Vì vietnamese không có nhiều thời gian rảnh nên các đạo hữu cứ đăng ký, vietnamese tổng hợp rồi gửi cho các đạo hữu 1 lần luôn nhé.
A Di Đà Phật.
Vì vietnamese không có nhiều thời gian rảnh nên các đạo hữu cứ đăng ký, vietnamese tổng hợp rồi gửi cho các đạo hữu 1 lần luôn nhé.
A Di Đà Phật.
Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Ung dung ta bước ra vòng trần ai.
Vietnamese mới thỉnh thêm cục sạc cho các đạo hữu rồi, và vietnamese đã chọn loại tốt nhất, xài rất bền nên các đạo hữu yên tâm khỏi lo tốn pin, chỉ cần cắm điện là có thể xài 24/24.
A Di Đà Phật.
Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Ung dung ta bước ra vòng trần ai.
Hiện nay đã có một số đạo hữu pm cho vietnamese rồi, vietnamese sẽ tổng hợp và gửi cho các đạo hữu. Các đạo hữu cứ pm vào hộp mail của vietnamese nhé vì có 1 số người ngại công khai thông tin cá nhân, vietnamese sẽ giữ kín thông tin cho các đạo hữu.
A Di Đà Phật.
Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Ung dung ta bước ra vòng trần ai.
Thỉnh pháp bảo có gì đâu mà ngại nhỉ !?
Mọi người muốn thỉnh hay đã nhận xong nên post bài vào topic này, tránh để topic trôi về sau và để những người đến sau hoặc mới vào còn biết mà thỉnh :)
A Di Đà Phật.
“Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa ấy là bậc nhất”
(Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông)
Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Ung dung ta bước ra vòng trần ai.
bạn monikat123 bạn thỉnh chỗi 108 hạt đễ tặng mẹ bạn đúng không?
To NN: NN co vào thì cho mình xin phep nhé 1 việc nhé. thanks
chào đạo hữu Viẹtnamese
thấy đạo hữu có lòng phát tâm lớn như vậy, vanhuynh xin đạo hữu ban tặng cho 1 chiếc " kính đàn" của đức "chuẩn đề" không biết ý đạo hữu thế nào. nếu được xin gửi theo địa chỉ:
nguyễn văn huynh - thôn lộng khê 4 - xã an khê - huyện quỳnh phụ - tỉnh thái bình.
"Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Ung dung ta bước ra vòng trần ai."
Chữ ký rất giống như tâm của Vietnamese. Giúp mọi người, đồng thời buông xả, nhẹ gánh, rỗng rang, mà thanh tịnh.
Nếu có duyên, cũng muốn gặp mặt đạo hữu :)
Nam mô A Di Đà Phật.
Nhất cú Di Đà vô biệt niệm
Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương.
Mìnnh còn 1 chuỗi 108 hạt bạn tặng mình định tặng lại cho bạn minikat123(mình nghĩ vc mình chỉ sở 1 vòng tay và 1 chuỗi 108 hạt thôi). Mình cũng muốn cùng bạn gieo duyên đi tiếp đc không?
còn 1 việc nữa, nếu mình tặng tập cho trẻ em nghèo, không biết kè, theo gì để gieo duyên gì cho các em . mong các đạo hữu góp ý . thanks.
Chào bạn!
N đã nghĩ bạn đã có ý định này khi bạn gọi N phía trên (do N hiểu tính của bạn đôi chút, và cũng vì tâm tính này của bạn mà ban đầu N đã tự nguyện gieo duyên các sợi chuỗi Bồ Đề đến vợ chồng bạn do bạn quên lợi ích của chính mình mà chỉ tranh thủ cho người khác; đây là đức tính N rất quý trọng và thầm nể phục bạn rất nhiều vì hiếm ai dc vậy) :)
Mình rất hoan hỉ bạn ạ :) Bạn có tấm lòng này N rất quý bạn :) Hy vọng bạn Monikat123 sẽ hoan hỉ nhận món quà từ trái tim này của bạn :)
Mến chúc bạn cùng gia đình luôn hạnh phúc và mọi sở cầu sẽ dc như ý! rose4
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn Tịnh Độ thệ nguyện học. Như Lai vô biên thệ nguyện sự. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn Tịnh Độ thệ nguyện học. Như Lai vô biên thệ nguyện sự. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Mặc dù công việc bận rộn nhưng đạo hữu nào ở TP.HCM muốn thỉnh pháp bảo vui lòng cho vietnamese địa chỉ, vietnamese sẽ sắp xếp thời gian mang đến tận nhà cho các đạo hữu.
A Di Đà Phật.
Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Ung dung ta bước ra vòng trần ai.
Kính tặng Quý Đạo Hữu Vietnamese
Bài giãng :
Phật giáo Thiền tông thực tế đến không ngờ - P1/2 - Thích Thanh Từ
http://youtu.be/wdPMZb1Eg8Q
Toàn văn Bài giãng cũa HT Thanh Từ do Đạo Hữu tuitui ghi lại.
Kính mời Quý Đạo Hữu Vietnamese
Phật giáo Thiền tông thực tế đến không ngờ
Những năm cuối đời, cái gì tôi thấy hay tôi không còn nói ẩn khuất như trước nữa, đem hết nói rõ ra cho tất cả đại chúng nghe, thu nhận.
Vì đây là điều kiện rất là quan trọng.
Bởi vì tất cả chúng ta tu nếu không nắm chắc, không biết rõ cái chỗ đến của mình thì đời tu sẽ bị trở ngại nhiều, bị nghi ngờ không tiến được.
Vì vậy mà tôi thấy cái gì hay, đem nói tất cả cho quý vị nghe.
Quý vị ráng chú tâm lắng nghe, khỏi cần ghi chép gì hết.
Nghe rồi, lĩnh hội được đủ để quý vị tu.
Bởi lí do đó mà đề tài tôi giảng hôm nay, nếu nói cho thật đủ là:
“ Phật Giáo Thiền Tông thực tế đến nỗi không ngờ ”
Điều quý vị nghe nó lạ, rất là lạ.
Nhưng đây là một lí do lâu nay tôi thắc mắc.
Bởi vì khi đọc lịch sử Đức Phật, chúng ta thấy Ngài đi tu, rồi tu theo ngoại đạo, rồi tu khổ hạnh. Đến cội bồ đề, Ngài ngồi dưới gốc cây 49 ngày đêm thành Phật.
Nhưng cái mong mỏi, trông đợi của Ngài, đi tu để cứu độ chúng sinh; nhưng khi giác ngộ viên mãn rồi, Ngài trù trừ không muốn đi. Ngài cứ chờ đợi.
Cho đến khi trời Đế Thích, trời Phạm Thiên xuống yêu cầu Ngài đem cái hiểu biết của Ngài dạy cho chúng sanh. Ngài nói sợ nói ra, chúng sanh không hiểu.
Các ngài mới yêu cầu Phật nên dùng phương tiện để chỉ dạy, chúng sanh có nhiều căn lành, rồi có một ngày kia họ sẽ hiểu. Đức Phật mới khởi sự đi đến vườn Lộc Uyển thuyết pháp Tứ đế để giáo hóa.
Như vậy pháp Tứ đế là bài pháp khởi đầu với phương tiện độ sanh.
Nhớ chỗ đó, phương tiện độ sinh, mói nói bài pháp Tứ đế.
Như vậy cái chân thật cứu kính Ngài thấy được sao Ngài không nói, mà phải dùng phương tiện nói?
Đó là tôi ngờ.
Tôi nghĩ rằng lòng từ bi của Phật tràn trề, cái gì mình thấy được thì nói cho chúng sanh nghe, chỉ cho chúng sanh hiểu; sao lại không chịu nói, mà phải dùng phương tiện nói quanh co mà không nói thẳng?
Đó là một cái chỗ mà tôi nghi, mà tôi lại còn có nghi xấu nữa.
Tôi nghĩ Đức Phật còn đợi nài nỉ, yêu cầu mới thuyết pháp, không có sẵn sàng.
Nhưng mà sự thật đến giờ mới thấy được chỗ thâm sâu của Đức Phật.
Thấy mà nói không được, nói người ta không nghe, không hiểu thì làm sao nói.
Bởi vậy cho nên Ngài trù trừ không muốn đi, không muốn nói.
Đợi nhiều lần yêu cầu tha thiết dùng phương tiện để giáo hóa, chừng đó buộc lòng Ngài phải dùng phương tiện.
Như vậy, chúng ta học kinh, bắt đầu từ Tứ đế trở đi đều là phương tiện hết, chớ không phải là chỗ cứu kính.
Bởi vậy sau này Đức Phật có nói pháp của Phật như ngón tay chỉ mặt trăng.
Mặt trăng là chỗ muốn chỉ cho mọi người, mà nếu làm thinh không dùng phương tiện làm sao mà biết, nên buộc lòng phải lấy ngón tay chỉ mặt trăng.
Ngón tay chỉ mặt trăng, ngón tay là ngón tay, mặt trăng là mặt trăng, chớ không phải ngón tay là mặt trăng.
Nhưng sau này chúng ta lại lầm cho ngón tay là mặt trăng, cho nên rồi cứ bám vào chữ nghĩa mà lấy đó làm chỗ tu, mà không chịu thấy cái gì Phật muốn chỉ.
Thì đó là cái lỗi lầm mà đời sau gọi là mắc kẹt trong phương tiện mà quên chỗ cứu kính.
Như vậy thì Ngài đã vì phương tiện mà chỉ. Khi chỉ đó, tức là Ngài nói thẳng về pháp Tứ đế màTứ đế bây giờ coi như là bốn chân lý, phải không?
Bốn chân lý không thể nào khác hơn được.
Nhưng mà quý vị thấy, tôi dẫn Tứ đế:
Khi Phật nói chuyện, giảng dạy cho năm anh em ông Kiều Trần Như, thì Ngài nói thẳng Tứ đế.
Một là Khổ đế, cái đó là lẽ thực ai cũng có thể biết được hết.
