Trang 1 trong 6 123456 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 118

Ðề tài: Kiến Tánh trong Thiền Tông

  1. #1

    Mặc định Kiến Tánh trong Thiền Tông

    * Bài viết này dựa trên kinh nghiệm cá nhân, chỉ có giá trị tham khảo, xin cảm ơn.

    1. Hai từ Kiến Tánh trong Thiền Tông từ xưa đên nay đã thiêu đốt ko biết bao nhiêu thiền sinh bước vào cửa thiền. Thiền Tông lấy kiến tánh làm trọng, tức là đòi hỏi hành giả phải chuyển tâm hay kiến tánh trước rồi muốn làm gì thì làm. Kiến tánh rồi thì làm gì cũng là diệu dụng, kể cả việc la hét, chặt rắn, chém mèo đều không cho là tạo nghiệp hay sát sinh. Vì thế trong Thiền Tông cấm kỵ việc sao chép bắt chiếc thiền sư đã kiến tánh, vì dụng tâm khác nhau mà nghiệp tạo tác khác nhau. Câu truyện Nhất Chỉ thiền sư cắt tay học trò để cảnh tỉnh học trò trong việc bắt chiếc thiền sư.

    2. Lần lại hai từ kiến tánh ở đâu mà ra ? Ở Sơ Tổ của Thiền Tông là ngài Bồ Đề Đạt Ma bằng câu cuối cùng trong 4 câu kệ cũng là tuyên ngôn và pháp tu của Thiền Tông:

    Bất lập văn tự
    Giáo ngoại biệt truyền
    Trực chỉ chân tâm
    Kiến tánh thành Phật.


    Vậy kiến tánh có thành Phật không ? hay lời ngài Đạt Ma là hư ngụy. Kiến tánh là cái thấy sự thật chân đế, cái thấy của chân tâm nên đồng với cái thấy của chư Phật. Chữ ''thành Phật'' ở đây nên hiểu thêm là chữ Phật là Buddha là sự giác ngộ, là sự giải thoát, là sự thấy con đường giải thoát ra khỏi biển luân hồi. Khái niệm ''thành Phật'' lúc này của ngài Đạt Ma đưa tới sự thực hành nhiều hơn là lý luận, là sao chép một bản sao của vị Phật lịch sử là Phật Thích Ca. ''Kiến tánh thành Phật'' là một khái niệm của Thiền Tông, của ngài Sơ Tổ Thiền Tông - Bồ Đề Đạt Ma đưa ra để dẫn dắt con người đang chìm đắm trong biển giáo lý và khuôn thước. Để hiểu được điều này sâu sắc hơn. Chúng ta nên lần lại hành vi, lời nói của ngài Đạt Ma để có thể thấy những điều này gần gũi và chính xác hơn với tông chỉ của ngài.

    3. Nghiên cứu Thiền Tông mà ko nghi vấn vào các hình ảnh cả ngài Bồ Đề Đạt Ma là một thiếu xót lớn. Hình ảnh của một ''bà la môn'' chứ không phải một tu sĩ Phật giáo, một người chứng đạo giải thoát. Đầu không cạo, râu xồm xoàm, giày đi 1 chiếc dưới chân, 1 chiếc treo tren đầu gậy. Các vị chứng đạo không ai là không dùng thân giáo để dạy người. Đây là 1 cuộc cách mạng Phật giáo ở Trung Quốc thời bấy giờ.

    (còn tiếp)
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  2. #2

    Mặc định

    Kính chào huynh! rất lâu không có dịp trao đổi với huynh.

    Nhân huynh mở topic này đệ cũng xin được huynh trao đổi thêm để đệ và mọi người đều hiểu Kiến tánh trong Thiền tông Đông Độ khởi thủy từ Tổ Đạt Ma và tại sao cần phải Kiến tánh, phương pháp đi đến Kiến Tánh, những sai lầm trong tu tập và các kinh nghiệm thực hành của các Đạo hữu đã tu theo pháp môn này.

    Rất mong tất cả chúng ta sẽ trao đổi trên cơ sở Thẳng thắn, Từ bi , Hỉ xả. Phần nào là kinh điển dẫn chứng thì cùng phân tích, phần nào là kinh nghiệm tu học thì cùng tôn trọng , phần nào là tự mình dùng trí tuệ tu học luận giải thì cùng trao đổi.Trân trọng!
    Last edited by DHC; 15-03-2012 at 05:37 PM.

  3. #3

    Mặc định

    Kính chào bạn DHC

    Đối với tôi, ở đời này, kiếp này, tất cả nhưng ai tập thiền, tu thiền tôi đều coi là đạo hữu là anh em có duyên lành và đều là dân chư Thiên tái sinh xuống mượn thân người để tu giải thoát.

    Trong đời Mạt Pháp, ai biết tập thiền, tu thiền là một phước báu. Mọi người tu thiền, kể cả niệm Phật để tĩnh tâm tôi đều hết sức kính trọng. Một vị thiền sư khả kính đã nói với tôi. Bằng kinh nghiệm và sự hiểu biết là chưa đủ. Con có thể làm bất cứ việc gì với tâm từ bi. Hãy rà soát tâm mình trước khi làm. Nếu thật sự làm bằng tâm tham, tâm sân hay tâm si thì nhân quả tương ưng. Với tâm từ thì tất cả đều là duyên lành, là quả lành để tất cả chúng ta đều trọn thành Phật đạo.

    Xin cảm ơn bạn DHC đã ủng hộ topic này.

    Trân trọng !
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi delightdhamma Xem Bài Gởi
    * Bài viết này dựa trên kinh nghiệm cá nhân, chỉ có giá trị tham khảo, xin cảm ơn.

    1. Hai từ Kiến Tánh trong Thiền Tông từ xưa đên nay đã thiêu đốt ko biết bao nhiêu thiền sinh bước vào cửa thiền. Thiền Tông lấy kiến tánh làm trọng, tức là đòi hỏi hành giả phải chuyển tâm hay kiến tánh trước rồi muốn làm gì thì làm. Kiến tánh rồi thì làm gì cũng là diệu dụng, kể cả việc la hét, chặt rắn, chém mèo đều không cho là tạo nghiệp hay sát sinh. Vì thế trong Thiền Tông cấm kỵ việc sao chép bắt chiếc thiền sư đã kiến tánh, vì dụng tâm khác nhau mà nghiệp tạo tác khác nhau. Câu truyện Nhất Chỉ thiền sư cắt tay học trò để cảnh tỉnh học trò trong việc bắt chiếc thiền sư.


    (còn tiếp)
    Đã kiến tánh ,biết rõ tánh rồi muốn làm gì thì làm như :la hét ,chặt rắn chém mèo đều không cho là tạo nghiệp hay sát sinh thiền sư cắt tay học trò .
    Những hành động này có đúng là của một vị thiền sư tu đã kiến tánh ko?
    Trong khi đó quý hữu nói kiến tánh thành PHẬT .
    Thấy tánh nhưng tánh như thế nào để thành PHẬT chứ đâu phải tánh như quý hữu nói ,khó thể chấp nhận nổi .
    KIẾN TÁNH là biết từng hành động ,việc làm phát xuất từ tâm mình ,từ trí tuệ thiện ác ,chánh hay tà của mình ,biết rõ từng đợt khởi của TÂM tánh
    Last edited by minh đài; 15-03-2012 at 08:32 PM.
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minh đài Xem Bài Gởi
    Đã kiến tánh ,biết rõ tánh rồi muốn làm gì thì làm như :la hét ,chặt rắn chém mèo đều không cho là tạo nghiệp hay sát sinh thiền sư cắt tay học trò .
    Những hành động này có đúng là của một vị thiền sư tu đã kiến tánh ko?
    Trong khi đó quý hữu nói kiến tánh thành PHẬT .
    Thấy tánh nhưng tánh như thế nào để thành PHẬT chứ đâu phải tánh như quý hữu nói ,khó thể chấp nhận nổi .
    KIẾN TÁNH là biết từng hành động ,việc làm phát xuất từ tâm mình ,từ trí tuệ thiện ác ,chánh hay tà của mình ,biết rõ từng đợt khởi của TÂM tánh
    Thầy MĐ từ từ nào đừng có nóng tánh, kiến tánh như thế nào ĐH DHC có hỏi ở trên, hãy lắng nghe ĐH delightdhamma trả lời. Viết như thầy ở trên dễ gây tranh cãi lắm lắm.
    NAM MÔ CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT

  6. #6

    Mặc định

    TỶ Minh Đài cứ từ từ, rồi sẽ thấy câu trả lời của Huynh Delightdhamma thôi.

  7. #7

    Mặc định

    3. Nghiên cứu Thiền Tông mà ko nghi vấn vào các hình ảnh cả ngài Bồ Đề Đạt Ma là một thiếu xót lớn. Hình ảnh của một ''bà la môn'' chứ không phải một tu sĩ Phật giáo, một người chứng đạo giải thoát. Đầu không cạo, râu xồm xoàm, giày đi 1 chiếc dưới chân, 1 chiếc treo tren đầu gậy. Các vị chứng đạo không ai là không dùng thân giáo để dạy người. Đây là 1 cuộc cách mạng Phật giáo ở Trung Quốc thời bấy giờ.

    Một số học giả trước đây cũng như nay lao vào phân tích: nào là ngài lấy nhất nguyên để trị nhị nguyên như giầy hai chiếc thì chỉ đi một chiếc, cây gậy treo 1 chiếc giầy để thể hiện tích nhất nguyên. Ko cao đầu, cạo râu để thể hiện sự ko chấp trước vào hình tướng, một số người còn luận giải là ngài là biểu tượng cho khái niệm xuất gia ba-la-mật (ko cần cạo đầu và để râu)...

    Sự thật hình ảnh và phong cách sống của ngài là gì ? Đó là lối sống Trực Chỉ. Trực Chỉ là gì ? Là lối sống không qua quy ước, là lối sống mà người ta không thể gọi tên được, không thể chế định hay khái niệm được. Cả cuộc đời ngài, cái gì bị quy ước (qua lăng kinh khái niệm) liền bị tan tành. Ngài đi qua chợ, nghe pháp sư đang thuyết về tánh không, về không chúng sinh, không thọ giả. Ngài đến gần đấm luôn vào mặt vị pháp sư rồi quay lưng bỏ đi. Vị pháp sư chạy theo hỏi sao ông lại đấm tôi. Ngài đáp: ''Tôi đấm ông như không đấm'' , chẳng phải ông vừa nói trong chợ như vậy sao''. Vị pháp sư liền quỳ lạy biết là gặp bậc giải thoát.

    Trực cái gì và Chỉ cái gì ?. Trực là trực tiếp, ko qua bất cứ ý thức luận giải nào. Chỉ chính là định tâm trên đối tượng, mà đối tượng gì là Chân Tâm. Chân Tâm là cái gì ? Là pháp chân đế không qua khái niệm tục đế. Cụ thể ra là cái Biết, cái Thấy mà không qua Tưởng, Hành và Thức của Ngũ Uẩn của con người. Thiền sinh vào gặp thiền sư. Thiền sư dơ cái phất trần lên hỏi đây là cái gì ? Thiền sinh đáp đây là cái phất trần liền bị thiền sư cho một đạp. Cái Thấy của thiền sinh đã đi qua Tưởng và Thức trong kho thư viện của bộ não để lục trong ký ức cái hình thù như thế này gọi là cái phất trần nền bị ăn đạp. Câu trả lời của thiền sinh là câu trả lời của Tưởng, của tâm quá khứ chứ không phải tâm Như Thị, tâm ở đây và bây giờ.

    Vậy làm thế nào để Kiến Tánh ? Ngài Đạt Ma đã trả lời rồi: Trực Chỉ Chân Tâm. Có Trực Chỉ Chân Tâm thì mơi Kiến Tánh. Mà Kiến Tánh thì mới có cái thấy biết về pháp Chân đế, có nhìn đồng với chư Phật gọi là ngộ.

    Để Trực Chỉ Chân Tâm thì làm thế nào ? Ngài Đạt Ma đã trả lời: Truyền Ngoài Giáo Lý. Giáo Lý chính là cái bè qua sông. Đức Phật bảo qua sông phải bỏ bè. Nhưng hầu như chiếc bè lại được làm kiên cố hơn, chiếc bè trở thành Tôn Giáo. Ngón tay không còn là chỉ mặt trăng nữa mà là che khuất mặt trăng.

    Vậy muốn Truyền Ngoài Giáo Lý thì phải làm gì ? Ngài Đạt Ma đáp: '' Phải Bất Lập Văn Tự''. Vì bản chất văn tự chính là quy ước, là khái niệm rồi nên muốn truyền ngoài giáo lý để trực chỉ chân tâm phải dùng các phương tiện khác. Lâm Tế đến gặp Hoàng Bá hỏi về Đại ý Phật Pháp là gì ? Hoàng Bá đập cho 1 gậy. Lâm Tế không lãnh hội được trở về phòng. Lần 2 , lần 3 lên hỏi đều bị ăn gậy vẫn không lãnh hội được nên bỏ đi tìm thầy khác. Đến gặp vị thiền sư Đại Ngu, ngài Đại Ngu nói thầy của ngươi quá từ bi. Lâm Tế trở về trên đường liền ngộ. Lâm Tế ngộ cái gì ? Nếu bạn ăn 1 gậy vào vai thì ngay lúc ăn gậy bạn có thấy đau không ? Nếu đau thì cái tâm Biết đau ấy nó có đem so sánh cái đau trước đây là cái đau nào không ? Cái Tưởng và Thức có lục ra trong bộ não giống như đi tìm hình ảnh của cái phất trần không ? Cái tâm đang cảm thọ đau ấy nó có tìm hiểu đại ý phật pháp nữa không ? Ngay khi phát gậy dính vai, cái tâm Biết đau ấy chính là Chân Tâm, cú gậy đánh chính là Trực Chỉ. Anh đi tìm đại ý Phật Pháp. Ta trả lời cho anh đúng điều Tâm anh đang tìm kiếm, anh ko nhận được, ta biết làm sao ?. Cú đánh bằng gậy chính là bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền.

    (còn tiếp)
    Last edited by delightdhamma; 16-03-2012 at 01:17 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  8. #8

    Mặc định

    Hay tuyệt!

    Svākhāto Bhagavatā Dhammo: "Sanditthiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko, Paccattam veditabbo viññūhi"

    Pháp của Đức Thế tôn khéo thuyết giảng cho quả ngay lập tức, không qua thời gian, do hành giả tự chiếu kiến nơi tâm...

  9. #9

    Mặc định

    Lành thay!
    Thật là khéo giảng!
    Xin cúng dường sự hiểu pháp của con lên tam bảo và phổ truyền cho đại chúng hữu tình và vô tình đồng giác ngộ con đường Phật đạo
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  10. #10

    Mặc định

    4. Vào thời kỳ đó Thiền Tông được coi là lối tu kỳ dị, thậm chí bị phê phán là lối tu của ngoại đạo. Ba vị tổ đầu tiên là Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả và Tăng Xán gần như rất ít người biết đến và có cuộc sống tu hành rất khổ hạnh. Cả cuộc đời ngài Bồ Đề Đạt Ma chỉ có 3 học trò. Đến ngài Huệ Khả chỉ có 1 học trò là Tăng Xán. Đến ngài Tăng Xán cũng chỉ có 1 học trò là Đạo Tín. Con đường tu tập của các Tổ có thể nói là máu và nước mặt. Nói máu và nước mắt cũng là do tâm phàm phu của chúng ta mà nói. Còn các ngài thì đã tự tại với phẩm chất của một bậc Thánh, với lối sống Trực Chỉ, không còn so đo, đối đãi. Ngài Bồ Đề Đạt Ma khi mất thì ko tìm thấy xác trong mộ, sau này các đệ tử cho rằng ngài đã dùng thần thông để trờ về Ấn Độ. Ngài Huệ Khả bằng hạnh nguyện xả tay cầu đạo để tuyết trắng thành đỏ dưới chân mình. Sau khi trao truyền lại y bát cho ngài Tăng Xán, ngài Huệ Khả thõng tay vào chợ, thuyết pháp độ sinh. Sư làm khuân vác ban ngày, ban đêm ngủ ở chợ, biện tài vô ngại, quần chúng theo rất đông. Một số sư sãi ngày đó đố kỵ ghen ghét vu khống cho ngài là tà đạo để báo quan bắt ngài, rồi xử ngài tội chết. Là bậc chân nhân thấu hiểu nghiệp kiếp trước, ngài tự tại ra đi mà không hề thanh minh hay biện giải tội chết cho mình. Ngài Tăng Xán bị bệnh cùi nên ngài sống cuộc đời gần như ẩn dật. Cho đến ngày gặp ngài Huệ Khả khai thị tội tướng vốn không liền ngộ đạo để rồi trở thành tổ thứ ba của Thiền Tông. Ngài để lại bài Tín Tâm Minh với 4 câu đầu làm thổn thức trong lòng bao người tu đạo:

    Đạo lớn chẳng gì khó
    Cốt đừng lựa chọn thôi
    Quý hồ không yêu ghét
    Lòng tự nhiên sáng ngời


    Nếu nói Đức Phật ra đời là thời kỳ rực rỡ của đạo Phật, thì Thiền Tông chỉ phát triển rực rỡ vào thời kỳ tổ thứ 6 và là tổ cuối cùng của Thiền Tông - ngài Huệ Năng. Ngài Huệ Năng cũng có cuộc đời ấu thơ vất vả, không biết chữ và làm người đốn củi trên núi. Do là bậc thượng căn và các ba la mật trong quá khứ đã tròn đầy, nên khi ngài đốn củi trở về, nghe 1 câu kinh từ nhà hàng xóm vọng ra mà ngộ đạo. Từ lúc ngài chia tay người mẹ già lên đường tìm đến Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn cho đến lúc mất là cả một cuộc đời, một lối sóng Trực Chỉ Chân Tâm. Thú vị nhất mà hàng hậu học được thỏa mãn no nê cùng lúc có hai vị tổ thứ năm và thứ sau cùng nhau trình diễn phong cách Trực Chỉ trong thời kỳ giao thoa hiếm hoi giữa hai Tổ trao truyền cho nhau được ghi lại trong lịch sử Thiền Tông.

    Thông thường, lời Đức Phật thuyết mới gọi là Kinh. Nhưng Kinh Pháp Bảo Đàn là ghi lời ngài Lục Tổ Huệ Năng thuyết. Sự kết tập và ghi lại các bài thuyết của ngài Huệ Năng là ngài Thần Hội, là một đệ tử của ngài Huệ Năng. Ngài Thần Hội chính là người có công lao lớn nhất trong việc hệ thống hóa lại các tích truyện, lời thuyết và lịch sử Thiền Tông cho đến đời ngài Lục Tổ Huệ Năng. Những lời trong Kinh Pháp Bảo Đàn cũng được coi như lời của của bậc giải thoát, giác ngộ (buddha). Sau thời ngài Huệ Năng trở đi, lời thuyết giảng dạy người của các thiền sư thường được gọi là Ngữ Lục. Lục là sáu căn và sáu trần cọ sát vào nhau. Ngữ là ngôn ngữ diễn tả sáu căn cọ sát với sáu trần. Ngữ Lục không phải là ngôn ngữ văn tự như người ta lầm tưởng. Cho nên trong nhà thiền, chạy theo ngôn từ mà luận giải là giết chết thiền sinh, đầu lại thêm đầu, vọng tưởng lại đè thêm vọng tưởng.

    (còn tiếp)
    Last edited by delightdhamma; 17-03-2012 at 12:47 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  11. #11

    Mặc định

    5. Sau thời ngài Huệ Năng trở đi, lời thuyết giảng dạy người của các thiền sư thường được gọi là Ngữ Lục. Lục là sáu căn và sáu trần cọ sát vào nhau. Ngữ là ngôn ngữ diễn tả sáu căn cọ sát với sáu trần. Ngữ Lục không phải là ngôn ngữ văn tự như người ta lầm tưởng. Cho nên trong nhà thiền, chạy theo ngôn từ mà luận giải là giết chết thiền sinh, đầu lại thêm đầu, vọng tưởng lại đè thêm vọng tưởng.

    Cái ngôn ngữ được diễn tả ngay khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần gọi là Ngữ Lục. Tức là thứ ngôn ngữ của Chân Đế, cái ngôn ngữ không được phép qua bất cứ hình thức quy ước hay khái niệm nào. Cái gì là sáu căn tiếp xúc với sáu trần ? Đó là người và cảnh, đó là thân và tâm, đó là chủ thể và đối tượng, đó là chân đế và tục đế, đó là giải thoát và luân hồi. Ngay ở cái tiếp xúc và cọ sát ấy, giữa sáu căn và sáu trần (do duyên Xúc), thì Thọ phát sinh. Nếu dừng lại được ở đây thôi thì đó là Chân Đế, đó là giải thoát. Không dừng được thì đi vào Tục Đế, đi vào Luân Hồi.

    Thọ của Chân Đế là gì ? Là cái Thấy và Biết không qua khái niệm quy ước, danh từ chuyên môn theo 12 Nhân Duyên là không có Thủ, theo ngũ uẩn là không có Tưởng, hành , Thức. Vòng 12 Nhân Duyên bị chặt đứt và dừng lại ở Xúc duyên Thọ, không còn có cái Thọ duyên Ái phát sinh nữa, Ái không phát sinh nữa nên không có Thủ, Hữu, Sinh, Già, Chết cho kiếp vị lai. Đó là con đường Thiền Tông, con đường của Ngữ lục, con đường của Kiến Tánh, con đường của chư Phật đã đi qua.

    Thấy và Biết cái gì ? Nóng lạnh biết nóng lạnh, chua, cay, mặn, đắng thì Biết là chua, cay, mặn đắng mà không có sự diễn giải của Tưởng, của Hành của Thức như đây là vị chua của quả chanh hay vị chua của quả xoài. Sự diễn giải này dần hành giả trở về với tâm Tường khởi lên, tâm Hành khởi lên trở về với ý thức của bộ não đã ghi lại trong quá khứ hình ảnh và vị chua của chanh của xoài. Tiếp thoe trong 12 nhân duyên thì khi Xúc dẫn đến Thọ mà không phát sinh Ái và Thủ thì cái Thọ ấy là thọ của bậc giải thoát. Nhận diện rõ vị ngọt, vị chua, vị cay nhưng không bực bội (phi hữu Ái) khi ăn phải cay, không ham thích (hữu Ái) khi ăn thấy vị ngọt, không chấp Thủ có một cái Ta đang ăn, cái Ta đang cảm Thọ. Vì duyên Xúc đưa đên bao gồm có cái nếm và cái bị nếm, cái nghe và cái bị nghe. Lưỡi bị hỏng là vị căn hỏng thì cay mấy nó cũng không có Thọ. Cái lưỡi tốt nhưng không có vi nào cả thì nó không thể nếm, nó là vô dụng. Nên ngay việc Thọ thôi cũng không có cái Ta đang cảm Thọ vì cảm Thọ này do duyên Xúc đưa tới. Duyên Xúc lại do duyên của sáu căn và sáu trần đưa tới.

    Một số hành giả đã sai lầm cho rằng khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà tâm bất động hay như như mới là giải thoát, nếu đúng thì tu tập như vậy sẽ trở thành gỗ đá, tu tập như vậy dễ trở thành khiếm khuyết trên thân và tâm.

    Ngài Lâm Tế đã vô cùng từ bi để diễn giải Ngữ Lục hay Trực Chỉ Chân Tâm ở mức độ dễ dàng hơn khi thu gọn trên 2 đối tượng: người và cảnh, chủ thể và khách thể. Ngài đưa ra 4 giải pháp (làm thiền sinh dễ kẹt vì học lỏm ở chỗ này lại hình thành công thức, khái niệm và quy ước mới) để thiền sinh dễ nhận diện ngay khi Cảnh và Người, Chủ Thể và Đối Tượng cùng tiếp Xúc với nhau chính là nơi cái Chân Đế hiển lộ nếu không bị che mờ bởi Tưởng, Hành và Thức được khởi lên:

    a. Đoạt cảnh ko đoạt người
    b. Đoạt người không đoạt cảnh
    c. Đoạt cả cảnh cả người
    d. Không đoạt cảnh không đoạt người


    Các ví dụ trích trong Lâm Tế Ngữ Lục:

    a/ Đoạt cảnh:

    Sư đến Tháp Sơ Tổ Ðạt Ma, Tháp Chủ nói: "Lễ Phật trước hay lễ Tổ trước ?"
    Sư đáp: "Tổ và Phật đều chẳng lễ".
    Tháp Chủ nói: "Không biết Phật với Tổ có oán thù gì với trưởng lão ?"
    Sư bèn phất tay áo đi ra.


    b/ Đoạt người:

    Sư đến Tượng Ðiền, hỏi: "Bất phàm, bất thánh xin Sư nói mau"
    Ðiền đáp: "Lão tăng chỉ như thế này"
    Sư bèn hét rằng: "Bao nhiêu trọc đầu cứ ở đây tìm việc gì vậy ?"


    c/ Đoạt cả cảnh cả người:

    Lúc đương thời, Kỉnh Sơn có 500 chúng nhưng lại ít người tham hỏi. Hoàng Bá cử Sư đến Kỉnh Sơn và hỏi Sư rằng: "Ngươi đến chỗ kia sẽ làm sao ?"
    Sư thưa: "Ðến chỗ ấy tự có phương tiện".
    Khi Sư đến Kỉnh Sơn, gặp Kỉnh Sơn tại Pháp đường, Kỉnh Sơn vừa ngước đầu lên Sư liền hét lớn, Kỉnh Sơn định mở miệng nói, Sư phất tay áo đi ra.
    Một vị tăng khác hỏi Kỉnh Sơn: "Ông tăng vừa rồi có lời nói gì mà hét Hòa Thượng".
    Kỉnh Sơn đáp: "Ông tăng này từ Thiền Hội Hoàng Bá đến đây, ngươi muốn biết thì tự đi hỏi ông ấy đi".
    Sau đó 500 chúng ở Kinh Sơn tan rã hết phân nửa


    d/ Không đoạt cảnh không đoạt người:

    Sư đang nằm ngủ trong Tăng đường, Hoàng Bá vào thấy, lấy gậy gõ vào đầu giường một tiếng. Sư ngó mặt lên thấy là Hoàng Bá, liền nhắm mắt ngủ tiếp. Hoàng Bá lại gõ lần nữa rồi đi lên nhà trên gặp Thủ tọa đang ngồi thiền. Hoàng Bá bảo thủ tọa: "Nhà dưới ông trẻ kia đang ngồi thiền ông ở đây vọng tưởng làm gì ?"
    Thủ tọa nói: "Lão hán này làm gì vậy ?"
    Hoàng Bá lại gõ đầu giường một cái, rồi đi ra.


    (còn tiếp)
    Last edited by delightdhamma; 18-03-2012 at 04:50 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  12. #12

    Mặc định

    6. Các vị thiền sư ngộ đạo trong Thiền Tông rất nhiều. Nhưng có 3 vị thiền sư mà tôi ấn tượng nhất là Lâm Tế, Triệu Châu và Mã Tổ. Phong cách ngài Lâm Tế dữ dằn, nhiệt tâm. Phong cách ngài Triệu Châu thì nhẹ hàng thâm thúy. Phong cách của ngài Mã Tổ thì thú vị, hóm hỉnh. Ngài Mã Tổ có học trò chân truyền là ngài Bách Trượng để lại công án mà số người hiểu lầm nhiều nhất là công án Bách Trượng dã hồ (Chồn hoang của Bách Trượng) trong Vô Môn Quan. Công án này nổi tiếng vì Bách Trượng kể rằng có vị sư tăng chỉ trả lời sai một câu mà đọa làm thân chồn năm trăm kiếp. Sau đó ngài bị chính đệ tử của mình là Hoàng Bá tát ngay tại giảng đường trước chúng nghe pháp, khi bị tát chính Bách Trượng còn vỗ tay. Câu ngài Hoàng Bá nói trước khi tát là hỏi lại Bách Trượng: ''Lão ấy nói sai 1 câu mà đọa 500 kiếp, nếu lão ấy nói đúng thì trở thành cái gì ?''. Chỗ này gọi là học đạo thông minh. Trong kinh người băt rắn hay ví dụ con rắn, Đức Phật cũng nói tu đạo Phật cũng phải khéo tu như người bắt rắn, không khéo học, khéo tu thì thành người bắt rắn đằng đuôi thì thành tại họa.

    Đáng tiếc là trên mạng, rất nhiều bài thuyết pháp lấy câu chuyện Bách Trượng dã hồ ra để nói về Nhân Quả và dọa người bảo rằng nói mà sai đến như vị sư tu hành sắp đắc đạo chỉ vì 1 câu mà đọa 500 kiếp làm chồn. Biết đâu đây là một công án Thiền Tông mà ngài Bách Trường cho thấy sự vô nghĩa và phi lý của văn tự và ngôn ngữ (nên phải bất lập văn tự). Người không hiểu Thiền Tôgn thì khôgn đáng trách, vậy mà cũng nhiều vị tu tập Thiền tông vẫn đang thuyết giảng, không biết hoặc cố tình không chịu nhìn nhận sự thật này mà vẫn đem ra thuyết giảng về nhân quả bằng ví dụ công án này, trong khi công án này chính là sự chứng minh cho sự bất lực văn tự ngôn ngữ trong Thiền Tông.

    (còn tiếp)
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  13. #13

    Mặc định

    bạn có kiến thức nhưng sự thực thì rất dễ để nhận ra 1 người đã kiến tánh , đơn giản đến vô cùng ...
    Tuy nhiên nó chỉ mới là bắt đầu thôi ... có điều tuy là mới đi ... nhưng đã đến !
    Người đã kiến tánh , giai đoạn đầu có giác tánh ... ánh sáng của nó chiếu soi vạn pháp , tự thông hiểu vạn pháp .
    Lúc đó là giai đoạn người này rất muốn thuyết pháp , trong tâm thường có sự tự hào bí mật ... các pháp thế gian và xuất thế gian hết thảy đều thấy tường tận .
    Thời gian sau thì tâm người đó bình lặng hơn , ko còn sự ham thích thuyết pháp nữa . tâm lặng vì không còn luyến pháp , giống như khi ngộ tánh là tự ly tướng .
    Dần dần là ly tâm , rồi ... tiếp tục đến khi người đó nhận ra bản thể của vũ trụ , rốt ráo tất cả không còn gì hoài nghi , nhận ra được sự vô ngại của pháp giới .
    ...
    Lúc này bắt đầu 1 giai đoạn khác .... hic hic
    Last edited by colenao123; 18-03-2012 at 06:05 PM.
    Vô vi nhi vô bất vi !

  14. #14

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi colenao123 Xem Bài Gởi
    bạn có kiến thức nhưng sự thực thì rất dễ để nhận ra 1 người đã kiến tánh , đơn giản đến vô cùng ...
    Đâu có quan trọng gì, hãy để huynh Delightdhamma trình bày hết đã. Ở đây chỉ giải quyết ba vấn đề =>Tại sao phải Kiến tánh?, Làm thế nào để Kiến tánh?, Kinh nghiệm thực hành công phu. Mô Phật!
    Last edited by DHC; 18-03-2012 at 06:11 PM.

  15. #15

    Mặc định

    tại sao phải kiến tánh ? cũng như câu tại sao phải thở ? tu để làm gì ? ...
    Tu hành phần nhiều chẳng kiểm soát được vọng tưởng , dùng vô minh mà tu thì muôn kiếp chẳng thành .
    Trước phải hiểu , cái chân thật vốn có . Từ cái hiểu này , thấy thật tướng vạn pháp , tâm chẳng chấp , chẳng bỏ . Tự nhiên đạt được chân công phu ,an nhiên , tự tại thẳng tiến phật địa , siêu vô số kiếp tu hành .
    Cái thấy chân thật rồi thì dùng huyễn tu huyễn , có nó rồi thì có lòng tin quyết định chẳng còn nghi ngờ , tự mình là thầy của chính mình , lúc nào cũng học vô tự kinh , lúc nào cũng thường giác .

    Làm thế nào để kiến tánh ?

    Nhìn vào kinh điển thì mơ hồ , thực tế thì kiến tánh là trực tin , trực nhận . Lấy tin làm gốc thì vào được .
    Như vậy nè , kinh chỉ nhắc lúc người ta ngộ . trước đó dùng phương tiện gì ? cái này ít ai biết hoặc để ý . Thực ra trước đó , người này bằng cách nọ cách kia . Phải liên kết được vạn pháp lại , duy chỉ còn thiếu 1 điểm giống như 1 cái đinh hay 1 cái vít thiếu sót trong chuỗi liên kết đó .
    Lúc đó bằng 1 câu kệ , bằng 1 ánh sáng , bằng 1 ngoại cảnh . Bất ngờ người ta trực nhận ra , giống như 1 cuộn phim tua nhanh tới mức tốc độ cao vô cùng , vạn pháp tự thông suốt .
    Công phu thì chỉ người đủ duyên sẽ được truyền , pháp không giữ cho riêng mình , chỉ sợ không đủ duyên .
    Vô vi nhi vô bất vi !

  16. #16

    Mặc định

    Kiên nhẫn đi mà colenao123. Đây là nơi trao đổi, hãy để huynh Delightdhamma trình bày hết đã.

  17. #17

    Mặc định

    Trước xin phép Huynh delightdhamma. cho Đệ mạn phép phối hợp 2 bài này lại cho Nó thật ăn ý cùng nhau nha. Sau lại có thể tuyệt vời đến thế.

    Trích dẫn Nguyên văn bởi delightdhamma Xem Bài Gởi
    5. Sau thời ngài Huệ Năng trở đi, lời thuyết giảng dạy người của các thiền sư thường được gọi là Ngữ Lục. Lục là sáu căn và sáu trần cọ sát vào nhau. Ngữ là ngôn ngữ diễn tả sáu căn cọ sát với sáu trần. Ngữ Lục không phải là ngôn ngữ văn tự như người ta lầm tưởng. Cho nên trong nhà thiền, chạy theo ngôn từ mà luận giải là giết chết thiền sinh, đầu lại thêm đầu, vọng tưởng lại đè thêm vọng tưởng.

    Cái ngôn ngữ được diễn tả ngay khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần gọi là Ngữ Lục. Tức là thứ ngôn ngữ của Chân Đế, cái ngôn ngữ không được phép qua bất cứ hình thức quy ước hay khái niệm nào. Cái gì là sáu căn tiếp xúc với sáu trần ? Đó là người và cảnh, đó là thân và tâm, đó là chủ thể và đối tượng, đó là chân đế và tục đế, đó là giải thoát và luân hồi. Ngay ở cái tiếp xúc và cọ sát ấy, giữa sáu căn và sáu trần (do duyên Xúc), thì Thọ phát sinh. Nếu dừng lại được ở đây thôi thì đó là Chân Đế, đó là giải thoát. Không dừng được thì đi vào Tục Đế, đi vào Luân Hồi.

    Thọ của Chân Đế là gì ? Là cái Thấy và Biết không qua khái niệm quy ước, danh từ chuyên môn theo 12 Nhân Duyên là không có Thủ, theo ngũ uẩn là không có Tưởng, hành , Thức. Vòng 12 Nhân Duyên bị chặt đứt và dừng lại ở Xúc duyên Thọ, không còn có cái Thọ duyên Ái phát sinh nữa, Ái không phát sinh nữa nên không có Thủ, Hữu, Sinh, Già, Chết cho kiếp vị lai. Đó là con đường Thiền Tông, con đường của Ngữ lục, con đường của Kiến Tánh, con đường của chư Phật đã đi qua.

    Thấy và Biết cái gì ? Nóng lạnh biết nóng lạnh, chua, cay, mặn, đắng thì Biết là chua, cay, mặn đắng mà không có sự diễn giải của Tưởng, của Hành của Thức như đây là vị chua của quả chanh hay vị chua của quả xoài. Sự diễn giải này dần hành giả trở về với tâm Tường khởi lên, tâm Hành khởi lên trở về với ý thức của bộ não đã ghi lại trong quá khứ hình ảnh và vị chua của chanh của xoài. Tiếp thoe trong 12 nhân duyên thì khi Xúc dẫn đến Thọ mà không phát sinh Ái và Thủ thì cái Thọ ấy là thọ của bậc giải thoát. Nhận diện rõ vị ngọt, vị chua, vị cay nhưng không bực bội (phi hữu Ái) khi ăn phải cay, không ham thích (hữu Ái) khi ăn thấy vị ngọt, không chấp Thủ có một cái Ta đang ăn, cái Ta đang cảm Thọ. Vì duyên Xúc đưa đên bao gồm có cái nếm và cái bị nếm, cái nghe và cái bị nghe. Lưỡi bị hỏng là vị căn hỏng thì cay mấy nó cũng không có Thọ. Cái lưỡi tốt nhưng không có vi nào cả thì nó không thể nếm, nó là vô dụng. Nên ngay việc Thọ thôi cũng không có cái Ta đang cảm Thọ vì cảm Thọ này do duyên Xúc đưa tới. Duyên Xúc lại do duyên của sáu căn và sáu trần đưa tới.

    Một số hành giả đã sai lầm cho rằng khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà tâm bất động hay như như mới là giải thoát, nếu đúng thì tu tập như vậy sẽ trở thành gỗ đá, tu tập như vậy dễ trở thành khiếm khuyết trên thân và tâm.

    Ngài Lâm Tế đã vô cùng từ bi để diễn giải Ngữ Lục hay Trực Chỉ Chân Tâm ở mức độ dễ dàng hơn khi thu gọn trên 2 đối tượng: người và cảnh, chủ thể và khách thể. Ngài đưa ra 4 giải pháp (làm thiền sinh dễ kẹt vì học lỏm ở chỗ này lại hình thành công thức, khái niệm và quy ước mới) để thiền sinh dễ nhận diện ngay khi Cảnh và Người, Chủ Thể và Đối Tượng cùng tiếp Xúc với nhau chính là nơi cái Chân Đế hiển lộ nếu không bị che mờ bởi Tưởng, Hành và Thức được khởi lên:

    (còn tiếp)
    Xin trích từ Tỷ BichThuy :
    "... Như ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi ngài Trung Ấp:
    -” Làm sao thấy nghĩa Phật Tánh ?”
    Ngài Trung Ấp bảo:
    -” Ta có một ví dụ nói cho ông nghe: Như cái lồng có 6 cửa chứa con khỉ ở trong. Ngoài có con khỉ, khi con khỉ ngoài tới gỏ cửa kêu chóe chóe, con khỉ trong cũng kêu chóe chóe đáp lại. Ở ngoài con khỉ chạy 6 cửa kêu chóe chóe thì ở trong 6 cửa cũng đáp lại chóe chóe".

    Ngay đó Ngưỡng Sơn đáp :” Con hiểu rồi “

    Ở ngoài nó tới chóe chóe thì ở trong chóe chóe đáp lại liền, tức là luôn luôn có mặt con khỉ ở trong đó, sáu căn này luôn luôn có mặt ở đó. Nhưng chổ đó chưa sâu, cho nên khi ngài Trung Ấp nói vậy thì ngài Ngưỡng Sơn nói:
    -” Nhưng bây giờ giả sử con khỉ ở trong ngủ, thì con khỉ ở ngoài làm sao ?”

    Con khỉ ở trong ngủ thì làm sao kêu nó ? Làm sao biết được có con khỉ ở trong ? Nếu con khỉ ở trong thức thì con khỉ ở ngoài kêu chóe chóe, ở trong đáp lại, mình dễ thấy rồi.
    Tức là cái thấy nghe này luôn luôn nó hiện đây rồi, nhưng con khỉ ở trong ngủ, bây giờ làm sao biết nó ở đâu?
    Chổ đó mới là chổ sâu xa, Cho nên khi ngài Ngưỡng Sơn nói tới đó Thì ngài Trung Ấp bước xuống giường thiền nắm tay Ngưỡng Sơn nói rằng:
    -” Chóe chóe , cùng ông thấy nhau rồi.

    Đó là chổ 2 ngài thấy nhau. Như vậy chổ nào là chổ con khỉ ở trong ngủ ?. Người tu thiền phải thấy được, tới được chổ đó; còn chưa thấy được, tới được chổ đó thì cũng chưa xong. Chổ con khỉ trong ngủ, làm sao thấy được?. Nó thức thì nó còn chóe chóe mình dễ thấy, còn nó ngủ biết nó nằm ở chổ nào ?.
    Chính chổ đó là.....

    Chính chổ đó là chổ trước khi động niệm, nó ngủ là trước khi động niệm, mình thấy trở lại chổ trước khi động niệm đó, thì sẽ thấy Phật, thấy Tổ, thấy các Thiền sư, mình cũng thấy nhau liền.
    Cho nên nói tới chổ đó, thì ngài Trung Ấp bước xuống nắm tay Ngưỡng Sơn nói:” cùng ông thấy nhau rồi”. Tức là thấy lại chổ trước khi động niệm đó. Bởi vì vừa động niệm vừa nghĩ thì sao ? Là con khỉ thức rồi, Phải thấy tột trở lại chổ đó, là chổ những tâm niệm lăng xăng phải dừng."
    Ha.ha... Thật tuyệt vời!hug007

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DHC Xem Bài Gởi
    Kiên nhẫn đi mà colenao123. Đây là nơi trao đổi, hãy để huynh Delightdhamma trình bày hết đã.
    Cảm ơn bạn DHC. Tôi nghĩ đây là diễn đàn. Mọi người đều có thể trao đổi sau vài bài viết của tôi. Tùy duyên và NHƯ THỊ bạn nhỉ ! Tôi vẫn sẽ tiếp tục viết khi có khoảng trống. Cảm ơn bạn nhiều !
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Quoc.LLac Xem Bài Gởi
    Trước xin phép Huynh delightdhamma. cho Đệ mạn phép phối hợp 2 bài này lại cho Nó thật ăn ý cùng nhau nha. Sau lại có thể tuyệt vời đến thế.

    Xin trích từ Tỷ BichThuy :
    "... Như ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi ngài Trung Ấp:
    -” Làm sao thấy nghĩa Phật Tánh ?”
    Ngài Trung Ấp bảo:
    -” Ta có một ví dụ nói cho ông nghe: Như cái lồng có 6 cửa chứa con khỉ ở trong. Ngoài có con khỉ, khi con khỉ ngoài tới gỏ cửa kêu chóe chóe, con khỉ trong cũng kêu chóe chóe đáp lại. Ở ngoài con khỉ chạy 6 cửa kêu chóe chóe thì ở trong 6 cửa cũng đáp lại chóe chóe".
    Xin chúc mừng và tán thán bạn Quốc Lạc đã ngộ lý. Ngộ Lý rồi còn Ngộ Sự. Ngộ Lý Sự rồi còn cách Kiến Tánh xa lắm.

    Nói bạn đừng buồn, không phải đối đáp nào trong các thiền sư cũng là công án, vì người đời sau gom lại nhiều quá mà ko phân biệt rõ đâu là công án, đâu là đối đáp thông thường. Sự thật công án là lối Trực Chỉ không qua Tưởng, Hành, Thức để luận giải.

    Khi ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi Phật Pháp là gì ? (đang vọng tưởng)

    Ngài Trung Ấp lại lấy ví dụ con khỉ trong và ngoài (vọng tưởng tiếp, người nghe và người nói đang vọng tưởng về con khỉ, sau đó lại lấy ẩn ý việc con khỉ so sánh với sáu căn sáu trần, cái cả hai ngài nhìn thấy đều qua ý thức. Toàn bài của tôi luận giải ở mục 5 chính là luận giải để Ngộ Lý. Toàn bộ ở mục 3 là luận giải về ngộ Hành đi đến Kiến Tánh. Tức là pháp Hành và pháp Thành trong Thiền Tông. Thiền Tông rất kỵ đối đáp kiểu 2 ngài vừa rồi. Tôi hậu sinh, ko dám nói đúng sai, chỉ dám nói dựa theo kinh nghiệm cá nhân.

    Trân Trọng
    Last edited by delightdhamma; 18-03-2012 at 10:04 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi colenao123 Xem Bài Gởi
    bạn có kiến thức nhưng sự thực thì rất dễ để nhận ra 1 người đã kiến tánh , đơn giản đến vô cùng ...
    Tuy nhiên nó chỉ mới là bắt đầu thôi ... có điều tuy là mới đi ... nhưng đã đến !
    Người đã kiến tánh , giai đoạn đầu có giác tánh ... ánh sáng của nó chiếu soi vạn pháp , tự thông hiểu vạn pháp .
    Lúc đó là giai đoạn người này rất muốn thuyết pháp , trong tâm thường có sự tự hào bí mật ... các pháp thế gian và xuất thế gian hết thảy đều thấy tường tận .
    Thời gian sau thì tâm người đó bình lặng hơn , ko còn sự ham thích thuyết pháp nữa . tâm lặng vì không còn luyến pháp , giống như khi ngộ tánh là tự ly tướng .
    Dần dần là ly tâm , rồi ... tiếp tục đến khi người đó nhận ra bản thể của vũ trụ , rốt ráo tất cả không còn gì hoài nghi , nhận ra được sự vô ngại của pháp giới .
    ...
    Lúc này bắt đầu 1 giai đoạn khác .... hic hic
    Nếu không với tới được chân lý thì bạn cũng có quyền kéo chân lý tới ngang bằng với hiểu biết của mình. Đó là quyền của mỗi người. Vấn đề là cái hiểu biết của mình, cái mình cho là chân lý ấy có đem lại sự an lạc và giải thoát cho chính mình và người hay không mà thôi.

    Ngài Bồ Đề Đạt ma đã từng nói không có pháp cao thấp, vì pháp chỉ là cái bè đưa người ta qua sông. Cái gì đưa được người qua sông thì gọi là bè, là pháp. Vấn đề là anh có nhận diện được đây là cái bè, đây là cách chèo bè, đây là chô nước xoáy, đây là tư lương đem theo, phía nào là bở bên kia, ....và còn phải bỏ bè khi cập bờ nữa.

    Thậm chí nếu anh thấy bờ bên này ok, không thấy Khổ thì tìm sang bờ bên kia làm gì ? Phải có ý muốn bỏ bờ bên này mới đi tìm bè để sang bờ bên kia chứ. Còn tìm hiểu trang bị thêm kiến thức tư duy thì ở bờ bên này vẫn ok mà. Sự thật Khổ phải được thấy thì ý muốn Giải Thoát mới là chân chính. Ngoài ra là Tà Đạo.

    Một cốc nước cũng là giải thoát cho cơn khát. Cốc nước lúc ấy cũng gọi là duyên cho giải thoát cơn khát vậy. Còn nếu không khát thì cốc nước ấy là thừa và vô ích.

    Nếu khát nhưng tìm nước quá dễ thì con khát không phải là nỗi khổ, không phải là sự giải thoát. Cơn khát chỉ thật sự là nỗi khổ khi người ta đi trên sa mạc, lúc đó mới đủ duyên cho cốc nước trở thành sự giải thoát của cơn khát.

    Những điều tôi viết cũng như là cốc nước mà thôi. Hay hay dở chính là chỗ anh có khát hay không, ngay cả sự khát cũng ở nơi bóng mát hay ở trên sa mạc. Cảm ơn bạn !
    Last edited by delightdhamma; 18-03-2012 at 10:47 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Cảm giác của bạn khi ngồi thiền thế nào ?
    By namcungnhac in forum Thiền Tông
    Trả lời: 495
    Bài mới gởi: 21-12-2022, 04:25 PM
  2. KIẾN TÁNH (yếu chỉ thiền tông)
    By minh đài in forum Thiền Tông
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 13-03-2012, 01:20 PM
  3. Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 11-11-2011, 02:59 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •