Sĩ-Đạt-Ta vượt thành đi tu
Đức Phật Thích Ca, thế danh là Sĩ-Đạt-Ta (Siddattha, có nghĩa là người được toại nguyện), họ là Cồ Đàm (Gotama) sau đổi họ lại là Thích Ca (Sakya). Ngài giáng sanh vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch năm 623 trước Chúa giáng sinh, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) trong thủ đô Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) của một nước nhỏ thuộc miền Bắc Ấn Độ, nằm giáp ranh với xứ Népal ngày nay.(Về sau, Đại Hội Phật Giáo Thế Giới đổi ngày giáng sanh của Đức Phật là ngày trăng tròn 15 tháng 4 âm lịch, và làm Lễ Phật Đản vào ngày nầy).
Ngài là Hoàng tử, con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma-Da (Maha Maya). Sau khi hạ sanh Hoàng tử được 7 ngày, Hoàng Hậu từ trần, trở về Cung Tiên. Em ruột của Bà là Maha Pajapati cũng kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay Bà nuôi dưởng Hoàng tử đến ngày khôn lớn.
Hoàng tử Sĩ Đạt Ta lớn lên hưởng được sự giáo dục hoàn hảo của bực vua chúa để sau nầy nối ngôi vua cha cai trị đất nước. Ngài trở thành vị Thái tử thông minh xuất chúng, văn võ toàn tài.
Khi được 16 tuổi, Thái tử kết duyên với Công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhara), một người em bà con cô cậu, cùng tuổi với Ngài. Trong 13 năm chung sống sau ngày hôn lễ, Thái tử sống cuộc đời vương giả, không hay biết chi các nỗi thống khổ của dân chúng ở bên ngoài cung điện.
Một ngày đẹp Trời, Thái tử cùng các quan hầu cận đi du ngoạn bên ngoài Hoàng cung để ngắm xem thế giới bên ngoài và tiếp xúc dân chúng. Ngài chứng kiến những nỗi vất vả của kiếp sống con người phải lo làm lụng, tìm phương sanh sống. Dân chúng vì sự sống mà tranh giành giết hại lẫn nhau.
Một ngày khác, Thái tử còn chứng kiến được các cảnh khổ của kiếp sống con người như : Ốm đau, già yếu, chết chóc biệt ly. Vậy thì đời sống của con người có chi sung sướng ? Ngài tự nghĩ rằng, chỉ riêng phần Ngài là một Thái tử, sắp sửa lên làm vua thì nghèo và đói Ngài không cần lo, nhưng còn già yếu, bịnh tật, rồi chết thì không ai tránh khỏi.
Ngài âm thầm lập chí tìm phương giải khổ cho nhơn sanh. Tình cờ, Ngài gặp một tu sĩ ngoài cửa Hoàng thành, với dáng điệu rất ung dung, mặt mày thơ thới vô tư. Ngài đến hỏi chuyện thì được biết vị tu sĩ ấy xuất gia đi tu học đạo, quyết trừ hết ác căn, lấy lòng từ bi kềm chế dục vọng, hộ niệm chúng sanh không nhiễm theo thế tục, để trước là giải thoát cho chính mình, sau là giải thoát cho chúng sanh. Nghe vậy, Thái tử rất hoan hỷ và nhất quyết sẽ làm như vị tu sĩ ấy.
Vua Tịnh Phạn biết được ý của Thái tử muốn đi tu, nhà vua không bằng lòng và tìm mọi cách để ngăn cản.
Giữa lúc ấy, Công chúa Da-Du-Đà-La, vợ của Thái tử vừa sanh được một Hoàng nam. Thái tử không cảm thấy vui mừng mà lại than rằng : “Lại thêm một sợi dây trói buộc.”
Do đó, vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu nội là Ra-Hầu-La (Rahula), tiếng Phạn có nghĩa là trở ngại.
Vào năm Thái tử 29 tuổi, đêm mùng 7 tháng 2, trong lúc vợ, con, và quan binh trong Hoàng thành ngủ say sau một buổi tiệc vui tưng bừng múa hát, Thái tử gọi quan hầu cận Xa-Nặc (Chana) thắng ngựa Kiền trắc (Kanthaka) cho Thái tử trốn khỏi Hoàng cung, đi vào rừng núi thanh vắng để tầm Đạo.
Nhờ ngựa Kiền trắc chạy rất mau, nên đêm đó nó đưa Thái tử đi rất xa. Thái tử vỗ đầu khen nó chạy thật hay, mạnh mẽ và mau lẹ như một vị Thiên thần.
Thái tử tự mình cắt tóc, gỡ gươm trao cho Xa Nặc, bảo Xa Nặc dẫn ngựa Kiền trắc trở về tâu trình với phụ vương.
Thái tử cổi áo Thái tử đổi lấy áo thâm của một người thợ săn, rồi đi thẳng vào núi.
Vua Tịnh Phạn sai các Đại thần đi tìm Thái tử, khuyên Thái tử trở về triều, nhưng Thái tử nhứt định không đổi ý.
Thái tử tìm đến một Đạo sĩ rất lỗi lạc tên là Alarama Kalama để xin thọ giáo. Ngài học hết giáo pháp của Alarama nhưng cảm thấy chưa đạt được cứu cánh. Ngài xin từ giã để đi tìm một Đạo sĩ nổi tiếng khác có tên là Uddaka Ramaputta. Ngài cũng học hết giáo pháp của Uddaka, nhưng vẫn chưa thấy được mục tiêu cứu cánh. Thái tử nhận thấy rằng, không ai có đủ khả năng để dẫn dắt Thái tử thành tựu vì những vị mà Ngài vừa học vẫn chưa thoát khỏi vòng Vô minh.
Từ đó, Thái tử không tìm thầy học đạo nữa, mà tự mình đến chỗ thanh vắng suy tư tìm tòi Chơn lý.
Thái tử gặp một nhóm 5 tu sĩ mà ông Kiều trần Như đứng đầu, theo ủng hộ Ngài thực hành lối tu khổ hạnh.
Thái tử tự khép mình vào một nếp sống cực kỳ kham khổ suốt 6 năm dài, đến một ngày kia, thân hình của Ngài chỉ còn da bọc xương, hơi thở yếu ớt gần như một xác chết, mà Ngài vẫn chưa thâu đoạt một kết quả đáng kể nào.
Buổi ấy cái thảm trạng sắp chết của Ngài hầu đến. Bỗng có một ông tiều mang một cây đàn đến gần chỗ Ngài ngồi, lên dây đàn rồi khảy một khúc rất hay, đến lúc hay nhất thì dây đàn bỗng đứt, tiếng đàn im bặt. Ông tiều lại nối dây, lên dây đàn trở lại rồi đờn. Tiếng đờn réo rắt thanh tao, đến khúc hay nhất thì bỗng dây đàn đứt nữa, cái hay không đạt. Ông tiều lại nối dây, lên dây rồi đờn lại, rồi đứt, rồi nối lại.
Thái tử đang trì định phải bực bội tỉnh hồn nói rằng :
- Ông đờn thì hay, mà lên dây chi cho cao quá, đến khúc hay thì dây đứt, thì cái hay đó phải hết mùi, rất đáng tiếc.
Ông tiều liền đáp :
- Cái đờn của tôi cũng giống như cái tu của Ông. Dây đờn của tôi lên caoquá nên đến chỗ hay thì đứt dây làmcái hay
của tiếng đàn hết mùi, giống như cái tu của Ông, nếu có đạt được cái cao siêu là cơ bất diệt đi nữa, thì nó cũng phải chết theo cái xác thân khô đét của Ông, còn ích chi cho đời, nên tôi cũng tiếc cho Ông lắm vậy !
Lão tiều nói xong, liền xách đàn đi mất. (Trong kinh cho Lão tiều khảy đàn là một vị Phật hóa thân đến cảnh tỉnh Thái tử). Thái tử suy nghĩ mãi lời nói của ông tiều, chợt tỉnh giác, biết mình lầm theo lối tu khổ hạnh, chỉ làm suy giảm trí thức và mệt mỏi tinh thần. Thái tử thầm cám ơn ông tiều đến cảnh tỉnh mình, liền dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh ép xác, cũng như 6 năm trước đây, Ngài dứt khoát từ bỏ đời sống lợi dưỡng. Ngài lại nhớ đến ngày lễ Hạ điền của vua cha trước kia, trong lúc mọi người đang lo làm lễ thì Thái tử đến dưới bóng mát của cây trâm, ngồi thiền định và đắc được Sơ Thiền. Ngài nhớ lại và thấy rõ ra rằng đó mới chính là con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là con đường tu, không sống theo lợi dưỡng, mà cũng không sống quá khắc khổ, gọi là Trung Đạo.
Thái tử bắt đầu dùng trở lại các vật thực nuôi dưỡng xác thân. Ngài mệt nhọc lần đến bờ sông Ni-Liên-Thiền (một nhánh của sông Hằng) xuống tắm rửa sạch sẽ, rồi đi lên, và kiệt sức ngã vào một gốc cây bồ đề nằm bất tỉnh.
May mắn lúc đó có một thiện nữ bưng một bát sữa bột tìm đến cúng dường, gặp một ông đạo đang nằm thoi thóp dựa cội cây. Nàng đỡ ông đạo dậy rồi dâng bát sữa. Thái tử thọ lãnh, uống hết, rồi Ngài định tỉnh trở lại, thấy sức khỏe dần dần hồi phục, tinh thần sảng khoái.
Ngài tìm đến một gốc bồ đề to lớn, trải cỏ làm nệm để ngồi thiền định, phát lời đại thệ : Nếu không thành đạo thì không rời khỏi chỗ nầy.
Trải qua 49 ngày đêm Thiền định, Ngài ngộ đạo, biết được nguyên nhân sanh tử của con người, tìm ra con đường giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi khổ não. Ngài đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lấy hiệu Thích Ca Mâu Ni.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Bookmarks