Sự nhầm lẫn tai hại: Nimita thành đề mục thiền.
Sắc (rupa) mà chúng ta đang thấy được quan sát bằng Danh (nama) hay còn gọi là Tâm. Khi Sắc được quan sát bởi Tâm Dục Giới (chi phối bởi 5 triền cái: tham, sân, hôn trầm-thụy miên, trạo cử-hối quá, nghi ngờ) thì Sắc được thấy dưới dạng Thô tướng, tức là nhìn bằng con mắt thông thường chúng ta đang thấy.
Khi Sắc được quan sát bởi Tâm Sắc Giới (chi phối bởi năm chi thiền sắc giới: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm) thì Sắc được thấy dưới dạng Tợ tướng (ở cận định) và Quang tướng(ở an chỉ định), lúc này cái nhìn không ở mắt chúng ta nữa mà cái nhìn bằng tâm thiền (khi 5 thiền chi có mặt). Tợ tướng và Quang tướng được gọi là Nimita, cách gọi khác là ấn chứng của thiền định.
Trong cuốn THE JHANA (Thiền Định) sư Bhikkhu Brahmavamso đã viết: ''Vì thế tôi muốn nói, rằng Nimittas không phải là những đối tượng được nhìn thấy, có nghĩa là chúng không được nhìn thấy bằng thị giác. Ở giai đoạn này của Thiền, thị giác không hoạt động. Các Nimittas đơn thuần chỉ là các đối tượng của tâm trí, được nhận biết bởi tâm trí. Tuy nhiên, chúng thường được nhận thức (perceived) như là những ánh sáng''.
Như vậy việc Nimita xuất hiện ở cận định (tợ tướng) và an chỉ định (quang tướng) là do tâm của hành giả lúc này đang chuyển từ tâm Dục Giới sang tâm Sắc giới và khi hành giả nhập định hoàn toàn vững chắc (an chỉ định) thì hình ảnh của Sắc (rupa) lúc này là quang tướng (tướng có sự phát sáng hay còn gọi là ánh sáng của thiền định). Hành giả duy trì ánh sáng này (nimita an chỉ định -quang tướng) để vượt qua và loại bỏ các chi thiền thô làm tâm dao động như Tầm, Tứ để vào Nhị Thiền. Tiếp theo loại bỏ Hỷ trên thân vào Tam Thiền. Loại bỏ Lạc trên tâm vào Tứ Thiền (xả Lạc trú Nhất Tâm).
Có nhiều cách gọi tên khác nhau và phân loại nimita ra 2, 3 hay 4 loại:
Sơ tướng (parikamma nimitta): khi hơi thở có màu khói xám
Học tướng (uggaha nimitta): sơ tướng trở thành màu trắng như một nhúm bông gòn
Tợ tướng (patibhaga nimitta): chuyển từ màu trắng đục bông gòn sang một màu phát sáng.
Định tướng của hơi thở (anapana nimitta): ánh sáng trắng
Với cách phân ra 4 loại nimita nêu trên thì 3 loại đầu thực chất làm rõ tiến trình cho đến cận định, còn loại cuối là an chỉ định. Theo quan điểm của tôi thì chỉ đưa ra phân loại nimita ra 2 loại là Tợ tướng dành cho cận định và Quang tướng hay Định tướng dành cho an chỉ định.
Như vậy mỗi bậc thiền định sẽ có 2 loại nimita của cận định và an chỉ định. Chỉ riêng nimita cận định (tợ tướng) của Sơ thiền là mờ đục vì còn bị dao động manh bởi hai chi thiền thô Tầm và Tứ (ranh giới giữa tâm Dục giới và tâm Sắc giới). Còn các niminta cận định ở các bậc thiền từ Nhị thiền trở lên đều sáng (phát quang, ko bị mờ đục) vì đều ở trong Tâm Sắc Giới. Có lẽ vì cái nhìn chỉ thuần ánh sáng (quang tướng) của Tâm thiền này nên mới gọi là Tâm Sắc hay Tâm của Sắc Giới. Trong các bài kinh khi nói đến chư Thiên Sắc Giới xuống hỏi đạo với Đức Phật đều ghi là ''vị thiên với ánh sáng rực rỡ đi đến bên Đức Phật....''. Ánh sáng rực rỡ này chỉ có những vị sư tăng đã đắc thiền định mới nhìn thấy.
Khi lướt trên web, tôi thấy có những trang web nổi tiếng về Phật đạo và các tác giả cũng rất nổi tiếng mà có sự nhầm lẫn về NIMITA khi viết hay giảng về thiền định. Việc nhầm lẫn ở chỗ khi cho rằng Nimita là đối tượng của Tầm và Tứ. Tức là Nimita bị nhầm thành đối tượng của Thiền. Tôi gọi đây là sự nhầm lẫn tai hại vì làm cho pháp hành trở nên khó khăn và sai lạc vì đề mục thiền định bị nhầm sang Nimita. Xin trích dẫn:
1) Tầm (vitakka): Sự hướng tâm đến quang tướng khi quang tướng vừa xuất hiện đến.
2) Tứ (vicara): Sự đặt tâm và duy trì được tâm trên đối tượng quang tướng.
3) Hỷ (pīti): Sự thỏa thích khi chú tâm nhìn trên quang tướng.
4) Lạc (sukha): Sự cảm thọ an lạc (sukha), hạnh phúc trong quá trình kinh nghiệm quang tướng.
5) Nhất tâm (ekaggatā): Sự nhất tâm (ekag-gatā) trên quang tướng, tâm an trụ thanh tịnh trên quang tướng.
Trong 5 khái niệm về Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm trích dẫn nêu trên thì đến 4 chi thiền là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc đều lấy tợ tướng hay quang tướng làm đối tượng thiền. Điều này là sự nhầm lẫn tai hại. Tôi cũng đã đi thăm vài trường thiền theo quan điểm tu đắc thiền Định trước rồi mới vào thiền Tuệ (Định trước Tuệ sau). Khi thực hành phương pháp để tìm kiếm Nimita và bám vào Nimita gọi là Tầm và Tứ là không thể. Vì với đề mục hơi thở. Thì tâm phải bám vào hơi thở tức là Tầm và Tứ với hơi thở. Nhớ đó các triền cái bị đè xuống, tâm Dục Giới chuyển thành tâm Sắc giới và Nimita bắt đầu được nhìn thấy. Bắt đầu hành thiền, nếu thiền sinh vừa bám hơi thở, vừa để tâm quan sát xem Nimita có hiện ra không thì đã bị hỏng vì tâm không thể đồng thời quan sát cả 2 đối tượng một lúc. Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở hay Tứ Niệm Xứ, Đức Phật không dạy chú tâm trên Nimita mà chỉ chú tâm trên hơi thở.
Đoạn trích in nghiêng có chữ màu xanh trên đây các bạn có thể dùng Google để search ra các trang web Phật giáo nói về thiền định đều đang hiểu như vậy.
Sự nhầm lẫn ở đây có 2 phần:
1. Nhầm Nimita là đề mục thiền: Có 40 đề mục thiền định thì Nimita không có trong 40 đề mục này. Đề mục chính là đối tượng để chú Tâm lên đề mục(Tầm) và bám sát đề mục (Tứ). Ví dụ như đề mục hơi thở thì Tầm là chú tâm lên hơi thở và Tứ là chà xát và bám vào hơi thở cho đến khi Hỷ (trên thân) và Lạc (trên tâm) xuất hiện kèm theo tợ tướng hay quang tướng là dấu hiệu hành giả đã vào cận định hay an chỉ định của Sơ thiền.
2. Khi vào Nhị Thiền cần phải loại trừ Tầm và Tứ, tức là loại trừ sự bám sát của Tâm và đối tượng hay đề mục. Vậy nếu Nimmita là đề mục thì Nimita sẽ bị loại bỏ khi vào Nhị Thiền. Trong khi Nimita là ấn chứng của thiền định từ Sơ thiền đến Tứ Thiền, tức là không thể loại bỏ được.Đức Phật đã nói để vào được Nhị thiền thì hành giả phải loại trừ hai chi thiền thô là Tầm và Tứ hay làm cho tâm luôn dao động vì phải bám sát vào đề mục thiền (ví dụ đề mục là hơi thở. Trong khi Nimita phải luôn có mặt từ Sơ thiền đến Tứ thiền vì Nimita thực chất chính là ''sắc'' của tâm sắc giới (tâm đã vào từ cận sơ thiền đến tứ thiền).
Trong Trung Bộ Kinh, kinh nghiệm Đức Phật đã nói ần phải loại trừ 2 chi thiền thô ở Sơ thiền là Tầm và Tứ mới vào được Nhị thiền:
''Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. ''
Vào Nhị Thiền, hành giả loại bỏ Tầm, Tứ và vẫn duy trì các chi còn lại là Hỷ, Lạc, Nhất Tâm. Thực chất Nhất Tâm chính là duy trì cái nhìn thấy ''sắc'' Nimita bằng tâm thiền định (tâm sắc giới). Vào Tam Thiền loại bỏ Hỷ, vào Tứ Thiền loại bỏ Lạc và chỉ còn Nhất Tâm. Sự Nhất Tâm lúc này chính là cái nhìn trọn vẹn hoàn toàn chỉ có ''sắc'' Nimita của tâm Sắc giới mà không bị chi phối bởi các tâm cảm thọ thô là Hỷ và Lạc của thân và tâm Dục Giới. Cách giải thích này lô gíc, trọn vẹn từ đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của pháp hành thiền định đi từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Vì đến Tứ Thiền hơi thở của hành giả gần như biến mất (vô cùng vi tế), tức là đề mục không còn vì hơi thở là ''sắc thô'' của Thân Dục Giới lúc này chuyển sang thành sắc ánh sáng nimita dưới cái nhìn của tâm sắc giới. Tâm dục giới nhìn vật (sắc) tương ứng dưới dạng Sắc Dục Giới (sắc thô, hay thô tướng). Tâm sắc giới (tâm thiền định) nhìn vật (sắc) tương ưng dưới dạng Sắc của Sắc Giới là các loại ánh sáng.
Như vậy để chính xác nên đính chính đoạn chữ in xanh lại như sau:
1) Tầm (vitakka): Sự hướng tâm đến đề mục (ví dụ là đề mục là hơi thở).
2) Tứ (vicara): Sự đặt tâm và duy trì được tâm trên đối tượng đề mục.
3) Hỷ (pīti): Sự dễ chịu trên THÂN khi chú tâm trên đề mục.
4) Lạc (sukha): Sự an lạc trên TÂM khi chú tâm trên đề mục.
5) Nhất tâm (ekaggatā): Sự nhất tâm trên tợ tướng hay quang tướng, tâm an trụ không bị dao động trên quang tướng (ấn chứng của nhập định).
Qua việc này, tôi mới nhận thấy việc đi sâu vào thiền định mà không có pháp học đúng và pháp học chỉ hiểu đúng khi người thực hành pháp có trải nghiệm đúng, quay trở ra đánh giá lại phần nào pháp học nói chưa rõ, phần nào người giải thích không có trải nghiệm nhưng biện giải theo sự suy đoán.
Để kết thúc phần này, tôi xin trích lại điều Đức Phật đã nói trong bài kinh tên gọi là: ''Không Thể Nghĩ Được'' (Tăng Chi Bộ IV.77)
-- Có bốn điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỷ-kheo, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. Thế nào là bốn?
1- Phật giới của các đức Phật, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
2- Thiền giới của người khi nhập Thiền, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
3- Quả dị thục của nghiệp, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
4- Tâm tư thế giới, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
Có bốn điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỷ-kheo, nếu nghĩ đến, thời có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
(tiếp theo và hết: 5- Nhất Tâm diệt Nghi Ngờ: Ấn chứng của thiền định)
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks