Bồ đề bổn vô thọ, 菩提本無樹
Minh cảnh diệc phi đài, 明鏡亦非臺
Bổn lai vô nhất vật, 本來無一物
Hà xứ nhạ trần ai? 何處惹塵埃
Qua bốn câu kệ của Huệ Năng, chúng ta nhận thấy Ngài phủi sạch hết những gì của Thần Tú nêu ra.
Thần Tú nói thân là cây bồ đề, là hình thức, thì Huệ Năng nói: Bồ đề không có cây, tức là không có hình thức.
Thần Tú nói tâm là đài gương sáng, cũng là hình thức. Huệ Năng bác bỏ, nói gương sáng không cần đài, vì gương sáng là tự nó sáng chớ đâu phải đặt nó lên đài nó mới sáng.
Huệ Năng không chấp nhận hình thức, Ngài chỉ rõ Bồ đề là tánh giác, tánh giác không có hình thức. Gương sáng là ví với tâm, tâm không cần đài, nó không có hình thức. Thần Tú còn bị mắc kẹt trong hình thức, tức là mắc kẹt trong sắc tướng.
Thần Tú nói: Thời thời cần phất thức, vật sử nhạ trần ai, nghĩa là có hình thể mới cần lau chùi quét dọn, để cho đừng dính bụi dơ, cũng là hình thức. Huệ Năng bác bỏ hình thức ấy, nói: Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai? nghĩa là xưa nay không một vật thì chỗ nào dính bụi dơ? Tâm của mình xưa nay là trống không, không một vật nào trong đó, thì chỗ nào dính bụi bặm được?
Huệ Năng đã biết rõ cái tâm thanh tịnh, không sanh diệt nên nói: Nó không một vật, không dính bụi bặm. Sư Thần Tú còn mắc kẹt trong cái tâm có hình tướng nên bị dính bụi, cần phải lau chùi.
Biên bài kệ của Huệ Năng rồi, cả thảy đồ chúng đều kinh hãi, lấy làm lạ và khen hay. Mỗi người kêu nhau mà nói: Lạ thay! Chẳng đặng xét người bằng diện mạo, bấy lâu chúng ta đã phạm sai lầm khi sai khiến vị Bồ Tát xác phàm nầy.
Ngũ Tổ thấy chúng nhơn kinh hãi và lấy làm lạ , e có kẻ hại Huệ Năng nên Ngũ Tổ lấy giày chà hết bài kệ và nói: "Bài kệ nầy cũng chưa thấy tánh." Đồ chúng đều cho là phải.
Ngày kế, Ngũ Tổ lén đến chỗ phòng giã gạo, thấy Huệ Năng mang đá nơi lưng mà giã gạo (bởi mình gầy ốm nên phải mang đá cho đủ nặng mới đạp nổi cái chày). Ngũ Tổ nói:
- Người cầu Đạo vì pháp quên thân, phải như thế sao?
Rồi Ngũ Tổ hỏi: - Gạo trắng chưa?
Huệ Năng đáp: - Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu sàng. (Ý nói đã thấy tánh, chỉ còn đợi truyền pháp).
Ngũ Tổ lấy cây gậy gõ lên cối 3 tiếng, rồi bỏ đi.
Huệ Năng liền hiểu ý Tổ Sư, đến canh ba vào thất. Ngũ Tổ lấy y pháp đắp cho ta (Huệ Năng), chẳng cho ai thấy, rồi nói Kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (Không nên trụ vào chỗ nào mà sanh ra tâm ấy, để cái tâm trống không, chẳng trụ vào đâu cả).
Huệ Năng nghe nói rồi liền tỏ sáng, biết rằng cả thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình, mới bạch với Tổ Sư rằng:
Nào dè tánh mình vốn tự nhiên trong sạch,
Nào dè tánh mình chứa đầy đủ muôn pháp,
Nào dè tánh mình vốn không lay động,
Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp.
Tổ Sư biết ta đã tỏ sáng bổn tánh, bảo Huệ Năng rằng:
- Nếu chẳng biết bổn tâm thì học pháp vô ích; bằng biết bổn tâm và thấy bổn tánh mình, tức gọi trượng phu, là Phật, Thầy cõi Trời và cõi người vậy.
Đến canh ba, Huệ Năng thọ pháp, chẳng có ai hay.
Tổ Sư truyền phép Đốn giáo và y bát cho ta, dạy rằng:
- Ngươi làm Tổ thứ sáu, hãy gìn giữ và nhớ lấy Đạo tâm của mình (hộ niệm), phải quảng độ chúng hữu tình và lưu truyền cái chánh pháp cho đời sau, đừng để đoạn tuyệt.
Hãy nghe bài kệ của ta đây:
KỆ:
Hữu tình lai hạ chủng, 有情來下種
Nhơn địa quả huờn sanh, 因地果還生
Vô tình ký vô chủng, 無情既無種
Vô tánh diệc vô sanh. 無性亦無生
GIẢI NGHĨA:
Hữu tình đến gieo giống,
Nhờ đất quả lại sanh.
Vô tình đã không giống,
Không tánh cũng không sanh.
LỜI GIẢI:
Đại ý bài kệ nầy, Ngũ Tổ dạy Ngài Huệ Năng về việc truyền pháp.
Hai câu trên bảo: Phàm những người hữu tình, nghĩa là có tánh giác ngộ thì nên truyền Phật pháp cho họ, vì họ có sẵn tánh giác ngộ, nghe pháp rồi ắt đặng chứng quả.
Hai câu dưới lại dặn: Còn những người vô tình, không có giống Phật tánh, tức là chưa phát sanh tánh giác ngộ, thì chẳng nên truyền Phật pháp, vì họ không có tánh giác ngộ ắt không sanh quả Phật được.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Bookmarks