--------------------------
Này tỷ Minh Đài,
Nguyên một bài văn viết rất hay rất nhiều chi tiết về chư Phật mà không hỏi, lại đi hỏi chuyện kỳ thị nữ giới làm phá vỡ ý nghĩa của quá trình tu thành Phật. Câu hỏi này Hoa Sen (HS) đã từng trả lời nhiều lần cho tỷ Minh Đài mà lâu ngày thành ra quên lãng, nay hỏi nữa, làm HS phải ngồi trả lời lại vì không trả lời thì sợ có người kém hiểu biết sẽ hiểu lầm, hiểu quấy về công đức và những điều kiện tu thành Phật mà trở nên phỉ báng chư Phật sẽ tạo ác nghiệp chận đứng con đường tu tập của người đó. Tuy nhiên, câu hỏi này của tỷ cũng trùng hợp với câu hỏi của một anh bạn mới tìm hiểu Phật giáo, nên HS hôm nay gởi bài trả lời cho tỷ Minh Đài và những ai không có hiểu biết tường tận lý do tại sao người nữ không thể tu thành Phật, còn bài kệ Hoa Sen hoá sanh kia, HS sẽ trả lời sau cùng. Vì đây là chủ đề của chuyên mục Phật giáo Nguyên thuỷ (Nam tông) cho nên chỉ đề cập tới những lời giảng của Phật Thích Ca Mâu Ni và quan điểm nhìn nhận về chư Phật có lịch sử cụ thể có ghi trong Kinh Tạng Pali, các vị này đã giáng sinh trong thế giới nhân loại chúng ta mà không đề cập tới các vị Phật nào của Bắc truyền (Bắc tông) vốn có nhiều điểm khác biệt trong quá trình truyền giáo và hoằng pháp.
Trước hết chúng ta phải xác định rõ là chúng ta đã đề cập về vấn đề gì, đó là vấn đề về Lịch sử chư Phật và những điều kiện để trở thành 1 vị Phật, chứ không phải trở thành 1 vị Thinh Văn Giác, cần phải làm rõ phân vùng quả vị để khẳng định chủ trương đúng đắn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong phạm trù tu thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác chứ không phải tu thành Thánh A La Hán (Thinh Văn Giác). Ngày xưa cũng có những vị nữ tu sĩ trong Phật giáo Nam tông ôm ấp suy nghĩ cho rằng Đức Phật kỳ thị người nữ nên phải tu thành nam rồi mới thành Phật được, đã hiểu sai và tạo tiền đề cho những người nữ đi sau rơi vào tà kiến với Đức Phật. Thật là sai lầm vì không chịu tìm hiểu cho kỹ lưỡng trước khi lên tiếng phỉ báng như vậy là thiếu khôn ngoan.
Trong đoạn trích của tỷ Minh Đài, HS dẫn lại nguồn trích để mọi người hiểu rõ nguyên nhân của câu hỏi này. Đề nghị tỷ Minh Đài có trích dẫn thì nên lưu ý mạch văn, không nên cắt một đoạn nhỏ của một ý lớn mà nói kẻo làm chướng ngại cho người kém hiểu biết không sao tường tận ý nghĩa câu hỏi mà còn có nguy cơ hiểu sai đại ý bài viết nữa, là không nên:
... Cách đây độ 20 A-tăng-kỳ, có 1 người em gái của Đức Phật PURÀNA DIPANKÀRA, có lòng trong sạch đem dầu cúng dường Phật, rồi nguyện thành 1 vị Chánh giác và xin Phật thọ ký cho. Phật giải rằng: vì em là phụ nữ nên không thể nguyện thành Phật được, chờ 16 A-tăng-kỳ nữa em sẽ thành đàn ông rồi chừng ấy sẽ có Phật thọ ký cho.
Nhân đó Đức Phật mới giảng cho các thầy Tỳ khưu nghe 4 điều khó là:
1- Khó sanh được làm người.
2- Phụ nữ khó sanh làm nam nhân.
3- Làm nam nhân khó được xuất gia.
4- Khó gặp Phật ra đời.
Khó gặp Đức Phật ra đời, vì muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định thì mới mong thành 1 vị Phật Tổ được.
Còn phụ nữ khó sanh làm nam nhân, vì phải có nhiều duyên lành phước báu mới có thể sanh làm đàn ông được, phụ nữ không thể nào nguyện thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Độc giác Phật, hoặc là Chuyển Luân Vương Bồ-tát được. Phụ nữ muốn sanh làm nam nhân phải rán tu hành tinh tấn, thọ trì ngụ giới, bát quan trai giới hoặc xuất gia trọn đời xa lánh tình dục, gìn vẹn trinh tiết, rồi nguyện cho thành nam giới....
Đề nghị tỷ Minh Đài xem lại đoạn ý thứ nhất trước đoạn ý tỷ cắt ra để thấy là đoạn ý thứ hai tỷ hỏi là phần diễn giải cho đoạn ý thứ nhất:
- Khó gặp Đức Phật ra đời, vì muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định thì mới mong thành 1 vị Phật Tổ được.
Cách giảng giải của Hoà thượng Tổ sư đã nói rất rõ lý do tại sao người tu thành 1 vị Phật Tổ phải là người nam rồi, đâu có kỳ thị người nữ mà chẳng qua người nữ có thể làm như người nam chăng? [...vì muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định...]
HS xin trở lại câu hỏi của anh bạn mới tìm hiểu Phật giáo như sau: Phật nói là con người bình đẳng đúng ko?vậy sao trong kinh gì đó có nói là tu bao nhiêu kiếp thì mới được làm đàn ông như vậy là có quan niệm ko bình đẳng rồi.
- Câu trả lời của Hoa Sen như sau: Cái quan niệm con người bình đẳng trong cách nhìn của Đức Phật ông hiểu sai rồi, bình đẳng là bình đẳng khả năng Giác ngộ trong tất cả các chúng sanh nhất là con người; bình đẳng trong phương diện máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn; bình đẳng về mặt nhân vị tức là con người không có giai cấp đều có vị trí ngang bằng nhau, đều được hưởng những điều ưu đãi như nhau; chứ ko cứ là bình đẳng giới tính bởi có những trình độ tâm linh giới tính của người nữ và bản tính của người nữ không thể đáp ứng khả năng thành tựu. Người nữ không thể làm cực thiện hay cực ác như người nam được. Có bao nhiêu người nữ làm Vua hoặc Đại đế lâu dài mà ko bị chuyện chồng con, gia đình, phong tục tập quán của xã hội trói buộc? Có bao nhiêu người nữ có thể làm Đại đế như Nữ hoàng Võ Tắc Thiên (Trung Quốc) hay là Nữ hoàng Victoria (Anh quốc)? Có bao nhiêu người nữ đủ sức mạnh như đàn ông, số lượng lực sĩ nữ chiếm bao nhiêu % so với số lực sĩ nam trên toàn thế giới ? Nếu chia tỷ lệ đầu người thì trên thế giới số lượng người nữ có khả năng trở thành Lực sĩ như người nam là rất ít. Những nghề nghiệp đáng lý thuộc về quyền sở hữu của người nữ như đầu bếp, thợ làm tóc, thợ trang điểm, thợ cắm hoa, thợ may, hoạ sĩ, nhạc sĩ thành danh ở Vn và trên thế giới đều là đàn ông. Như vậy thử nói xem, tại sao? Tại vì đàn ông có điểm khác biệt mạnh mẽ hơn người phụ nữ là "luôn khao khát ham muốn chiến thắng kẻ khác" và khi đạt được rồi thì không dừng lại ở đó mà cứ muốn tiến lên tới nhiều đỉnh cao xa hơn của sự chiến thắng đó nên thành công hơn, còn người nữ không ham muốn chinh phục mạnh hơn người nam và dễ có xu hướng thoả mãn với những gì đã đạt được. Một cách hiểu khác là cái Tôi của người nam mạnh hơn cái Tôi của người nữ, người nam bao đời nay luôn có xu hướng thích khẳng định cái Tôi tức là cái bản lĩnh thể hiện của mình ra trước đám đông (xã hội) hơn là người nữ, nhưng ở người nữ thì thích thể hiện sự sở hữu cái Của Tôi nên không có ham muốn ganh đua quyết liệt một mất một còn như người nam. Do vậy mới nói là người nữ không thể cực ác cực thiện như người nam được, người nữ dù cứng rắn cỡ nào nhưng trong tính cách vẫn có chút mềm mỏng của bản chất nữ tính. Người nữ dễ bị định kiến xã hội trói buộc, cản trở đi tới thành công hơn người nam như là người nữ học không cần cao như người nam, người nữ không phải nặng nhọc kiếm sống như người nam, người nữ không có ý chí tại bốn phương nhiều như người nam, người nữ không cần thể hiện bản lĩnh với đời như người nam, người nữ ít trở thành trụ cột gia đình như người nam, thể lực người nữ ít khi phải đương đầu với những công việc nặng nhọc như người nam. Đức Phật dạy có 4 vị trí ng nữ ko làm được:
1- cực Ác là Ma Vương, Ác Ma (quỷ Satan của đạo Công Giáo)
2- cực Thiện của loài người phàm phu: Chuyển Luân Thánh Vương (quyền năng cao hơn Đại Đế).
3- quả vị Phật Độc Giác
4- quả vị Phật Toàn Giác
Hiểu theo Phật giáo Nam tông thì, Ma Vương (tiếng Pali là Māra [đọc là Ma-rá] ) có 5 ý nghĩa (tóm tắt) là:
a- Phiền não ma vương (Kilesa māra).
b- Ngũ uẩn ma vương (Khandha māra).
c- Pháp hành ma vương (Abhisankhāra māra).
d- Tử thần ma vương (Maccu māra).
e- Chư thiên ma vương (Devaputta māra)
- Ma Vương mà chúng ta nói tới trong bài này là Chư thiên ma vương, đây là một loại Ma Vương khác biệt so với 4 loại ma vương phía trên - vốn chỉ là danh tư nhân cách hoá của các thực trạng của đời sống chúng sanh trong thế gian tam giới này. Ma Vương này là một vị chư thiên sống trên cõi trời thứ 6 của Dục giới chư thiên là cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên, vị chư thiên này có uy lực và sự độc ác chiếm cứ một vùng lãnh thổ để trị vì và thống lãnh một lượng chư thiên có tà kiến và độc ác chống đối lại vị Thiên vương chánh kiến ủng hộ Đức Phật và Giáo pháp. Ma Vương tuy là chư thiên có nhiều uy lực do quả báo tu tập nhiều hạnh lành trong tiền kiếp nhất là tu thiền đạt Cận Định nên tái sanh về cõi trời này thọ hưởng phước báo, nhưng với tâm tà kiến và ích kỷ ganh tỵ nên nhiều lần bày mưu tính kế hãm hại Đức Phật và chư Thánh Tăng, tiền thân của ngài Mục Kiền Liên là Ma Vương có tên là Dusi là cậu của Ma Vương hiện tại vì đã cố ý giết chết một vị Thánh thượng thủ hầu cận Đức Phật Quá khứ Câu Lưu Tôn (Kankusandha) và do ác quả này phải đoạ ngay vào A Tỳ địa ngục. Đây là biểu trưng cho tính cách một con người cực ác, sẵn sàng làm việc ác bất chấp hậu quả.
- Chuyển luân Thánh vương là một vị Vua lớn, có thể hiểu với danh từ Vĩ đại hơn Đại Đế, không dùng bạo lực mà dùng chánh pháp và đức hạnh để trị dân nên được tán tụng là Thánh vương. Chuyển luân là bánh xe hay chiếc xe vận chuyển bằng bánh xe. Trong ngày đăng quang lên ngôi vua sẽ xuất hiện một cỗ xe báu trên hư không, cỗ xe này tự hạ xuống và nhà vua dùng cỗ xe này bay đi khắp mọi nơi không bị trở ngại, bay tới đâu thiên hạ quy phục tới đó mà không phải gây ra chiến tranh như các vua thông thường sau này, cho nên gọi là Chuyển luân vương hoặc Chuyển luân thánh vương. Chuyển luân vương có 4 loại từ cao đến thấp căn cứ theo tính chất của xe báu là:
1- Kim luân vương cai quản 4 châu thiên hạ (Đông thắng thần châu, Tây ngưu hoá châu, Nam thiệm bội châu, Bắc câu lư châu) trên bờ và các đại dương.
2- Ngân luân vương cai quản 3 châu thiên hạ
3- Đồng luân vương cai quản 2 châu thiên hạ
4- Thiết luân vương cai quản 3 châu thiên hạ
Ngoài ra về tài sản còn có xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu.
Do phước báu trong sạch tu tập trong nhiều đời nhiều kiếp nhất là các phước báu liên quan tới Ba la mật Giải thoát mà Chuyển luân thánh vương cũng có đầy đủ 32 tướng tốt như Đức Phật. Trong thời Đức Phật Tương Lai Di Lạc sẽ có 2 nhân vật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp y như nhau, là Đức Phật Di Lạc và Vua Chuyển luân vương của thời ấy sẽ xuất gia và chứng quả A La Hán. Đấy là thời cực kỳ thiện của nhân loại. Nói thêm, người có 32 tướng tốt nếu xuất gia sẽ trở thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, nếu tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương, ngoài ra không còn sự chọn lựa nào khác.
- Phật Độc Giác hay là Độc Giác Phật (Paccekabudhha), Bích Chi Phật, Duyên Giác, là sự khai minh giác ngộ đơn độc của một người tự lực cố gắng tiến đến Đạo Quả Giải thoát, không nhờ một ai dạy dỗ hay giúp đỡ. Vì đặc tính đơn độc giác ngộ, nên chư Phật Độc Giác không dắt dẫn ai đến nơi giác ngộ bằng lối đơn độc giác ngộ được. Các Ngài chỉ nêu gương đức hạnh và trí dũng. Hơn nữa, chư Phật Độc Giác chỉ ra đời trong lúc không có Phật Pháp. Số lượng Phật Độc Giác không phải chỉ có một trong một thời kỳ riêng biệt, như trường hợp của bậc Toàn Giác hay là Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammasambuddha) như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - mặc dù đã viên tịch nhưng bao giờ Giáo Pháp của Đức Phật còn tỏ rạng và tinh thuần như lúc ban sơ thì không thể có một vị Phật Độc Giác ra đời trên thế gian này. Độc Giác Phật không đạt được các năng lực như Nhất thiết trí (sarvajñatā) hay Mười lực (daśabala) của một vị Phật Toàn Giác. Độc Giác Phật được xem như bậc ở quả vị giữa A La Hán và Phật. Danh hiệu Duyên giác được gán cho các ngài khi người đời sau cho rằng các ngài giác ngộ nhờ đã đạt tri kiến về mười hai nhân duyên trong kiếp sống cuối cùng ấy.
Do tính chất tự giác một mình, cuộc sống không thể dựa dẫm vào người khác, tự lực cánh sinh nên bản tính người nam phù hợp hơn bản tính người nữ, và về pháp ba la mật thì Độc Giác Phật phải thành thục 20 pháp ba la mật tức là có thể bố thí cả thân thể và các bộ phận sống động trong suốt một thời gian 2 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất.
Tóm lại, trong vấn đề giác ngộ thì không có chuyện phân biệt nam-nữ nhưng trong phân biệt đặc tính quả vị thỉ có sự rõ ràng bản tính con người nào có thể thành tựu được. Bậc thánh A La Hán Thinh Văn Giác có thể thành tựu cho người nam và nữ, với thời kỳ tu tập từ 100.000 đại kiếp đến 1 A tăng kỳ kiếp trái đất, nhưng những người không có ước nguyện chứng đắc các Ân đức cao thượng như:
1- A La Hán Tối thượng : chư Phật nào cũng chỉ có 4 vị Tối thượng về Trí tuệ + Thần thông: 2 Tăng, 2 Ni
Đối với chư Đại Thánh Thinh Văn thì có số lượng không xác định.
2- A La Hán Đại Đệ Tử
3- A La Hán Lục Thông
4- A La Hán Tam Minh
thì có thể chứng đắc thành A La Hán Nhất Minh tức là chỉ chứng Lậu Tận thông (hay Lậu Tận minh) để Giải thoát sinh tử luân hồi, hạng này không đợi phải được 1 vị Phật thọ ký mà khi nào 10 ba la mật thành tựu liền chứng quả ngay. Trình độ này gọi là Thường Thinh Văn, còn 4 trường hợp kia gọi là Đại Thinh Văn - phải được 1 vị Phật thọ ký cho thành tựu ước nguyện để thành tựu 10 ba la mật trong suốt thời gian quy định, tương tự với quả vị Độc Giác Phật và Toàn Giác Phật.
PHẦN TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI PHỤ:
---> Câu này xin hỏi ngược lại, nếu không có nam giới thì sư thầy cũng như sư bà đều không thể có mặt trên đời này. Sự kết hợp nam nữ chỉ có xảy ra trong 2 loài chúng sanh là noãn sanh (trứng) và thai sanh mà thôi, sẽ không cần yếu tố kết hợp tinh cha, huyết mẹ ở loài thấp sanh (dòi, bọ...) và ở loài hoá sanh (chư thiên, phạm thiên). Một điểm nữa cần lưu ý với tỷ Minh Đài là khi tỷ dùng danh từ 'thân Tứ đại' này thì phải hiểu là dùng chung cho cả 4 chủng loại: noãn, thai, thấp, hoá không chỉ dành cho loài người và loài thú. Đấy là điểm không chuẩn của câu hỏi này.Nếu như không có nữ giới sư thầy có thân tứ đại này không? Nếu như ai cũng đồng tu không có ai lập gia thất ,không có nam đồng không có nữ sự sanh diệt ắc không còn,vậy lúc đó mình đâu có thân tứ đại đúng ko?
---> Câu này lại là câu hỏi có đa nghĩa, ở đây xin trả lời 2 nghĩa:Vậy hãy suy ngẫm xem PHẬT ở đâu? Phật phát xuất từ đâu sanh, PHẬT có phải từ chữ ko mà có hay không
a- "Phật" xét trên phương diện thai sanh là con người có cha có mẹ, lớn lên tu hành thành Phật thì đã trả lời phía trên và nguyên cái topic này cũng đã quá chi tiết, xem lại và suy xét kỹ nhá.
b- "Phật" xét theo ý nghĩa sự Giác ngộ thì là sự Giác ngộ tối thắng không ai giác ngộ tới mức này của Phật, vì trong thời kỳ Giáo pháp của 1 vị Phật thì không bao giờ có vị Phật thứ 2 cho nên ai mà cho rằng đã đắc quả thành Phật trong thời kỳ hiện tại này đều là dóc tổ, láo toét hết trọi ! "Phật" mà hiểu theo nghĩa Giác ngộ thì cũng chỉ giác ngộ theo cái mà người ta đã chỉ ra cho mình thôi, người chỉ ra là Phật Thích Ca cho nên người thời nay học của người thời trước rồi thực hành dẫn tới giác ngộ, nên chỉ là hàng hậu học mà thôi, cũng chỉ được xếp vào hạng Thánh Đệ tử chứ không thể làm bậc Đạo Sư được. "Phật" xét theo ý nghĩa Giác ngộ vô cùng tận thì không còn là 1 trong 4 loại chúng sanh nữa, không còn là chúng sanh bị 5 loại Ma vương theo ám ảnh nữa nên gọi là Đấng Chiến Thắng Ngũ Ma, phiền não đã tận, phạm hạnh đã thành, đã thực chứng cả 2 loại Niết Bàn là Phiền Não Niết Bàn và Ngũ Uẩn Niết Bàn, không còn trở lui lại trên cõi đời này nữa.
--> Ý nghĩa: chúng sanh có đủ Tín, Hạnh, Nguyện được vãng sinh vào Hoa Sen mang thân bảy báu của cõi tịnh để rồi khi hoa sen nở thì được giác ngộ, "ngộ Vô sanh" chính là giác ngộ Niết bàn để thấy rõ sự chấm dứt sinh tử luân hồi của chính chúng sanh ấy, đó chính là quả vị Thánh A La Hán, Độc Giác Phật, Toàn Giác Phật - đấy là một cách hình tượng hoá sự hoá sanh của chúng sanh có nhiều phước đức tương đương sự hoá sanh của chư thiên trong các cõi trời, sánh với cách vãng sinh mà không phải thông qua con đường thai sanh của tinh cha huyết mẹ như con người; không phải về cõi Cực Lạc của Đức Phật Di Đà theo quy luật thọ hưởng tham ái nhục dục mà là quy luật nhân quả của quá trình tu tập hạnh lành tích trữ phước đức, chứ không phải hiểu theo ý nghĩa thân xác con người là kết quả của ái dục tham ái của cha mẹ . xin vui lòng đọc cho kỹ và suy ngẫm cho sâu câu trả lời dưới đây của các bậc tôn túc:Nguyện sanh tây phương tịnh độ trung
Cửu phẩm LIÊN HOA vi phụ mẫu
Hoa khai kiến PHẬT ngộ vô sanh
-- Tông Tịnh độ nói đến “Liên hoa chín phẩm”, với ngụ ý có nhiều mức độ tu tập và sở chứng trong đường lối tu Tịnh chứ không phải chỉ một bậc “thấp lùn”, nhất nhất nương tha lực mà thôi. Nói như thế, cũng có nghĩa là mọi căn cơ đều có: từ bậc ngộ đạt sâu mầu vào nguồn cội chân tâm trong sạch “niệm Phật, niệm tâm, tâm niệm Phật; tham thiền, tham tánh, tánh tham thiền” cho đến người ngu phu ngu phụ mới cải tà quy chánh. Tịnh độ nhiếp hết các căn từ người đại tâm ngộ đạt, vút cao, trải rộng đến cảnh giới Pháp thân Phật cho đến người chân chất quê mùa ít chữ nghĩa với Thánh hiệu, Hồng danh làm nơi nương tựa. Dù kẻ tài sơ trí thiển, còn nương Thánh hiệu nhưng vẫn phải tự lực mình kiên cố hành trì, chứ phước phần đâu sẵn bên ngoài ban ra.
http://www.buddhistedu.org/viet/phat...vang-sinh-tnh-
-- Hoa Sen trong cõi Tịnh Độ tiêu biểu cho nhân quả tu hành của những người có niềm tin vào pháp môn Tịnh Độ. Tùy theo Tín, Nguyện, Hạnh của người niệm Phật mà cảm ứng hoa sen ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Mỗi khi hành giả phát khởi niềm tin và thiết tha niệm Phật thì ở cõi Tây Phương tự nhiên “Cảm ứng tùy thời hiện” một đóa hoa Sen ở ao thất bảo. Nếu như ở cõi Sa Bà, chúng sinh thác sinh vào trong thai tạng bằng nghiệp lực ô nhiễm thì ở Tây Phương Cực Lạc chúng sinh được sinh ra trong bản tính thanh tịnh của hoa Sen. Từ bản tính thanh tịnh mà sinh ra thì cả nhân hạnh trong cuộc đời mới được gắn liền với quốc độ, báo độ của sự thanh tịnh. Từ đó hành giả một đường đi lên đến quả vị giác ngộ viên mãn. Theo công phu tu tập của hành giả, hoa Sen ngày càng lớn lên theo phẩm vị của người trì niệm danh hiệu Phật. Và quả vị giải thoát ở Tịnh Độ tông được minh chứng ở “Cửu Phẩm Liên Hoa”. Hành giả được vãng sinh về thế giới Tây Phương thác sinh trong thai tạng của hoa Sen. Tịnh độ tông xây dựng giáo nghĩa của mình trên hình ảnh hoa sen.
http://www.hoalinhthoai.com/forum/showthread.php?t=6413
Hỏi nhỏ nè, Tỷ nói tỷ vượt qua tất cả pháp môn tu tập rồi tâm đã vắng lặng, tâm không sanh nữa rồi (đại học) mà sao còn hỏi những câu của trình độ phàm phu (lớp mẫu giáo) nữa vậy? bộ tỷ tu Tâm mà không tu Tuệ hay sao mà đụng tới đâu bể tới đó vậy HẢ ???
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks