Xin trình bày về các loại thiền định trong Phật giáo như sau: (tham khảo)
I- Thiền Chỉ tịnh
II- Thiền Công án
III- Thiền Minh sát
IV- Thiền Quả
V- Thiền Diệt
I>> Loại thiền định thuộc về thế gian, không đưa tới chứng ngộ giải thoát là Thiền Chỉ tịnh còn gọi là thiền Hữu Sắc, Thiền 4 bậc hoặc 5 bậc. Kết quả là sẽ chứng đắc 5 thần thông, còn gọi là Ngũ thông. Loại thiền này gọi là Thiền 4 bậc vì nó có 4 trình độ chứng đắc từ thấp lên cao, dựa theo các tính chất của từng trình độ tâm thiền, theo cách phân tích của các Tổ sư thiền giả của hệ phái Nam tông - Phật giáo Nguyên thuỷ thì có tới 5 bậc thiền. Thiền Chỉ tịnh tức là Đứng yên, Vắng lặng, Tập trung sâu vào một đề tài cố định không di động, gọi là thiền Hữu sắc vì loại thiền này dựa trên nền tảng là các đề tài mang tính Vật chất (Sắc), gọi là thiền Vô Sắc vì đề tài không mang tính vật chất (Vô Sắc). Dựa vào các tính chất (chi thiền) của từng trình độ thiền ta có các bậc thiền 5 bậc hoặc 4 bậc như sau:
A) Thiền Hữu Sắc
* Thiền 5 bậc:
1- Sơ Thiền: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Định
2- Nhị Thiền: Tứ, Hỷ, Lạc, Định
3- Tam Thiền: Hỷ, Lạc, Định
4- Tứ Thiền: Lạc, Định
5- Ngũ Thiền: Xả, Định
* Thiền 4 bậc:
1- Sơ Thiền : Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Định
2- Nhị Thiền: Hỷ, Lạc, Định
3- Tam Thiền: Lạc, Định
4- Tứ Thiền: Xả, Định
B) Thiền Vô Sắc: do sự phát triển 2 chi thiền Xả, Định càng ngày càng tinh vi sâu sắc mà người hành giả đạt tới 4 trình độ cao cấp gọi là Vô Sắc:
1- Sơ Thiền Vô Sắc còn gọi là Hư Không Vô Biên Xứ Thiền: Xả, Định
2- Nhị Thiền Vô Sắc còn gọi là Thức Vô Biên Xứ Thiền: Xả, Định
3- Tam Thiền Vô Sắc còn gọi là Vô Sở Hữu Xứ Thiền: Xả, Định
4- Tứ Thiền Vô Sắc còn gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiền: Xả, Định
- Đối với cách tính trình độ 5 bậc thiền Hữu Sắc + 4 bậc thiền Vô Sắc = 9 bậc thiền Hiệp thế.
- Đối với cách tính trình độ 4 bậc thiền Hữu Sắc + 4 bậc thiền Vô Sắc = 8 bậc thiền Hiệp thế
Hiệp thế tức là phù hợp thế gian hay là Thiền định của thế gian phàm phu, chưa ra khỏi tam giới sanh tử luân hồi. Ngũ thông (5 thần thông) chỉ có thể phát sinh trong các bậc thiền Hữu Sắc mà không phát sinh trong các bậc thiền Vô Sắc, bởi vì thần thông cũng là một dạng vật chất đặc biệt nên dựa trên nền tảng của các đề tài Hữu Sắc. Đối với người chưa bao giờ đắc được Ngũ thông thì phải lên tới 4 bậc thiền Vô Sắc cho tâm thật an định rồi mới tác ý vào các bậc Thiền Hữu Sắc mà phát triển Ngũ thông. Đối với người đã từng chứng đắc thần thông trong các kiếp quá khứ thì trong kiếp hiện tại này, tuỳ trình độ định tâm và phước báu ba la mật của họ mà ở bậc thiền Hữu Sắc nào cũng có thể thực hiện thần thông, tuy nhiên tiêu chuẩn lý tưởng cho thần thông như ý là ở mức định cao nhất của thiền Hữu Sắc, là Tứ thiền hoặc Ngũ thiền.
Tâm của thiền Hữu Sắc sẽ cho quả tái sinh vào các cõi tương ứng với trình độ thiền. Tâm thành tựu thiền gọi là tâm thiền, tâm thiền cho tái sinh gọi là tâm quả.
Các cõi tái sinh (với điều kiện trong giây phút lâm chung phải giữ được tâm thiền):
A) Cõi Sắc Giới:
1- Cõi Sơ Thiền có 3 cõi từ thấp lên cao:
- Phạm Chúng Thiên: các vị phạm thiên thường dân
- Phạm Phụ Thiên : các vị phạm thiên phụ tá cho Đại Phạm thiên
- Đại Phạm Thiên: các vị Đại Phạm Thiên cai quản tầng trời Sơ Thiền thiên.
2- Cõi Nhị Thiền:
- Thiểu Quang Thiên
- Vô Lượng Quang Thiên
- Quang Âm Thiên
3- Cõi Tam Thiền:
- Thiểu Tịnh Thiên
- Vô Lượng Tịnh Thiên
- Biến Tịnh Thiên
4- Cõi Tứ Thiền: cả 2 trình độ tâm Tứ thiền và Ngũ thiền đều cho tâm quả tái sinh vào cõi Tứ Thiền này. Trong cõi Tứ thiền có nhiều cõi khác biệt nhau về hình tướng, quả báo nhưng đều giống nhau về mặt tuổi thọ và không có sự phân biệt cao thấp như các cõi từ Sơ Thiền đến Tam Thiền :
- Phước Sanh Thiên
- Phước Ái Thiên
- Vô Tưởng Thiên
- Quảng Quả Thiên
- Ngũ Tịnh Cư Thiên gồm có 5 cõi nhỏ là cõi của chư Thánh A na hàm tái sinh vào đây tu tập tiếp cho tới quả A La Hán thì nhập diệt Niết bàn luôn, nên cõi này gọi là Bất Hoàn Thiên tức là cõi của các vị Bất Hoàn (A Na Hàm).
1- Vô Phiền Thiên
2- Vô Nhiệt Thiên
3- Thiện Kiến Thiên
4 -Thiện Hiện Thiên
5- Sắc Cứu Cánh Thiên
B) Cõi Vô Sắc: chỉ có 4 cõi với tuổi thọ từ thấp lên cao:
1- Hư Không Vô Biên Xứ Thiên
2- Thức Vô Biên Xứ Thiên
3- Vô Sở Hữu Xứ Thiên
4- Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên
II>>> Loại thiền không do Đức Phật sáng tạo và thực hành nhưng dẫn tới sự chứng nghiệm các tính chất của cửa Giải thoát chính là Thiền Công án, đây là loại thiền của các Tổ sư phái Thiền tông sau thời Đức Phật phát kiến ra và ứng dụng nội bộ trong hệ phái này, Thiền Công án không dẫn tới các cấp bậc chứng đắc như A La Hán, Độc Giác theo nguyên lý chứng quả mà truyền thống Phật giáo Nguyên thuỷ đã diễn tả sâu sắc, nhưng khai mở một sự hiểu biết liễu ngộ trực chỉ Giác tánh của Phật quả qua các câu hỏi không lời giải thích, còn gọi là Công án thiền. Khi nào người tham cứu công án đột nhiên hiểu ra ý nghĩa của công án thì liền liễu ngộ giá trị Giải thoát mà các Tổ sư đã trải nghiệm. Thiền Công án không phổ biến cho tất cả chúng sanh muốn tu hành giải thoát vì tính chất không biết khi nào mới trả lời được công án thiền, tức là Thiền Công án đòi hỏi một trình độ tư duy rất bén nhạy mới phá vỡ được câu hỏi tưởng chừng rất mơ hồ ấy. Do đó, Thiền Công án chỉ thích hợp với một những chúng sanh có duyên với phái Thiền tông mà thôi. Thiền Công án còn gọi là Tổ sư thiền.
III>>> Loại thiền định thuộc về thế gian và xuất thế gian, dẫn tới chứng đắc thánh quả giải thoát theo từng trình độ, hoặc chỉ đưa tới tái sanh vào các cõi thiện lành trong tam giới là Thiền Minh sát (tiếng Pali: Vipassana , tiếng Hán: Tam Ma Địa). Thiền này dựa trên tâm sát na định tức là một chuỗi dài liên tục các tâm định rất nhỏ, tạo thành một sức định tâm miên mật tương ứng với các bậc thiền Sắc hoặc Vô Sắc, tâm sát na định dựa trên sự tập trung vào đề tài di động của thân, tâm chứ không phải một đề tài cố định của thiền Hữu Sắc. Thiền Minh sát còn gọi là Như Lai Thiền tức là Thiền của Phật sáng tạo ra và thực hành để đắc quả Phật trong kiếp cuối cùng của Ngài. Thiền này dựa vào các phương pháp quán chiếu 3 tính chất của thế gian là Khổ não, Vô Thường và Vô Ngã :
- Quán Thân là Khổ
- Quán Thọ là Khổ
- Quán Tâm là Khổ
- Quán Pháp là Khổ
- Quán Thân là Vô Thường
- Quán Thọ là Vô Thường
- Quán Tâm là Vô Thường
- Quán Pháp là Vô Thường
- Quán Thân là Vô Ngã
- Qúan Thọ là Vô Ngã
- Quán Tâm là Vô Ngã
- Quán Pháp là Vô Ngã
Sau đó tiến đạt qua 16 tầng tuệ quán Minh sát mà thành bậc Thánh chia làm 2 loại:
1- Thánh Hữu Học với Niết Bàn Hữu Dư Y: tức là giải thoát từng phần phiền não và còn tái sinh trong nhân gian và các cõi Trời từ Dục giới Thiên tới Hữu Sắc Thiên và Vô Sắc Thiên để chứng quả A La Hán cuối cùng.
- Thánh Nhập Lưu Tu đà hoàn : tiêu diệt hoàn toàn Chấp Ngã, Nghi phiền não, Giới cấm thủ
- Thánh Nhất Lai Tư đà hàm: làm suy yếu thêm Sân hận và Ái Dục
- Thánh Bất Lai A Na Hàm: tiêu diệt hoàn toàn Sân hận và Ái Dục
2- Thánh Vô Học với Niết Bàn Vô Dư Y: Thánh A La Hán
Đối với trình độ A La Hán sẽ chia làm 3 trình độ từ cao tới thấp:
1- A La Hán Thinh Văn Giác
2- A La Hán Độc Giác (Phật Bích Chi)
3- A La Hán Chánh Đẳng Chánh Giác (Phật Như Lai)
Hai quả vị Phật Bích Chi và Phật Như Lai này theo truyền thống Nam tông sau khi trải qua 16 tầng Minh sát tuệ sẽ tiến bậc liên tục qua 4 trình độ Nhập Lưu cho tới La Hán trong quãng thời gian chừng vài sát na tâm (1 sát na tâm bằng khoảng một phần triệu giây).
Nếu người tu tập pháp thiền này chưa chứng đắc các quả vị thì sẽ cho quả báo tái sinh vào trong các cõi vui Dục giới là cõi Người và 6 cõi trời Dục giới chư thiên. Nếu đã đắc các bậc Thiền sẽ cho quả tái sinh vào các cõi thiền tương ứng, người tái sinh vào các cõi lành trong tam giới với hạt giống tu thiền Minh sát sẽ khác biệt với chúng sanh trong các cõi ấy ở tâm có ý thích tu hành cầu mong được giải thoát sinh tử luân hồi, và dễ tiếp thu Giáo pháp của chư Phật một cách rất thích thú hân hoan, và cơ hội chứng quả sẽ nhanh hơn những người khác vì họ đã có kinh nghiệm tu tập Thiền Minh sát trong kiếp quá khứ.
Sau đây là 16 tầng Minh sát tuệ quán:
* Thiền Hiệp thế:
1- Tuệ phân tích Danh Sắc
2- Tuệ phân tích Nhân Quả
3- Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ, vô ngã
4- Tuệ sinh và diệt
5- Tuệ diệt
6- Tuệ sợ hãi
7- Tuệ thấy lỗi của Ngũ uẩn
8- Tuệ nhàm chán
9- Tuệ muốn Giải thoát
10- Tuệ suy tư
11- Tuệ hành xả
* Thiền Siêu thế:
12- Tuệ thuận thứ
13- Tuệ chuyển tộc
14- Tuệ Đạo
15- Tuệ Quả
16- Tuệ kiểm tra lại
Từ tuệ 12 đến 16 nằm trong quá trình Đắc đạo quả, không còn là thiền Hiệp thế nữa mà đã diễn ra cách tự động nên gọi là thiền Siêu Thế. Chính vì đặc tính chuyển tộc từ phàm chủng sang thánh chủng này mà thiền Minh sát có tính chất vừa Hiệp thế vừa Siêu thế.
Đối với vị Thánh Nhập Lưu muốn tu lên bậc cao hơn, vị ấy phải thực tập lại chương trình tu tập từ phàm nhân sang thánh nhân, khi ấy trải qua 11 tầng tuệ quán với cách nhìn sâu sắc, tinh vi hơn vì lúc này 11 tầng tuệ giác không còn là thiền Hiệp thế nữa vì vị ấy đã là thánh Nhập Lưu, đó là thiền Siêu thế bậc thấp đang muốn tiến lên bậc cao, cho tới khi nào các phước ba la mật chín muồi và tuệ quán nhìn ra 1 trong 3 cửa Giải thoát nào rõ ràng nhất: Vô Thường, Khổ, Vô Ngã thì tâm thiền của vị ấy sẽ tự động nương theo cửa đó mà tiến bậc thành Thánh Nhất Lai, tương tự với các bậc Thánh khác.
IV-Thiền Quả Định: là loại thiền của bậc thánh muốn tái diễn lại quá trình đắc quả của mình, để an hưởng niềm vui đắc quả của trình độ thánh đó. Vị ấy phát nguyện: xin cho Quả mà tôi đã đắc sẽ được lặp lại trong thời gian bao lâu tuỳ ý. Vị thánh nhập lại tầng thiền Hữu Sắc hoặc Vô Sắc nào là căn bản khi chứng quả rồi xả thiền ấy mà nương theo 11 tầng tuệ giác theo đề tài quen thuộc của vị ấy, cho tới khi tuệ thuận thứ, chuyển tộc xuất hiện thì tuệ Quả xuất hiện ngay sau đó chứ không phải là tuệ Đạo nữa, vì tuệ Đạo chỉ xuất hiện 1 lần tương ứng với 1 lần đắc Đạo chuyển bậc lên bậc cao mà thôi. Trong trường hợp này là vị thánh muốn thưởng thức hương vị niết bàn của trình độ của vị ấy nên Tuệ Quả xuất hiện mà không có Tuệ Đạo đi cùng, Tuệ Quả xuất hiện liên tục liên tục cho hết thời hạn mà vị thánh ấy muốn. Trong suốt thời gian này, tâm vị thánh ấy hoàn toàn an vui chìm đắm trong an lạc thanh tịnh của cảnh niết bàn. Đối với Đức Phật, thì thiền quả của Ngài vẫn mang tên A La Hán Thánh Quả Định nhưng thâm sâu vi tế hơn gấp tỷ lần A La Hán Thánh Quả Định của các vị Thánh La Hán và Độc Giác. Đức Phật nhờ nhập Thánh quả định này để duy trì tuổi thọ và sức khoẻ cho đến khi Ngài xả báo thân nhập đại niết bàn vô dư y.
Thiền Quả không giúp phát triển thêm trí tuệ và phước báu cũng như thần thông, cũng không cho quả tái sinh một cảnh giới nào mà nó chỉ là một phương tiện giúp vị thánh được an nghỉ tận hưởng sự bình an của cảnh niết bàn trong một thời gian tuỳ ý. Thiền Quả này được cấu tạo do tâm tác ý muốn được hưởng Quả của vị thánh và năng lực thành tựu tầng thiền của vị Thánh đó. Thiền Quả là cách kết hợp giữa thiền định Hữu Sắc, Vô Sắc hoặc một trong hai loại thiền này, và thiền minh sát sau khi vị thánh chứng quả, đây là thiền Siêu thế vì nó không cho quả tái sinh.
V-Thiền Diệt Thọ Tưởng Định: cũng tương tự cách thức nhập định của Thiền Quả và cũng là thiền Siêu thế, nhưng nó chỉ xảy ra cho 2 bậc thánh Bất Lai và La Hán mà không xảy ra cho 2 bậc thánh thấp hơn. Thiền Diệt căn cứ vào tính chất ly dục, ly sân và định lực sâu thẳm của thiền Vô sắc. Vị thánh muốn nhập thiền Diệt phải tác ý phát nguyện tới các món sử dụng hàng ngày và thời điểm xả định khi có người muốn liên lạc khi cần thiết, vì nếu không phát nguyện trước thì trong thời gian nhập thiền Diệt, tâm của vị ấy hoàn toàn biến mất vì tính chất của thiền này là chấm dứt Thọ = cảm xúc, Tưởng = ý thức nhận biết, nên không thể nhận biết bất cứ thứ gì trong và ngoài thân tâm của vị ấy. Thiền này dựa vào Thiền Hữu Sắc và Vô Sắc kết hợp với quả của thiền Minh sát là trình độ Thánh quả Bất Lai hoặc La Hán. Sau khi xả thiền diệt thì chúng sanh nào cúng dường đến vị ấy sẽ được phát sinh quả báo ngay trong 7 ngày liền đó. Thiền diệt là phương tiện để tạm thời an nghỉ niết bàn vô dư trong khi tuổi thọ của vị thánh chưa hết.
Không phải vị Bất Lai và La Hán nào cũng nhập thiền diệt được vì điều kiện là phải đắc Thiền Vô Sắc trước khi đắc quả.
(Bài chỉ mang tính tham khảo của cá nhân, không phải bài nghiên cứu chuẩn mực)
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks