Thảo luận về hệ thống truyền thừa: Thầy Già. (HHTT-TG)

Thời gian qua, Có rất nhiều dòng tư tưởng bình luận, phê phán về pháp môn Thầy già; Đối với các vị còn mê, thì cho đây là chiến tranh Đạo – Pháp thời mạc pháp; Đối với các vị tỉnh giác thì cho đây là không thật, là 1 trong những chuyện thường của vô thường; Riêng bản thân của MaNi thì ko xem Pháp tà hay chánh, ko thiết Đạo chánh hay tà. Pháp - Đạo bổn thể ko có chánh tà. Chân lý đạo vốn bất sinh, bất diệt; chánh hay tà là do tâm mỗi vị tu đạo biến hiện, động niệm, nảy sinh phân biệt mà có.
Có vị vì phiền não, sợ chúng sanh lac bước vào HTTT-TG sẽ sa vào cõi Atu la hay thiên ma gì đó khó có thể ra khỏi (đây cũng là một loại động niệm); nhưng đó cũng do xuất phát từ lòng từ bi mà ra.

Theo MaNi, Pháp môn tu hành trì Ngũ bộ chú không phải là tà đạo; Nhưng do những người trong HTTT-TG tâm họ quy hướng về các vị thần thánh, cầu ấn chứng, cầu các “chư vị” nhập vào mình dạy cho các pháp ấn, múa may để học đạo, cầu được mở nhãn, mở nhĩ nhằm mục đích thông linh lên các cõi cao hơn để học đạo…. Nên dẫn đến việc xa rời chân lý đạo giải thoát.

Pháp môn Thầy Già không phải tà đạo mà chỉ đi không đúng con đường dẫn đến sự giải thoát vì: Họ không có ác tâm, biết làm lành lánh dữ. Họ cũng cầu có công đức, cũng hành thiện tích đức, Họ cũng tụng kinh, trì chú cầu về cõi cao hơn cõi người. Chính những mong cầu của họ sẽ dẫn dắt họ hành động và tạo lập công đức, nên những thành quả của họ sẽ dẫn đến phước báu hữu lậu ở cõi trời, cõi người. Bằng chứng là hiện nay họ vẫn còn tham (tham ấn chứng siêu hình, ham học hỏi lý đạo để kiến giải phân biệt đúng sai, cũng biết ấm ức khi bị người chỉ trích, còn mong cầu có công ăn việc làm tốt, có thu nhập tốt); họ vẫn còn sân (họ không cam tâm khi bị người cho mình là tà, bức xúc khi nghe những điều chói tai); họ vẫn còn si khi chấp vào vị tổ sư “Cư sĩ Triệu Phước” là người sáng lập ra “Hệ thống truyền thừa Thầy Già”, cho rằng các vị đã được họ điểm đạo xong, sau khi hành đủ 100.000 biến NBC là có thể tự đi điểm đạo lại cho người khác đê tạo lập công đức. Như vậy thì không thể đi đến giải thoát được mà chỉ thọ nhận phước báo ở cõi trời, cõi người thôi.

Họ tự đặt ra “Hệ thống truyền thừa Thầy Già” trong trường hợp này là không đúng. Vì sao? Vì dòng truyền thừa Phật pháp là hệ thống bao gồm những người kế tục thụ hưởng chân truyền giáo pháp của Phật do các vị đi trước truyền lại cho các vị đi sau (Từ Phật Thích Ca trở xuống và chia ra làm nhiều nhánh).

Đặt biệt là không có dòng truyền thừa nào thuộc “Hệ thống thiên đình” được truyền thừa từ đức Tỳ Lô Giá Na Phật, giáo pháp mà họ học tập là tạng “kinh vô tự”, người dạy là chư vị bề trên (không biết vị nào), mà vị tổ sư là Thầy Già (điều này nghe hơi giống đạo bà Thanh Hải Vô Thượng Sư).

Tôi thiết nghĩ tu học phật pháp phải dựa trên tinh thần khoa học. Phải quy y Phật, Phải quy y Pháp (Phật), Phải quy y tăng là người truyền thừa giáo pháp của Phật (đây là giáo lý căn bản). Chúng ta đang là con người, đang sống trong thế giới con người (mặc dù biết rằng có rất nhiều cung cõi ở thế giới khác); cho nên chúng ta chỉ nên tu trì làm sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại là con người. Cõi người là cõi dễ tu, dễ chứng nhất trong các cõi (vì ngay cả đức Thích Ca ở cõi trời Đâu Suất cũng phải đản sinh làm người để tu hành nhằm đạt đến cảnh giới Niết bàn thanh tịnh). Tất cả các thần thông, ấn chứng gì đó mà các vị thấy được, biết được thì cũng đừng cho rằng đó là chuyện hay vì đó chỉ là chuyện thường tình ở cỏi khác thôi (vì khi chúng ta chết => lập tức có ngũ thông ngay mà không cần phải tốn công học tập gì cả)

Mặt khác, một số giáo phái khác của Mật tông Ty tạng cũng dạy cho đệ tử là xem người thầy (bằng xương bằng thịt) ở thế gian này là 1 vị Phật làm điểm tựa tâm linh để theo học tập, hành trì. Điều này chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ hẹp và chỉ đúng với một số đối tượng cá biệt nên mới dùng phương tiện cá biệt. (đây là 1 trong 84.000 pháp môn, không nên đồng hóa phương pháp này cho tất cả các vị thầy, cho tất cả các đệ tử)

Cách truyền giáo của các vị trên đều mang tính 2 mặt: một mặt mang tính giới hạn hữu vi của thế giới vật chất, dạy người hành trì tu mật phải thực hiện hành động (trì chú, kiết ấn, quán tưởng) ,
Mặt khác mang tính tâm linh thiết lập (tự tạo dụng một điểm tựa tâm linh để hành trì theo định hướng của họ).
Trong khi các đệ tử hành trì lại hiểu biết theo tri kiến riêng của mình dẫn đến việc lý đạo bị bóp méo, sinh ra chấp trước vào các cảnh giới họ quán tưởng hoặc chấp vào một số vị vô hình ở cung cõi khác (không biết là vị nào) làm điểm tựa học đạo. Có khi họ xuất thần đi chu du các cảnh giới ở cung cõi khác để tầm cầu học đạo.
Một số khác thì phủ nhận thế giới vật chất lại rơi vào chấp không (xem tất cả các chủ thể mang hình tướng đều không) nên bị vướn không tưởng

Để định hướng cho các vị mới quy y Phật pháp, tránh bị loạn động; TP xin đóng góp vài ý kiến tu học theo nhà Phật như sau:

1) Trước tiên Phải quy y Phật (Phật Đà, Thích Ca, Chuẩn Đề, Quan Âm….) tùy theo lòng kính ngưỡng vị Phật nào thì quy y vị đó. (Các vị Phật trên đều đồng nhất thể, nhưng do chúng sanh cần có điểm tựa tâm linh, quy hướng theo sở nguyện mong cầu riêng từng hoàn cảnh nên các vị biến hiện thành hóa thân này, hóa thân nọ để độ chúng). Không quy y Thiên thần Quỷ vật (vì những vị này chỉ dạy và đem lại phước bàu ở cõi Trời, cõi người, không mang lại sự giải thoát)

2) Phải quy y Pháp của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã để lại vì pháp này đã và đang giúp mọi người đến bến bờ giải thoát (biết được như vậy là nhờ thông qua lịch sử các vị đệ tử của ngài đã chứng đắc và để lại nhiều xá lợi truyền cho đời sau nhờ học tập và hành trì thao giáo pháp Phật).

3) Phải quy y Tăng (những vị chân tu) là người nắm giữ và truyền thừa giáo pháp Phật.

Đối với các vị tu theo Mật tông (hành tam mật). Nên đi từ thấp đến cao, từ sơ đến thượng, không tu tắt, không tu ngang, vì mật tông là dao 2 lưỡi nếu không biết dùng ắc tự hại thân. Do đó cần trang bị cho mình kiến thức hiểu biết sâu về chân lý nhà Phật, tri kiến => xả bỏ, rồi => hành trì để đạt trạng thái thanh tịnh. Muốn vậy trước tiên chúng ta nên đặt cho mình 1 mục tiêu để hướng tới : đó là giải thoát. (không nên đặt mục tiêu ở cảnh giới này, cảnh giới nọ, phải lên được cõi trời này hay cõi trời kia; vì tất cả các cõi đó đều nằm trong lục đạo luân hồi…); muốn giải thoát phải bắt đầu từ tu thân, khẩu, ý cho thanh tịnh. Muốn thân khẩu ý thanh tịnh phải rèn, muốn rèn phải có nghịch cảnh làm xúc tác. Bao giờ tâm không bị trần cảnh (thông qua thân khẩu ý) lôi cuốn thì mới dần dần được thanh tịnh; và lâu ngày sẽ nảy sinh chủng tử bồ đề và từ đó sẽ đi đến giải thoát.

Còn tiếp