Trang 2 trong 9 Đầu tiênĐầu tiên 12345678 ... Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 21 tới 40 trên 174

Ðề tài: Bước vào Sơ Thiền

  1. #21

    Mặc định

    có một điểm thắc mắc với huynh Delightdhamma là đức Phật thành đạo dưới gốc cây bồ để theo huynh mô tả thì bắt đầu từ trạng thái nhớ lại sơ thiền hồi 7 tuổi. Tuy nhiên, như tôi biết thì đức Phật trước khi ngồi dưới cội bồ đề thì đã đạt được mức thiền cao nhất trong thiền định là phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi và việc khai ngộ chỉ là bước của tuệ quán. Vậy thì trạng thái sơ thiền thuở còn nhỏ và sơ thiền trong 8 bậc thiền định với 4 thiền hữu sắc và 4 thiền vô sắc có khác gì nhau không ?

  2. #22

    Mặc định

    Chào bạn QUANG COM, câu hỏi của bạn có CÔNG ĐỨC rất lớn vì giúp cho nhiều người đang mắc kẹt hoặc chưa thấy con đường thiền định và thiền tuệ được rõ ràng. Cảm ơn bạn.

    Đức Phật đã kể lại theo THỨ TỰ với chúng ta toàn bộ hành trình tìm giác ngộ của ngài trong đại kinh Saccaka (kinh 36, Trung Bộ Kinh). Các bạn đọc kỹ lại. Ở đây , tôi xin tóm tắt 6 giai đoạn hành trình lần lượt chính của Đức Phật kể lại thứ tự trong cùng một bài kinh này để trả lời câu hỏi của bạn QuangCom.

    1. Ngài đến vị thầy thứ nhất chứng đạt Vô Sở Hữu Xứ:

    Như vậy, này Aggivessana, Alara Kalama là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

    2. Ngài đến vị thầy thứ hai chứng đạt Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ:

    Như vậy, này Aggivessana, Uddaka Ramaputta là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

    3. Sự tuyệt vọng đến cùng tột của ngài khi chưa tìm ra đạo lộ:

    Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Thuở xưa có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Về tương lai, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng không thể có gì hơn nữa. Trong hiện tại, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Nhưng Ta, với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?"

    4. Ngài nhớ lại cảm giác chứng Sơ thiền khi ngồi gốc cây trong lễ hạ điền của cha:

    Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ".

    5. Ngài hoàn tất các thiền Hữu Sắc (nhị thiền đến tứ thiền hữu sắc):

    Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

    Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

    Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

    Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

    6. Ngài xả thiền Hữu sắc (xuất thiền Định) đi vào thiền Tuệ chứng Tam Minh:

    Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.

    Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

    Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là sự Diệt khổ", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát." Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

    Dưới đây là sơ đồ mô tả 6 giai đoạn hành trình trong 3 thiền (vô sắc, hữu sắc, tuệ quán) của Đức Phật đã đi qua.

    Last edited by delightdhamma; 28-03-2012 at 06:54 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  3. #23

    Mặc định

    Chân thành cảm ơn Huynh delightdhamma.
    Trân trọng.

  4. #24

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi quangcom Xem Bài Gởi
    Vậy thì trạng thái sơ thiền thuở còn nhỏ và sơ thiền trong 8 bậc thiền định với 4 thiền hữu sắc và 4 thiền vô sắc có khác gì nhau không ?
    Trả lời: Sơ thiền hồi bé của Đức Phật cũng chính là sơ thiền hữu sắc Đức Phật đã nhớ lại và đi qua.

    Tiện đây, tôi xin tóm tắt lại để các bạn ko bị nhầm lẫn:

    1. Thiền định là gì ? Sự định tâm trên đối tượng gọi là Thiền Định.

    2. Thiền hữu sắc: Sự định tâm trên đối tượng Hữu Sắc (có hình thể, màu sắc hoặc xúc chạm) là thiền Hữu Sắc. Thiền hơi thở là định tâm trên điểm xúc chạm của hơi thở với thân thể (dưới mũi). Tóm lại là sự định Tâm trên đối tượng Hữu Sắc gọi là thiền Hữu Sắc. Với thiền Hữu Sắc có 5 chi thiền ở sơ thiền, 3 chi thiền ở Nhị thiền (hỷ, lạc, nhất tâm), 2 chi thiền ở Tam thiền (lạc, nhất tâm) và 1 chi thiền (nhất tâm) ở Tứ thiền.

    3. Thiền vô sắc: Sự định tâm trên đối tượng Vô Sắc gọi là thiền Vô Sắc. Với thiền Vô Sắc chỉ có 1 chi thiền duy nhất và cũng là đối tượng thiền cho từng bậc thiền. Sơ thiền Vô sắc (không vô biên). Nhị thiền Vô sắc (thức vô biên), Tam thiền Vô sắc (vô sở hữu), Tứ thiền Vô sắc (phi tưởng phi phi tưởng xứ).

    4. Thiền Tuệ là gì ? Là sự định tâm trên đối tượng để thấy rõ thực tánh pháp (sinh diệt, bất toại nguyện, vô chủ). Đối tượng của thiền tuệ là (thân, thọ, tâm, pháp). Vì thế tâm thiền sắc giới hay vô sắc giới cũng trở thành đối tượng của thiền tuệ. Đây là điểm đặc biệt của thiền Tuệ do Đức Phật khám phá ra con đường cổ xưa, con đường mà chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai cũng sẽ đi qua.

    5. Thiền tông kiến tánh: Nhận ra thực tánh pháp (pháp chân đế) khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần nhờ không bám víu vào tâm sở (thọ, tưởng, hành, thức), lúc đó hành giả thấy được Tâm vương còn gọi là chủ nhân ông, chân tâm, phật tánh...Đến đây hành giả mới là giải ngộ, hành giả phải tiến hành Bảo Nhậm tức là ẩn cư hay độc cư thiền định bằng sự Thấy và Biết của tâm vương (pháp chân đế) để không bị các tâm sở (tham, sân, si) che khuất tâm vương.

    Có lẽ vì ở Tứ thiền Sắc giới có 1 chi thiền duy nhất là Nhất Tâm giống như các bậc thiền ở Vô Sắc nên gây hiểu lầm là thiền phải đi từ Hữu Sắc đến Vô Sắc. Từ nhiều chi thiền đến một chi thiền, từ thô (hữu sắc) đến vi tế (vô sắc).

    Trong các kinh Nguyên Thủy, Đức Phật thường khuyến tấn các đệ tử làm chủ thiền định bao gồm cả thiền sắc giới và vô sắc giới nên ngài thường trình bảy một mạch từ thiền hữu sắc đế vô sắc rồi đến diệt thọ tưởng định. Điều này gây hiểu lầm cho nhiều ngừoi là phi tưởng xứ là cao nhất hay thiền diệt thọ tưởng định là cao nhất. Mỗi loại thiền đều có đặc điểm riêng và tĩnh hữu dụng riêng. Một số vị còn nhầm lẫn đến tứ thiền rồi vào diệt thọ tưởng định được. Nếu để ý, các bạn sẽ thấy khi thuyết pháp, ngồi trước Đức Phật có đủ các tỳ kheo: chưa chứng thiền định, đã chứng thiền định sắc giới, vô sắc giới, chưa chứng đạo quả, đã chứng đạo quả,....Vì thế ngài nói rộng ra để ai chưa đạt được thiền nào thì thực hiện tiếp trong sự tu tập của đời phạm hạnh.
    Last edited by delightdhamma; 28-03-2012 at 07:27 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  5. #25

    Mặc định

    Cám ơn huynh Delightdhamma đã có những diễn giải rất khúc triết. Như vậy theo đồ hình huynh post thì đức Phật đi từ tứ thiền hữu sắc đến thiền tuệ và chứng tam minh không đi qua 4 thiền vô sắc. Như vậy con đường của 4 thiền vô sắc là không cần thiết trong việc giải thoát và nó có thể nói là thiền ngoại đạo mặc dù nó được nói đến trong một vài kinh.
    Còn một điểm nữa là khi hành thiền Vipasana thì đề mục chú tâm là hơi thở hoặc sự phồng xẹp của bụng. Theo huynh thì đó thuộc về thiền định hay thiền tuệ.
    Một điểm nữa là trong kinh tứ niệm xứ hay đại niệm xứ đức Phật có nói về quán thân, quán thọ, quán tâm và quán pháp trong đó đề mục về quán thân có nói về quán hơi thở và quán sự chết (quán tử thi) nhưng không hề nói tiến trình của các phương pháp thực hành này liên quan đến tiến trình của các bậc thiền đạt được từ nhất thiền đến tứ thiền và đến giải thoát. Vậy nhưng đức Phật có nói việc thực hành pháp này từ 7 ngày đến 7 năm thì đạt được chánh trí, giải thoát. Ở đây tôi cảm thấy như một lỗ hổng trong việc thực hành vì tiến trình thân, tâm không liên kết với pháp hành. Huynh có thể chỉ giáo thêm về việc này không ?

  6. #26

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi quangcom Xem Bài Gởi
    Cám ơn huynh Delightdhamma đã có những diễn giải rất khúc triết. Như vậy theo đồ hình huynh post thì đức Phật đi từ tứ thiền hữu sắc đến thiền tuệ và chứng tam minh không đi qua 4 thiền vô sắc. Như vậy con đường của 4 thiền vô sắc là không cần thiết trong việc giải thoát và nó có thể nói là thiền ngoại đạo mặc dù nó được nói đến trong một vài kinh.
    Còn một điểm nữa là khi hành thiền Vipasana thì đề mục chú tâm là hơi thở hoặc sự phồng xẹp của bụng. Theo huynh thì đó thuộc về thiền định hay thiền tuệ.
    Một điểm nữa là trong kinh tứ niệm xứ hay đại niệm xứ đức Phật có nói về quán thân, quán thọ, quán tâm và quán pháp trong đó đề mục về quán thân có nói về quán hơi thở và quán sự chết (quán tử thi) nhưng không hề nói tiến trình của các phương pháp thực hành này liên quan đến tiến trình của các bậc thiền đạt được từ nhất thiền đến tứ thiền và đến giải thoát. Vậy nhưng đức Phật có nói việc thực hành pháp này từ 7 ngày đến 7 năm thì đạt được chánh trí, giải thoát. Ở đây tôi cảm thấy như một lỗ hổng trong việc thực hành vì tiến trình thân, tâm không liên kết với pháp hành. Huynh có thể chỉ giáo thêm về việc này không ?
    Tôi muốn góp ý với bạn Quang Com về cách đặt vấn đề hay câu hỏi. Nếu bạn thấy có lỗ hổng trong giáo pháp của Đức Phật hay trong kinh Tứ Niệm Xứ của Đức Phật tức là bạn giỏi hơn Phật, ai dám trả lời hay chỉ giáo cho người phát hiện ra lỗ hổng trong lời dạy của Đức Phật nữa. Bạn chỉ nên nói là tôi không rõ hay không biết, chứ đừng nên kết luận nó là lỗ hổng. Bạn lại còn nói tiến trình thân, tâm không liên quan đến pháp hành. Qua đây tôi biết bạn có hành đâu mà kết luận về pháp hành. Câu hỏi ở mục trước trên tôi nói bạn tạo ra công đức, câu hỏi mục dưới này bạn lại phá tiêu công đức rồi. Cách đặt câu hỏi và cách trả lời cũng thể hiện tiến trình thân và tâm đó bạn, cũng là đang hành thiền Tuệ đó. Tôi vẫn trao đổi khúc mắc của bạn nhưng không phải bịt lỗ hổng trong giáo pháp của Đức Phật như bạn nói mà để chỉ ra lỗ hổng trong cái chưa biết của bạn thôi. Thân mến.
    Last edited by delightdhamma; 29-03-2012 at 08:44 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  7. #27

    Mặc định

    tự tâm các bậc trụ , trụ ấy vững chắc kiên cố thì pháp hành vô hành

  8. #28

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi mysterious Xem Bài Gởi
    tự tâm các bậc trụ , trụ ấy vững chắc kiên cố thì pháp hành vô hành
    Trụ vào cái gì cho kiên cố ,điểm tựa nào cũng là điểm không vững thì sao?
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  9. #29

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi delightdhamma Xem Bài Gởi
    Trả lời:

    Trong các kinh Nguyên Thủy, Đức Phật thường khuyến tấn các đệ tử làm chủ thiền định bao gồm cả thiền sắc giới và vô sắc giới nên ngài thường trình bảy một mạch từ thiền hữu sắc đế vô sắc rồi đến diệt thọ tưởng định. Điều này gây hiểu lầm cho nhiều ngừoi là phi tưởng xứ là cao nhất hay thiền diệt thọ tưởng định là cao nhất. Mỗi loại thiền đều có đặc điểm riêng và tĩnh hữu dụng riêng. Một số vị còn nhầm lẫn đến tứ thiền rồi vào diệt thọ tưởng định được. Nếu để ý, các bạn sẽ thấy khi thuyết pháp, ngồi trước Đức Phật có đủ các tỳ kheo: chưa chứng thiền định, đã chứng thiền định sắc giới, vô sắc giới, chưa chứng đạo quả, đã chứng đạo quả,....Vì thế ngài nói rộng ra để ai chưa đạt được thiền nào thì thực hiện tiếp trong sự tu tập của đời phạm hạnh.
    Cô là chuyên về thiền định ,khi còn nhỏ cô lấy mây ,lấy hư không làm đối tượng thiền ,và chỉ niệm QUÁN THẾ ÂM ,đây là pháp thiền theo năng khiếu của bản thân không qua giáo trình nào ,của ai dạy cả .
    Nhưng theo thứ tự hữu sắc = có ấn tướng rồi qua vô sắc = không còn ấn tướng ,rồi diệt ,thọ tưởng định ,đây là một quá trình diễn biến của TÂM .
    Khi diễn giải lịch trình tiến tu thì quá ư phức tạp ,nghe như tràng giang đại hải ,rất sâu xa ,nhưng cô đã từng vào thiền nó diễn rất nhanh trong một sát na TÂM .
    Có lẽ cô nói diễn lại quý hữu đọc và giảng giải theo cách quý hữu từng trãi trên học thuyết .
    MINH ĐÀI cô chỉ bám một chuyên đề hư không ,khi nhìn mây phủ ngủ sắc,lúc đầu nhìn là còn biết đó là mây ,khi vừa niệm PHẬT vừa nhìn mây từ từ hết biết đó là mây là là mọi hình ảnh của PHẬT thánh tiên ,và bắt đầu mây diễn hoạt hiện biến ,Cô lại tầm hình khác của mây ,cuối cùng cô và mây chỉ là một ,mà lúc này đây cô không còn biết mình đang ngồi ở đây .Không còn cảm nhận mọi thứ cho là hữu sắc hay vô sắc ,mà chìm luôn trong diễn biến đó không có mình nữa .Trong giai đoạn không còn thấy mình trong sắc là thuộc vô sở hữu sắc ,không còn cảm nhận nó .
    Hiện tượng sau cùng gọi là nhập định ,trên mỗi bực thiền theo cô thấy diệt thọ tưởng định đều có ,nhưng tùy theo mỗi người trong ở giai đoạn thiền nào .Cuối cùng Định cũng xã .
    Tâm xã không phải tác ý diệt thọ tưởng định của mình ,mà TÂM xã tự nhiên diễn biến của nó ,trong các bài thiền cô đọc chưa có một bài nào nói chính sát TÂM trong quá trình diễn biến .
    Nhập ĐỊNH =là trong trạng thái thọ tưởng hay định ,không còn biết cái cảm nhận này ,nó là tự nhiên ,định còn biết mình định thì định chỉ là tưởng định .
    Xã còn biết xã chỉ là tưởng không còn là cái thực của TÂM tự nhiên nữa
    Thọ tưởng định ,là có ,nhưng không còn cảm nhận thọ tưởng ,định .nên gọi là XÃ định
    Last edited by minh đài; 30-03-2012 at 08:26 AM.
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  10. #30

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minh đài Xem Bài Gởi
    Hiện tượng sau cùng gọi là nhập định ,trên mỗi bực thiền theo cô thấy diệt thọ tưởng định đều có ,nhưng tùy theo mỗi người trong ở giai đoạn thiền nào .Cuối cùng Định cũng xã .
    Tâm xã không phải tác ý diệt thọ tưởng định của mình ,mà TÂM xã tự nhiên diễn biến của nó ,trong các bài thiền cô đọc chưa có một bài nào nói chính sát TÂM trong quá trình diễn biến .
    Nhập ĐỊNH =là trong trạng thái thọ tưởng hay định ,không còn biết cái cảm nhận này ,nó là tự nhiên ,định còn biết mình định thì định chỉ là tưởng định .
    Xã còn biết xã chỉ là tưởng không còn là cái thực của TÂM tự nhiên nữa
    Thọ tưởng định ,là có ,nhưng không còn cảm nhận thọ tưởng ,định .nên gọi là XÃ định
    Thiền theo cô là thiền theo ngoại đạo rồi, Phật không dạy như vậy, Thiền sinh tu theo Phật Thích Ca là lúc nào cũng giữ chánh niệm và tỉnh giác , thế thôi!, theo dõi bốn cái xứ khởi lên và ghi nhận , thế thôi! Ngoài những cái điều này thì là ngoài kinh điển Phật đã truyền hết thảy, và thường gọi là ngoại đạo.Huynh Delight đang nói về thiền tứ niệm xứ và đạo lộ mà Đức Phật đã tìm ra.
    Last edited by Tâm_định; 30-03-2012 at 10:57 AM.
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  11. #31

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Tâm_định Xem Bài Gởi
    khởi lên và ghi nhận ,
    Thiền định = không có cái gì là khởi cả ,Định =là định tướng sắc tướng ,hoặc xã tướng ,Tâm đâu có gì khởi ,mà cho là ngoại đạo.
    Chỉ là định tướng thôi,thiền tuệ có=hỷ lạc tịnh định xã ,còn thiền định đều không có các hỷ lạc ,mà chỉ tịnh, định
    Last edited by minh đài; 30-03-2012 at 11:10 AM.
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  12. #32

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minh đài Xem Bài Gởi
    Thiền định = không có cái gì là khởi cả ,Định =là định tướng sắc tướng ,hoặc xã tướng ,Tâm đâu có gì khởi ,mà cho là ma đạo
    Xin bà bà nhìn lại xem đang ở đề mục nào?Đây là mục Thiền nguyên thuỷ người ta dùng bốn cái xứ để tu dưỡng thân và tâm, bà đi lộn chổ, nói tầm bậy tầm bạ không hà.
    Xin MOD chuyển bà bà nầy sang mục thiền dùm để chúng tôi còn học hỏi Thầy Delightdhamma.Thầy đang nói về thiền quán sát mà Phật gọi là thiền tứ niệm xứ, Đại HT Thích Minh Châu gọi là Như Lai Thiền, đây là pháp thiền quán không phải thiền định như bà bà nghĩ. Người ta đang giảng về cái này , bà nhảy vào bảo cái kia, thiệt là chẳng biết phải nói soa cho phải....
    Kính xin Thầy Delightdhamma tiếp tục, T Đ thấy bài nầy rất hay và có giá trị cao nhất từ trước tới nay đấy.
    Last edited by Tâm_định; 30-03-2012 at 11:16 AM.
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  13. #33

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi delightdhamma Xem Bài Gởi
    Tôi muốn góp ý với bạn Quang Com về cách đặt vấn đề hay câu hỏi. Nếu bạn thấy có lỗ hổng trong giáo pháp của Đức Phật hay trong kinh Tứ Niệm Xứ của Đức Phật tức là bạn giỏi hơn Phật, ai dám trả lời hay chỉ giáo cho người phát hiện ra lỗ hổng trong lời dạy của Đức Phật nữa. Bạn chỉ nên nói là tôi không rõ hay không biết, chứ đừng nên kết luận nó là lỗ hổng. Bạn lại còn nói tiến trình thân, tâm không liên quan đến pháp hành. Qua đây tôi biết bạn có hành đâu mà kết luận về pháp hành. Câu hỏi ở mục trước trên tôi nói bạn tạo ra công đức, câu hỏi mục dưới này bạn lại phá tiêu công đức rồi. Cách đặt câu hỏi và cách trả lời cũng thể hiện tiến trình thân và tâm đó bạn, cũng là đang hành thiền Tuệ đó. Tôi vẫn trao đổi khúc mắc của bạn nhưng không phải bịt lỗ hổng trong giáo pháp của Đức Phật như bạn nói mà để chỉ ra lỗ hổng trong cái chưa biết của bạn thôi. Thân mến.
    Xin được huynh và mọi người thứ lỗi khi câu hỏi của tôi chưa được mạch lạc khiến cho ý nghĩa của nó lại thành chê bai giáo pháp đức Phật. Thực sự tôi chỉ muốn bổ sung cái lỗ hổng của chính tôi do chưa có điểu kiện hiểu hết được những lời dạy của đức Phật mà thôi. Ở đây tôi muốn được tham khảo để hiểu rõ thêm mấy vấn đề:
    - Pháp hành về theo dõi hơi thở thuộc về thiền định hay thiền tuệ ? Bản thân tôi nghĩ nó là cả hai vì khi theo dõi điểm hơi thở thì nó tạo định nhưng bản thân hơi thở thì nó lại là một dòng luôn biến đổi phụ thuộc vào tâm nên khi quán ta cũng có đối tượng tuệ ở đó. Cách hiểu của tôi đúng hay sai ?
    - Khi thực hành tứ niệm xứ với quán thân quán thọ quán tâm quán pháp thì tiến trình quán đó liên quan thế nào với các bậc thiền từ sơ thiền đến tứ thiền. Cần phải quán tất cả mới đạt được tứ thiền hay chỉ cần một pháp quán phù hợp là có thể đạt được cả tứ thiền ? Có lẽ do chưa có khả năng đọc hết nên thắc mắc của tôi chỉ có vậy, mong huynh có một bài nào đó mang tính chất tổng hợp được để giải thích cho những thắc mắc nông cạn của tôi thì tốt quá.
    Xin cám ơn và xin được thứ lỗi.

  14. #34

    Mặc định

    Theo gatê, thiền định mới có bậc thiền , thiền quán lệ thuộc vào bậc thiền của thiền định.

  15. #35

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi quangcom Xem Bài Gởi
    Xin được huynh và mọi người thứ lỗi khi câu hỏi của tôi chưa được mạch lạc khiến cho ý nghĩa của nó lại thành chê bai giáo pháp đức Phật. Thực sự tôi chỉ muốn bổ sung cái lỗ hổng của chính tôi do chưa có điểu kiện hiểu hết được những lời dạy của đức Phật mà thôi. Ở đây tôi muốn được tham khảo để hiểu rõ thêm mấy vấn đề:
    - Pháp hành về theo dõi hơi thở thuộc về thiền định hay thiền tuệ ? Bản thân tôi nghĩ nó là cả hai vì khi theo dõi điểm hơi thở thì nó tạo định nhưng bản thân hơi thở thì nó lại là một dòng luôn biến đổi phụ thuộc vào tâm nên khi quán ta cũng có đối tượng tuệ ở đó. Cách hiểu của tôi đúng hay sai ?
    - Khi thực hành tứ niệm xứ với quán thân quán thọ quán tâm quán pháp thì tiến trình quán đó liên quan thế nào với các bậc thiền từ sơ thiền đến tứ thiền. Cần phải quán tất cả mới đạt được tứ thiền hay chỉ cần một pháp quán phù hợp là có thể đạt được cả tứ thiền ? Có lẽ do chưa có khả năng đọc hết nên thắc mắc của tôi chỉ có vậy, mong huynh có một bài nào đó mang tính chất tổng hợp được để giải thích cho những thắc mắc nông cạn của tôi thì tốt quá.
    Xin cám ơn và xin được thứ lỗi.
    Ví như ta mài hai thanh củi để ra lửa:

    Giới luật giống như các điều kiện che chắn để hai thanh củi không bị ướt khi có mưa gió.

    Thiền Định giống như làm khô hai thanh củi đó.

    Thiền Tuệ giống như mài hai thanh củi vào nhau để ra lửa.


    Thiền Định là chế định pháp (pháp tục đế), có khái niệm, quy ước cho các trạng thái hay cảm giác trải qua.

    Thiền Tuệ là thực tánh pháp (pháp chân đế) không qua khái niệm, quy ước cho các trạng thái trải qua.

    Vi dụ bắt đầu bằng hơi thở trong Kinh Tứ Niệm Xứ:

    Quy trình sấy khô củi (thiền định):

    1.Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra.
    2. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô dài";
    3. Thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra dài";
    4. Thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"
    5. Thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn".
    6. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập;
    7. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập;
    8. "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập;
    9. "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập


    Từ 1. đến 5 chính là Tầm và Tứ. Từ 6 đến 7 chính là Hỷ và Từ 8,9 chính là Lạc. Đây chính là diễn tiến TỰ NHIÊN của Tâm đi từ Tâm Dục Giới vào Tâm Sắc Giới (thiền định). Lúc này tâm trở nên lắng dịu và nhu nhuyễn một cách tự nhiên.

    Quy trình chà sát hai thanh củi vào nhau (thiền tuệ):

    Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: "Tôi quay dài" hay khi quay ngắn, tuệ tri: "Tôi quay ngắn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

    Trong khi hành thiền, hành giả không được nhớ hay tưởng tượng trong đầu theo kiểu thuộc bài đây là trạng thái cận sơ thiền hay sơ thiên, nhị thiền...hay là đây là thiền tuệ vì sẽ lại rơi vào quy ước, khái niệm lần nữa. Ca ngợi sự vĩ đại của Đức Phật là thừa. Nhưng tôi cũng hết sức khâm phục vô cùng khi ngài dạy thiền Tứ Niệm Xứ mà ngài không gọi nó là thiền định hay thiền tuệ. Ngài cũng không nói phần này là phần Định hay phần này là phần Tuệ. Vì chỉ cần chỉ ra như thế thí nó cũng rơi vào công thức và quy ước rồi, rơi vào pháp Tục đế rồi, mà rơi vào đó là vào luân hồi.

    Ngày nay mọi người tư duy quá nhiều, suy luận quá nhiều, tìm kiếm quá nhiều nên mang gánh nặng của tư duy của công thức. Khi các thiền sinh trong trường thiền gặp nhau hay hỏi là bạn đến tuệ thứ bao nhiêu rồi. Rồi khi hành thiền ai cũng ảo tưởng, ước mơ hành đến tuệ Chuyển Tộc tức là chuyển từ phàm sang Thánh. Ôi thôi ! Lại là Thánh của công thức, của quy ước, của luân hồi. Khi bạn hành thiền Định hay thiền Tuệ, bạn phải quên hết cái mớ lý thuyết bạn có được. Đó là chướng ngại. Đó là ngón tay che mặt trăng. Chỉ khi nào bạn xuất thiền, bạn quán xét lại thân và tâm. Bạn đối chiếu lại với lời kinh sách, với lời thầy dạy thì lúc đó ngón tay mới có thể chỉ mặt trăng cho bạn. Để hiểu được Biết và Thấy trên thân và tâm không qua khái niệm, quy ước, bạn nên đọc bài Kiến Tánh trong Thiền Tông mà tôi đã trao đổi ở nơi đây, hy vọng nó giúp ích cho bạn rất nhiều trong việc hành thiền Tuệ.http://www.thegioivohinh.com/diendan...d.php?t=123265

    Ngày nay rất nhiều ''A La Hán Online'' hay ''Thánh Online'' do nắm bắt được một chút ít lý thuyết và ảo tưởng về bản thân. Đây là tính hai mặt của cùng một vấn đề. Diễn đàn hay thế giới Net giúp cho bạn tìm kiếm kiến thức để HOÀN THIỆN nhưng vô tình cũng làm bạn thành cái kho để CHẤT CHỨA kiến thức của người khác chứ không phải của bạn.Chỉ khi nào trải qua THỰC HÀNH thì nó mơi là của bạn.

    Đức Phật đã dạy cứ hành thiền trên thân, trên thọ, trên tâm, trên pháp từ 7 ngày đến 7 năm. Việc này giống như chà xát hai thanh củi vào nhau để ra lửa. Bây giờ chúng ta không mài củi ra lửa mà luôn hỏi : Làm sao để mài nhanh hay chậm ? Làm sao để mài đúng hay sai ? Khi nào ra lửa ? Ra lửa để làm gì ? Khi hết củi thì lửa đi về đâu ? . Hỏi ? và hỏi ? và hỏi ? Trả lời , trả lời và trả lời thì vĩnh viễn KHÔNG BAO GIỜ có được lửa. Chúc các quý vị và các bạn thành công trong thực hành. Khi thực hành, chính pháp xuất phát nơi thân và tâm sẽ trở thành ngón tay chỉ trăng cho bạn sau khi bạn thực hành. Ngoài thực hành là Vọng Tưởng.
    Last edited by delightdhamma; 30-03-2012 at 08:33 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  16. #36

    Mặc định

    Có bao giờ thiền quán rồi vô thiền định được ko?
    OM MA NI PAD ME HUM
    ----------------------------
    BẠCH LIÊN BẤT NHIỄM

  17. #37

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi honghainhi Xem Bài Gởi
    Có bao giờ thiền quán rồi vô thiền định được ko?
    Thực tế để thành công trong thiền quán là đã đi qua thiền định rồi, như phần làm khô củi nói ở trên là phải đi trước trước khi chà xát củi có lửa cháy.

    Một người thực hành thiền quán thành công nghĩa là cũng đã có định rồi. Các thiền sư tôi biết họ đã đồng ý với quan điểm 1 người ko biết thiền định nhưng hành thành công thiền quán tương đương với quả Thánh Dự lưu thì cũng đồng thời có định ở mức Sơ thiền.

    Nói thiền quán đi vào thiền định là nói lộn. Thực chất hành giả thực hành thiền (phần làm khô củi) không đi vào thiền quán nữa (tức là ko quan tâm đến thực tánh pháp) mà tập trung chú tâm trên đối tượng để đạt các mức độ trong thiền định và đi sâu vào các tầng thiền định thay vì quan sát đặt tính biến đổi của đối tượng (thực tánh pháp).

    Một hành giả hành thiền quán thành công là hành giả đã đi qua thiền định (phần khô củi) nhưng không biết hay không được biết đó là trạng thái thiền định. Sau này khi giảng giảng thực hành thiền quán không qua thiền định các vị thầy cho ra khái niệm sat-na định. Đây là khái niệm bị bế tắc nhằm phục vụ cho các hành giả bỏ thiền định để đi qua thiền tuệ. Nếu điều này đúng thì Phật đạo không còn là Giới-Đinh-Tuệ mà chỉ còn Giới-Tuệ. Điều này thể hiện thời hiện đại (mạt pháp), các đệ tử đã ''giỏi'' hơn Đức Phật, Tam Vô Lậu Học (Giới-Định-Tuệ) được trở thành Nhị Vô Lậu Học (Giới-Tuệ).
    Last edited by delightdhamma; 30-03-2012 at 08:38 PM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

  18. #38

    Mặc định

    thuyết tự ư ngã
    tự nhi định dã
    định tuệ dĩ hành
    nội nhân ngoại sở
    kiên cố bất động
    biện âm định dã
    Vô ngại hành sự
    ư Cảnh bất biến
    tức an Định sâu
    Tánh viên hẳng hữu
    đâu đâu chẳng là
    .....
    Svaha

  19. #39

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi delightdhamma Xem Bài Gởi
    Thực tế để thành công trong thiền quán là đã đi qua thiền định rồi, như phần làm khô củi nói ở trên là phải đi trước trước khi chà xát củi có lửa cháy.

    Một người thực hành thiền quán thành công nghĩa là cũng đã có định rồi. Các thiền sư tôi biết họ đã đồng ý với quan điểm 1 người ko biết thiền định nhưng hành thành công thiền quán tương đương với quả Thánh Dự lưu thì cũng đồng thời có định ở mức Sơ thiền.
    Minh đài xin được mạn phép trao đổi với người như sau;đều người nói :một người thiền quán thành công ,đã có qua thiền định tức là có đối tượng thiền ,nhưng theo M Đ thấy thiền quán là một phương pháp luôn xoay vòng ,như bánh xe chuyển động không dừng ,nhờ sự quán đó là sanh tuệ ,nhưng nhược điểm của thiền quán là TÂM không ngừng chuyển .Đôi khi cách chuyển này thành thói quen ,vừa chạm cảnh là thiền ,Tâm không dừng khởi sanh diệt .
    Người có TÂM sân ,thì sân cũng hay bộc phát không ngừng ,người có TÂM vọng thì vọng không ngừng ,nghĩa là TÂM con người cũng hay chuyển theo TÂM quán mà sanh khởi .
    Đa số người thiền quán dựa trên các pháp mà an trú tâm thiền ,các pháp quán đó không có gì là bền chắc ,ví dụ: quán khổ ,quán thân ,quán pháp .
    Khổ có phải là nguyên nhân tu không?MINH ĐÀI đặt câu hỏi tu là hết sao?Tâm năng sở của con người là=tham,sân ,si ,nhưng khi thiền quán ,cách nhìn như thị của bậc sơ thiền là nông cạn không thấu đáo .
    Hay quán thân là vô thường ,vậy tu là không còn vô thường sao ?pháp quán là nhìn sự vật cho rõ ràng hơn ,nhưng nhiều người lại ỷ vào cho rằng TUỆ quán là có những quả vị ,là hơn hết ,cao hơn nhiều người ,nên nhiều người sanh ngã mạn .
    MINH ĐÀI là người giao tiếp với nhiều người thiền quán ,người thiền quán có chút thành tựu là nhìn TÂM cũng khá ,nhưng họ rất tự cao ,trong suy nghỉ không ngừng ,vì tất cả đều là đối tượng quán ,MINH ĐÀI hỏi:có bao giờ người ngừng sự chuyển TÂM quán ko ? người nói : đôi khi mệt mỏi nhưng không biết cách nào ngừng ,
    Vì sao?là vì mỗi cảnh đều là thiền TÂM không ngừng nghỉ sanh diệt ,nhưng không ai thấy đây là nhược điểm ,ngược lại tự hào mình đắc pháp .nói chung mỗi pháp thiền đều có ưu điểm mà cũng có khuyết điểm nhưng người tu thiền lại không thấy nHược điểm của thiền nên không tiến lên một con đường cao hơn nữa .
    Nhiều người dùng pháp quán nhìn thấu mọi thứ lại đứng luôn không biết hóa giải ,như tốc độ xe chạy lại không biết thắng bằng cách nào .
    Người tu thiền khi đạt chỉ ở một góc độ thì cho đây là ưu điểm là tiến bộ ,lập tức đứng lại ngắm nhìn thành tựu của mình ,không hề thấy nhược điểm ,mức nguy hiểm nơi mình đứng nên không thấy con đường nào lớn hơn rộng hơn nơi mình đứng ,nên không tiến bậc nổi
    Chỉ có đôi đều trao đổi mong người miển thứ .NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    Last edited by minh đài; 31-03-2012 at 10:52 AM.
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  20. #40

    Mặc định

    Minh Đài hiểu lầm chăng Thiền Quán là tâm không ngừng chuyển . Ý ở đây phải chăng tâm không nhừng sinh diệt .
    Xin hỏi lại rằng có bao giờ Tâm không ngừng chuyển không ?

    Một vị tướng tài xông pha trận mạt . Gặp kẻ thù lòng không hoảng sợ , lòng không hoảng sợ nhìn vào kẻ thù , nhận ra điểm cương , yếu của ta và địch . Tự đó mà thắng trận .
    Vậy có phải rằng vị tướng này bị kẻ địch lôi đi hay không ? Hay rằng kẻ địch chuyển thì vốn chuyển , vị tướng thấy rõ sự chuyển ấy , tìm ra cương yếu mà thắng trận .

    Tâm an tịnh là nhờ giới . Tâm tịnh rồi , thì quan sát " thân , thọ , tâm , pháp " .
    Như người mắt sáng , thấy rõ đường đi . Cũng như thấy đây là sinh diệt , thấy vô thường , vô ngã .

    Nếu nói thiền quán có chút thành tựu . Nhưng lại ngã mạn là mâu thuẫn , người có thành tựu trong thiền đã là " ly dục , ly bất thiện " thì lấy nào đâu ra gọi là ngã mạn đây ? Nếu nói Sơ Thiền ly dục , ly bất thiện pháp lại là nông cạn , không thấu đáo . Vậy thì thế nào mới gọi là thấu đáo ?

    Người an trú trong Giới tức , thân , khẩu , ý xa lìa ham muốn và ác pháp . Chỉ duy nhất cách này đưa đến Sơ Thiền . Từ sơ thiền dụng tâm quan sát truy sát mọi hoài nghi .
    Sắc đây là thường hay vô thường ?
    Thọ đây là thường hay vô thường ?
    .........
    Thức đây là thường hay vô thường ?

    Hoài nghi cái nào thường thì dụng tâm quan sát cái đó . Đến khi nào hết cả thân này chẳng tìm đâu ra cái nào là thường thì giác ngộ . Bậc hạ căn lắm thì làm như vậy . Nếu bậc thượng căn chỉ cần quán rõ một sự vật , sự việc hoặc uẩn nào là vô thường đủ để suy xét tất cả là vô thường rồi .

    Minh Đài nên dụng công phu tu tập rồi hẳng góp ý .
    Thân !
    Không biết rõ ( sắc,sắc tập khởi, sắc đoạn diệt, con đường đưa đến sắc đoạn diệt, thọ... tưởng... các hành...con đường đưa đến thức đoạn diệt). Đây gọi là vô minh .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Xin được chia sẻ và học hỏi về Đạo và Đời - II
    By Richardhieu05 in forum Đạo Học - Học Đạo
    Trả lời: 1724
    Bài mới gởi: 21-04-2016, 09:53 AM
  2. Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 11-11-2012, 11:52 PM
  3. KIẾN TÁNH (yếu chỉ thiền tông)
    By minh đài in forum Thiền Tông
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 13-03-2012, 01:20 PM
  4. THIỀN MÔN KHẨU QUYẾT.
    By thanhmai08 in forum Thiền Tông
    Trả lời: 11
    Bài mới gởi: 05-03-2012, 09:13 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •