tay, bị móc 2 mắt thì dù có sống cũng chẳng ra gì. Chẳng lẽ cứu một người mà hại một người hay sao ?
Vua Linh Ưu chợt nhớ tới Công chúa Diệu Thiện, liền than : “Nếu có Diệu Thiện thì chắc nó sẽ hy sinh cho Trẫm.”
Vị sư già liền tâu :
- Bần tăng biết rõ Công chúa Diệu Thiện còn sống ở Phổ Đà Sơn biển Nam Hải. Xin nhà vua cho người ra đó, tìm Công chúa, may ra chế được thuốc cho Bệ hạ. Bần tăng để thuốc lại đây, chừng nào có đôi mắt và đôi tay thì nhập với thuốc nấu chung lại, trong uống ngoài thoa sẽ hết bịnh ngay.
Vị sư già nói xong thì từ giã vua Linh Ưu trở về núi.
Nhà vua sai sứ giả đi Nam Hải. Khi đến Phổ Đà Sơn, một đồng tử bưng một mâm phủ vải trắng thấm ướt máu tươi, trong đó có 2 mắt và 2 tay của DiệuThiện, trao cho sứ giả.
Hoàng Hậu thấy sứ giả đem 2 mắt và 2 tay của Diệu Thiện về còn dính máu tươi thì khóc mướt. Thị vệ liền đem nấu với thuốc do vị sư già để lại, cho nhà vua uống phân nửa, còn phân nữa thoa ngoài da. Nhà vua liền hết bịnh.
Vua Linh Ưu và Hoàng Hậu cảm ơn nghĩa của Diệu Thiện, nên quyết định đi Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá nhà vua đi gặp biết bao nguy hiểm, nhưng đều được Bồ Tát dùng thần thông cứu thoát. Đến nơi, vua và Hoàng Hậu thấy một vị Bồ Tát ngự trên tòa sen, mất 2 mắt và 2 tay, thì biết đó là Diệu Thiện, con của mình, nên vô cùng xúc động, nhớ lại mà ăn năn sám hối tội tình, quì xuống cầu nguyện với Trời Phật cho Công chúa được lành lặn như xưa.
Sự thành tâm cầu nguyện của vua và Hoàng Hậu được hiển linh. Bồ Tát Diệu Thiện liền hiện hào quang với đầy đủ 2 mắt và 2 tay. Lúc ấy vua và Hoàng Hậu đều giác ngộ, quyết rời bỏ điện ngọc ngai vàng, đem mình vào chốn thiền môn, tu hành cầu giải thoát.
Bookmarks