Có thân thì có khổ. Phải không?
Thân này, hồi xưa hay kể, khi sanh ra khóc oa oa, là khổ, nhưng lúc đó biết gì, phải không?
Khổ là tất cả mọi người mang thân này, trong sự sống này bao nhiêu cái khó khăn.
Nói một cái rất tầm thường:
Đói quá, khổ. Cái người ta cho ăn nhiều quá cũng khổ nữa, phải không?
No quá tức bụng cũng khổ.
Còn ở địa vị cao thì sợ người ta hất mình xuống, ở địa vị thấp bị người ta đè mình.
Cuộc sống lúc nào cũng là đau khổ.
Đói là khổ, no khổ, địa vị thấp khổ, địa vị cao cũng khổ,.. phải không?
Như vậy sanh là khổ, không nghi ngờ gì nữa.
Sanh ra rồi, lớn lên, rồi tới ngày kia phải già.
Mà cái già, ai tới đó rồi cũng thấy là khổ.
Khi quý vị chưa tới nhưng thấy mấyông già đi lụm cụm, nào là ho hen, nào là thở khò khè, đi phải có người dìu, v.v.. Khổ không?
Đó là cái khổ không còn tự tại, không còn làm chủ được thân.
Có thân mà không làm chủ nó, rất là khổ.
Cho nên già là khổ.
Rồi tới bệnh. Không phải đợi già mới bệnh mà trẻ cũng bệnh.
Ai mang bệnh đều kêu la rên rỉ. Đó là khổ.
Rồi tới lúc chết giật mình giật mẩy, thở không ra, bứt rứt, đau đớn. Đó là khổ.
Như vậy, 4 tướng khổ đó không ai chối cãi được hết.
Đức Phật dùng phương tiện nói lẽ thực của cuộc đời, của con người cho mình thấy.
Như vậy thì bốn cái khổ, chúng ta đã chấp nhận rồi, thì Ngài đi qua cái gì nữa?
Có cái khổ đó là quả. Thì cái quả tự nhiên phải có nhân, phải không?
Cho nên từ quả khổ, Ngài phăng lần tới cái nhân, chỉ ra cái khổ đó không phải bỗng dưng có.
Nó từ tập nhân. Tập nhân đó là gì?
Là tham, là sân, là si, là mạn, nghi, ác kiến v.v… tất cả các loại phiền não.
Nói một cách dễ hiểu nhất, là tham.
Chúng ta có cái thân khổ nhưng muốn nó mất hay muốn nó còn?
Muốn mất hay muốn còn? Muốn còn.
Như vậy thì, chúng ta biết, ăn cao lương mỹ vị hay sanh bệnh mà muốn ăn hay hổng muốn?
Rồi những người ở thế gian đam mê nữ sắc biết bệnh hoạn mà họ có muốn đam mê không?
Tất cả cái khổ trước mắt đều vì cái thân.
Vì cái đắm mê mà lao vào trong cái khổ. Vì vậy mà tham.
Đúng ra phải nói si trước, nhưng Ngài nói tham có lí.
Bởi tham đó cho nên mới đòi hỏi, đi tìm kiếm, đi giành giựt.
Đòi hỏi, tìm kiếm, giành giựt thì tất nhiên là cái đau khổ cho mình, cho người rồi.
Mà nếu đòi hỏi, tìm kiếm bị ai chận đứng hay ngăn đón thì sao, nổi tức phải không?
Nổi tức thì tạo nghiệp.
Sân lên làm đủ thứ chuyện ác, tàn ác, hung bạo,.. đủ thứ.
Thì đó là cái khổ.
Như vậy, tham sân là cái khổ nổi dễ thấy.
Nhưng sở dĩ có tham vì gốc không biết được lẽ thật.
Không biết được lẽ thật cho nên chúng ta tham.
Ví dụ như tham ăn, chúng ta thích ăn cái gì ngon, rồi cứ tưởng tượng thấy thèm, phải không?
Nhưng bây giờ nếu chịu khó quán chiếu lại.
Cái món ăn ngon đó, ngon được bao lâu?
Thí dụ như ăn sầu riêng, nó ngon, phải không?
Nhưng hồi ngon chỉ có ở lưỡi một chút, nuốt vô khỏi cổ rồi nó mất. Nếu mà ăn hơi nhiều nhiều một chút , lát ợ ngược, ợ xuôi còn hôi nữa, phải không?
Nó có thật gì đâu.
Nó ngon có một giai đoạn nhỏ thôi, rồi những giai đoạn sau nó hết liền, phải không, thành chướng ngại nữa.
Vậy mà người ta thích không?
Thèm, cứ nói tôi thèm cái này, thèm cái kia..
Đó là tại cứ ngỡ cái ngon đó là quý.
Nhưng mà không ngờ bên cạnh cái ngon có cái không tốt trong đó.
Vì vậy mà chúng ta si mê, cứ đuổi theo những thỏa mãn tạm thời mà không thấy cái tai họa lâu dài. Đó là si, phải không?
Từ cái si đó mà mới có tham, từ cái tham đó rồi có sân.
Như vậy thì cái tham ở giữa nhưng mà nó dễ thấy, cho nên nói trước tham, sân. Còn cái si ngầm bên trong thì nó là cái gốc, nói sau.
Như vậy thì, đừng nói chi nhiều, chỉ tham sân si thôi, đó cũng là cái nhân luân hồi rồi. Tại sao?
Bởi vì tham, có thân thì tham sống, mất thân này kiếm thân khác. Đó là vì tham.
Rồi có sân thì tạo nghiệp ác, làm cho vay trả trả vay,..
Những nợ nần liên miên không dứt. Đó là nhân luân hồi.
Như vậy thì, đời này có thân, đời sau tiếp tục có thân để mà trả đền, hoặc là thân người, hoặc là thân vật, v.v..để mà trả qua trả lại.
Vì vậy mà nói nó là cái nhân để có thân này.
Như vậy thì tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… cho tới những cái tế nhị hơn trong các loại phiền não, đó là cái nhân đưa tới quả khổ.
Biết được cái nhân đó rồi, thì chúng ta thấy cái quả này không phải ngẫu nhiên, mà từ cái nhân đó.
Giờ muốn tiêu diệt cái nhân đau khổ đó thì phải làm sao?
Đó là Phật nói nếu diệt được cái nhân đau khổ thì quả khổ không còn, gọi là Diệt đế.
Nhưng muốn diệt nó không phải ngẫu nhiên diệt được, mà phải làm sao?
Nếu nói gần thì gọi là tu bát chánh đạo, phải không? Tức là Đạo đế.
Bát chánh đạo từ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,.. cho tới cuối cùng là chánh định.
Như vậy thì muốn dứt cái nhân đau khổ để không còn có cái quả đau khổ nữa thì phải tu bát chánh đạo.
Tu từ từ, từ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, v.v..tới cái chót là chánh định.
Chánh định nghĩa là sao?
Là dứt hết những mầm lăng xăng, lộn xộn trong nội tâm.
Tâm mà nó lặng, nó yên, không còn những cái mầm tưởng, nghĩ, lăng xăng nữa thì đó là chánh định.
Thì như vậy, tới chánh định tức là tới cái chỗ không còn nghĩ suy, không còn phân biệt, không còn tưởng tượng, v.v.. tất cả không còn, thì đó là trở về chánh định.
Thì như vậy, bốn đế đó, Khổ đế là cái quả thực tế chúng ta thấy.
Từ phân biệt thấy rõ cái quả rồi chúng ta phăng tới cái nhân. Rồi cái nhân đó mình biết rồi thì tìm cách diệt cái nhân đó.
Đạo đế là cái cách, là phương pháp để diệt cái nhân đau khổ.
Mà nhân đau khổ diệt hết rồi gọi là Diệt đế. Diệt đế là Niết-bàn.
Bởi vì cái nhân đau khổ diệt hết tức là đi tới chánh định. Phải không?
Chánh định rồi thì tới Niết-bàn.
Như vậy tu theo đạo Phật, chúng ta phải thấy Ngài đưa những cái phương tiện từ con người để phân tích. Rồi đi tới phân tích nội tâm.
Cái thân này là khổ, đó là cái hình tướng, rồi tìm tới cái nhân là nội tâm. Nội tâm đó tạo nên những đau khổ đó. Mà muốn diệt nó phải có phương pháp từ từ diệt.
Thì đó là phương tiện.
Cho nên cái tu phương tiện đó nó cũng có cái chứng phương tiện.
Chứng phương tiện là gì?
Nếu mà tu theo pháp Tứ đế đó thì chứng từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, rồi qua Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, rồi tới Diệt tận định. Diệt tận định đó là chỗ cuối cùng của các Quả chứng.
Còn nếu nói theo Tứ quả Thanh văn: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.
Tu-đà-hoàn còn tu được như vậy, còn bảy phen trở lại thế gian nữa mới hết sanh tử. Còn Tư-đà-hàm thì một phen nữa. Còn A-na-hàm không trở lại nhân gian, mà có thể sanh cõi trời, rồi sau nhập A-la-hán. Quả A-la-hán.
Thì như vậy cái tu chứng thứ bậc đó, để tôi nói thứ bậc theo Tứ thiền cho quý vị thấy.
Sơ thiền gọi là Ly sanh hỷ lạc. Ly là ly cái gì, là lìa ngũ dục mà được vui.
Như vậy chúng ta ở đây tu, mình không có sơ thiền, nhị thiền gì hết.
Mà khi nào mình ưa, tham đắm cái gì đó mà giờ thức tỉnh biết cái đó là hư giả, là tạm bợ, là ảo tưởng chứ không thật, cái rồi mình vui mình bỏ. Thì mình có được sơ thiền không? Đó là sơ thiền chứ gì.
Nhưng mà bên kia thì đặt thành cái mức cố định Sơ thiền là như vậy đó, là ly sanh tức là lìa được ngũ dục, tâm mình vui vẻ. Thì đó là chứng được sơ thiền.
Sơ thiền rồi sao nữa, trụ ở đó hay sao?
Bỏ sơ thiền, ráng tu nữa, tu cho đến lúc nào đó, được Nhị thiền.
Nhị thiền là gì, tức là tâm mình an định, an định mà chưa phải cứu cánh, nó được an định.
Như quý vị bây giờ có khi ngồi thiền, tâm mình nó yên, cái tự nhiên thấy vui, phải không? Tâm yên thấy vui, đó là định sanh hỷ lạc chứ gì.
Mình có triệu chứng đó mà mình không đặt nó thành một bậc. Còn bên kia, khi tâm mình được yên, nó vui lên thì đó gọi là nhị thiền, định sanh hỷ lạc.
Rồi bỏ cái đó tiến lên một bậc nữa thì tới cái gì, Tam thiền, là Ly hỷ diệu lạc.
Thấy yên yên, mình vui, mình mừng quá, nó động. Cho nên mình phải bỏ cái động đó để mình tiến lên, cái động đó nó lặn, lặn,.. rồi còn cái vui thầm thầm. Đó gọi là ly hỷ diệu lạc. Cái vui thô mất đi còn cái vui tế gọi là diệu lạc.Cũng là vui, mà vui tế thôi, nhưng nó cũng còn ở trong cái động.
Cho nên tiến lên bậc nữa thì sao, Xả niệm thanh tịnh địa, tức là buông niệm.
Niệm dấy lên buông, không có để, không có giữ thì nó được yên.
Buông niệm được yên thì đó là Xả niệm thanh tịnh.
Thì như vậy đi từng bậc, từng bậc.
Mà giờ mình bất thình nhảy vô, kêu mình làm gì?
Như vậy thì mình đi tắt ngay cái Xả niệm thanh tịnh.
Đó, quý vị biết cho rõ để tu. Chứ nhiều khi không có nói thì quý vị không biết mình tu vậy là tu theo cái cách nào, đi đường gì.
Nhưng mà cái Xả niệm thanh tịnh đó, bởi vì trong nhà Phật, Đức Phật nói tu Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, đó là bốn thiền ngoại đạo.
Đức Phật dạy tu tới Xả niệm thanh tịnh thì đi thẳng vô, thẳng vô đó rồi đi tới Diệt thọ tưởng định, nhập Niết Bàn, chứ không qua bốn cái kia. Bốn cái kia nó hơi đi quanh. Mà đi tắt thì đi đường này.
Như vậy thì từ Xả niệm thanh tịnh địa rồi đi tới chỗ Diệt thọ tưởng.
Cái thọ tưởng này tôi thấy rất là hay.
Thọ là cảm giác của 6 căn, hay là 5 căn với 5 trần, mà tưởng thì của nội tâm.
Thì như vậy, ở trong nội tâm thì lặng, ở ngoài, đối với 5 trần không dính, thì đó là Diệt thọ tưởng định. Rồi tới đó, gặp ông Tổ bên đây chưa?
Như vậy thì, ngoài không dính với 6 trần, trong không dấy niệm vọng động, thì như vậy, đó là chứng A La Hán, là vô sanh. Thì chứng A La Hán là vô sanh.
Còn bên kia, nếu mà đi quanh đó, thì hồi xưa, vì Đức Phật tu theo ngoại đạo cho nên Ngài đi quanh. Ngài đi quanh qua Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ,..
Tại sao gọi là Không vô biên xứ?
Thì người tu đó dùng cái tưởng, như mình ngồi trong cái phòng này, thì ngồi nhắm mắt mình tưởng cái phòng trống không. Từ cái trống nhỏ, nhỏ nhỏ, cái trống không, trống lần lần, lớn lớn cho tới vô cùng vô tận đều trống không hết. Đó là đạt được Không vô biên xứ.
Chứng được Không vô biên xứ, rồi bỏ cái không đó, quay lại thức, cái phân biệt của mình.
Mình biết, phân biệt không có tướng mạo, thành cái phân biệt này từ cái thân, phân biệt ở thân, phân biệt nó bủa bủa ra khắp hết vô cùng vô tận, Thức vô biên xứ.
Rồi cái tưởng thức, tưởng thân, không hết rồi, tức là Vô sở hữu xứ, không có cái gì hết. Rỗng tuếch hết không có cái gì. Nhưng mà tuy rỗng tuếch mình tưởng rỗng tuếch, thì còn cái tưởng.
Cho nên đến cái chót là Phi tưởng phi phi tưởng, nó không có tưởng, mà không phải không tưởng. Không có cái tưởng thô, tưởng không, tưởng thức, mà nó có tưởng vi tế, tưởng rỗng tuếch đó, còn tưởng nhỏ đó.
Cho nên bỏ cái đó nữa mới qua tới Diệt tận định.
Như vậy, ở đây, tôi nói lại lần nữa, chúng ta đi đường tắt một chút.
Không mắc kẹt ở Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, phải không?
Ba bậc đó chúng ta không kẹt, không để ý mà đi ngay cái Xả niệm thanh tịnh.
Mình xả niệm thanh tịnh rồi, chúng ta đi thẳng, không đi quanh qua Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ,.. đi thẳng Diệt thọ tưởng định.
Như vậy, chỉ có một bước buông niệm rồi đi tới cái chỗ Diệt thọ tưởng định.
Thì như vậy đó là tôi đối chiếu với con đường của các vị tu theo Tứ đế.
Như vậy thì trên con đường tu, chúng ta đi cấp bậc thì thấy có được cái này, thấy được cái kia. Mà thấy có được thì dễ mắc kẹt lắm. Rồi dễ có cái chấp.
Tôi bữa nay chứng được Sơ thiền rồi, phải không, thì có đắc có chứng. Vì vậy đắc chứng thì có cái tâm ngã mạn trong đó.
Vì vậy ở đây mình không có chứng gì hết. Mình thấy niệm bỏ thôi, không có chứng gì hết, phải không?
Không có gì để chấp thành cái ngã.
Rồi tới chừng nào cái niệm nó lặng được rồi, thì tất cả những cái duyên bên ngoài mình không dính, ở nội tâm mình không kẹt, không động.
Thì đó là cái gốc của sự tu.
Mà cũng không nói tới đó là chứng cái gì nữa.
Bởi vì có đắc, có chứng là cái chỗ cái ngã nó nằm trong đó.
Cái ai đắc, ai chứng? Tôi chứng, tôi đắc thì tự nhiên cái bản ngã sống dậy.
Cho nên đây mình muốn không cho cái bản ngã nó dấy động vì vậy mà tu thì cứ tu, không có đắc, có chứng.
Mà không có đắc, có chứng nghe buồn chết, phải không?
Bây giờ hỏi lại, như ở ngoài đời đi học, nếu cứ cắm đầu học hoài, học lên hết những gì người ta dạy rồi thì mình giỏi.
Nhưng mà vậy thì ta buồn, phải có tiểu học, trung học, đại học, rồi cấp này cấp kia, ham mà giành nhau học.
Thành ra hai cái nó khác nhau.
Cái kia biết rằng có tất cả những cấp bậc đó, nhưng mà người học hết những cái mà trong cấp bậc đó dạy thì cũng như người đã qua các cấp bậc đó chứ gì. Phải không?
Nhưng mà bên đây thì không có thấy mình là cái gì hết, không bị kẹt những cái giả danh làm cho mình phải sinh ngã mạn.
Thì các cấp bậc đều là giả danh thôi, chứ có gì.
Cấp bằng chỉ là tấm giấy lộn chơi, chứ có gì đâu.
Ông nào đó kí cái rồi đem cái đó để có bằng chứng làm ăn vậy thôi. Chứ nó có giá trị thực ở đâu?
Cái đầu mình kìa, cái hiểu mới là cái thực. Chứ cái đó đâu có thực.
Mà người ta ở đời lại chịu cái hình thức.
Có cái hình thức mới quyến rũ được, mới thúc giục được ta làm.
Còn cái thật, học cứ cắm đầu học hoài, dạy bao nhiêu học hết bao nhiêu, cấp nào dạy mình cũng học hết.
Học hết rồi thì mình giỏi hay dỡ, có thua ai không?
Nhưng mà mình không có cấp nào hết trơn thì người ta cười mình, nói người đó học lậu, không có cấp bằng.
Đó, thì ở đây có cái, là phương tiện đặt ra, thì phải có cấp bậc, phải không?
Cấp bậc là phương tiện. Chứ mục đích của Đức Phật không phải vậy.
Phật muốn chỉ thẳng cái chỗ cứu cánh mà Ngài thấy được.
Nhưng mà giờ có chỉ thẳng người ta cũng không biết, người ta không phấn khởi mà tu, bắt buộc phải chỉ những cái hình thức.
Rồi nói là diệt được cái này sẽ được cái quả gì, diệt cái kia được quả gì, từ từ người ta nghe người ta hăng hái người ta tu.
Đó, như vậy đó, phương tiện đó, cũng như ở đời.
Như vậy, quý vị thấy cái phương tiện đó giúp cho tất cà mọi người cố gắng để mà tiến lên.
Nhưng khi đặt phương tiện rồi, thì người ta mắc kẹt phương tiện, phải không?
Cũng như thế gian, muốn cho học giỏi đạt cấp bằng thì người ta mắc kẹt cấp bằng.
Từ mắc kẹt cấp bằng rồi cái tìm cách gian lận cho được cấp bằng, phải không?
Rồi trong khi thi tìm cách gian lận để mình đậu. Thành ra trong đó có cái tâm không được tốt.
Ở đây cũng vậy, nếu đường tu, chúng ta tu mà còn kẹt chứng đắc là chúng ta còn có cái toan tính, còn có cái trông đợi.
Như vậy còn toan tính, trông đợi thì tâm làm sao yên?
Không phải là cái chỗ cứu cánh rồi.
Cho nên đi tới cứu cánh là phải rất là thầm lặng, rất là quan tâm đến cái thật chứ không bận tâm những cái giả.
Đó là tôi nói cái phần tu chứng của Nhị thừa cho quý vị thấy như vậy.
Rồi bây giờ, trở lại vấn đề đầu là:
Khi Đức Phật thấy cái gì mà Ngài không nói được, Ngài dụ dự?
Bởi vì Ngài thấy được cái chân thật.
Mà cái chân thật đó ai cũng có hết trơn, mà rồi ai cũng quên.
Ngài tận lực tu, đến khi dẹp sạch hết được những cái mê lầm thì Ngài sáng lên, Ngài mới thấy cái thật của mình.
Mà khi thấy cái thật của mình rồi, nhìn lại ai cũng có cái đó hết, mà nói không được.
Biết ai cũng có mà nói không được, thì giờ làm sao nói?
Cho nên do dự, chần chờ, chưa muốn nói, phải làm sao đây, nói mà họ không tin.
Thí dụ bây giờ nói 1 câu nói rất là dễ mà quý vị thấy thế gian có chấp nhận được không? - Nói thân này là giả.
Bây giờ, đi ra ngoài đường, nói thân này là giả, giả..Họ cười mình không, nói chú đó điên rồi, phải không?
Mà quả thật nó giả mà nói giả họ không chịu thì làm sao nói đây?
Họ không tin mà còn nói mình điên khùng nữa, rồi làm sao, làm sao giáo hóa, làm sao dạy được? Đó là cái thật là khó.
Cho nên không nói giả, mà nói thân này là khổ, anh có khổ không?
Chỉ cho anh coi, một hai ba bốn.. cái khổ.
Chỉ một hồi thấy à có khổ, rồi mới tin. Tin rồi mới dẫn đi tới lần lần.
Bây giờ nếu nói giả. Tôi thấy thật đây mà nói giả cái gì! Rồi tự nhiên rất là khó nói.
Đó là nói cái giả, muốn nói cái hình thức đó, có thể dể chấp nhận mà còn khó chấp nhận như vậy.
Huống nữa là có một cái quá ư là thật, mà không bao giờ nói mà người ta chịu nghe.
Vì vậy mà Ngài do dự, Ngài phải chờ cho tới sau này Ngài giảng những phương tiện để cho người ta nắm bắt rồi.
Khi nắm bắt rồi, Ngài mới sợ người ta cho phương tiện đó là thật, buộc lòng Ngài phải nói cái đó là phương tiện, ngón tay chỉ mặt trăng thôi.
Đó là bộ kinh Viên Giác trở lên, chừng đó Ngài mới dám nói.
Như vậy, phải qua bao nhiêu năm trời, dẫn người ta trong phương tiện rồi mới chỉ thẳng phương tiện đó là không thật. Cái thật là chỗ này nè.
Ngón tay không phải mặt trăng. Mà muốn thấy mặt trăng chỉ nương nó thôi.
Vậy mà bây giờ người ta cũng vẫn thấy ngón tay là mặt trăng. Vậy thì đáng thương không?
Phật đã quở, đã trách, đã chỉ, mà rồi người ta vẫn không tin.
Như vậy, đến chỗ thấy căn cơ của đồ đệ có một ít người đã chín mùi rồi, cho nên trên hội Linh Sơn Đức Phật họp tất cả chư tăng lại, Ngài lên tòa ngồi, cái liền cầm cành hoa sen đưa lên.
Đưa lên, mình nói đưa lên không thì làm cho người ta khó hiểu, đưa lên rồi Ngài nhìn, nhìn qua từng người từng người coi ai hiểu điều Ngài muốn nói.
Nhìn tới ngài Ca Diếp, ngài Ca Diếp mỉm cười.
Rồi, cái cười đó, chín mùi rồi đó, đã hiểu được, đã thấm được.
Thì như vậy mới thấy sau này các Tổ thường hay dùng cái câu là dùng mắt nhìn nhau đó, nguyên văn chữ Hán là sao, tứ mục tương cố.
Dùng mắt nhìn nhau, Đức Phật nhìn chúng, nhìn tới ngài Ca Diếp.
Ngài Ca Diếp nhìn cái hoa sen của Phật, rồi thấy Đức Phật nhìn ngài, cái ngài cười.
Hai người thông cảm, tứ mục tương cố.
Như vậy thì cái tứ mục tương cố này là chỉ cái gì?
Đó là cái điều gần như bí mật, phải không? Gần như là bí mật.
Đối với nhà Thiền gọi là bí mật không thể nói được.
Nhưng mà đâu phải là cái bí mật, chẳng qua là mở miệng thì nó sai.
Mở miệng sai thành ra làm thinh hà, chớ không phải là cái bí mật.
Như vậy thì đưa hoa sen lên, gợi cho trong chúng một cái khởi chú tâm nhìn hoa sen, phải không?
Để coi Đức Phật tại sao lại đưa cái đó lên thì chú tâm nhìn cái hoa sen.
Nhìn thì Phật ngó tới họ, họ không biết gì hết, họ chỉ nhìn hoa sen thôi.
Chỉ có ngài Ca Diếp khi ngài Ca Diếp nhìn hoa sen, Phật ngó tới ngài Ca Diếp, ngài Ca Diếp thấy, chạm tới ngài cái ngài cười. Đó là thông cảm.
Như vậy mắt Phật nhìn, mắt ngài Ca Diếp nhìn, hai mắt đó gặp nhau thì hiểu nhau.
Như vậy ở hội đó, Phật muốn chỉ cái gì? Trong hội đó, Đức Phật muốn chỉ cái gì?
Đó là vấn đề hết sức sâu thẳm mà cũng hết sức giản đơn. Chỉ cái gì?
Phật nhìn ngài Ca Diếp, ngài Ca Diếp nhìn Phật cái ngài Ca Diếp cười.
Tự nhiên, Phật cũng phải cười, phải không?
Thì thấy người hiểu được mình rồi thì vui lên liền. Liền ấn chứng.
Lạ đời vậy?
Ở bên kia bảo mình, diệt hết các niệm, được cái chỗ cuối cùng là Diệt tận định đó, là diệt hết. Nhưng mà cái diệt hết đó để tâm mình an định.
Nhưng khi tâm mình an định, thì chúng ta chỉ hướng về tâm ở trong hay là tất cả cái thấy biết ở ngoài nữa ?
Nếu tâm không dấy niệm, khi nhìn thấy sự vật có dấy niệm không?
Đó, nhưng mà vì bắt làm cái việc kềm chế, cho nên nói ở trong.
Chứ sự thật, cái đó, ở trong lặng, đối cảnh cũng phải lặng.
Như vậy, ở trong lặng, đối cảnh cũng lặng, lúc này mình còn cái gì, mình có cái gì?
Quý vị ngồi năm, ba phút, không có một ý nghĩ gì hết, không có niệm nào dấy lên hết.
Lúc đó có biết không?
Biết, mà cái biết nổi nhất, cụ thể nhất là cái thấy và cái nghe, phải không?
Thấy người, thấy vật. Mình biết rõ ràng, người, vật, tiếng động.
Chim kêu mình biết. Người nói mình biết. Chuông trống mình biết.
Biết rõ hết cái nào ra cái ấy.
Nhưng mà cái biết đó, hình dáng ra sao?
Có dấy động không? Cái biết có động không?
Cái biết đó lặng im mà hằng tri giác.
Cái biết không động, cái biết cũng không có tướng, nó tướng mạo ra sao?
Rồi bây giờ nếu chúng ta khởi biết về vấn đề A, thì cái A hiện.
Khởi biết vấn đề B, cái B hiện.
Khởi nghĩ, khởi biết thì có cái bóng theo đó.
Còn cái biết được nghe, biết được thấy, có cái gì lồng trong đó không?
Chúng ta có cái bệnh vừa thấy thì phân biệt tốt xấu, vừa nghe thì phân biệt hay dở, phải không, rồi quên cái ban đầu của mình.
Quên mất cái ban đầu, chạy theo mấy cái sau đó, rồi nắm bắt mấy cái sau đó, rồi đi riết,.. điên đảo cả chùm.
Chứ còn hiện giờ ai mà không có cái thấy.
Cái thấy rõ ràng, hiện tiền. Mà thấy tức là biết, mà biết tức là tâm.
Như vậy thì chúng ta ở trong lặng được cái tâm vọng tưởng. Ở ngoài, đối duyên xúc cảnh, sáu căn chúng ta không có bị dính kẹt sáu trần.
Thấy rõ, nghe rõ mà không dính kẹt cái gì hết. Thì lúc đó ta là gì?
Chúng ta là gì?
Cái đó hết sức rõ ràng. Ai mà không có cái đó?
Nhưng bây giờ chỉ ra cái đó, có dễ không?
Thiên hạ không chịu, nói cái gì có hào quang, rồi có hoa sen trên trời, trên mây thì họ chịu.
Chứ còn nói cái thực tế như vậy, họ không chịu.
Nói họ có cái biết rõ ràng nơi mắt. Cái biết đó là cái thật của mình, họ không chịu.
Coi thường nó quá!
Chớ còn ai nhìn cây tùng mà nói cây tùng có dáng con gì, con gì đó thì chịu lắm. Rồi hướng dẫn muốn uốn phải làm sao, thì mình chịu.
Chứ còn nói cây tùng là cây tùng, họ không chịu.
Đó là những điều tôi chỉ cho quý vị thấy. Trong nhà thiền sử dụng cái này rất là nhiều.
Mà người học, người nghe, cứ học, nghe rồi mà vẫn không biết gì hết.
Bởi vì mình đã có sẵn cái biết ở mắt. Thấy tất cả.
Thấy tất cả là biết tất cả. Mà mình không nhận cái biết đó.
Lúc nào cũng thông qua nó, nó vừa thấy cái thì liền chạy theo các thứ khác, cái thứ 2, thứ 3, thứ 4,..chứ không dừng ở chỗ cái thấy.
Cho nên rồi chúng ta cứ như vậy mà điên đảo.
Như vậy thì ở ngay chỗ ngài Ca Diếp trong hội Linh Sơn, Đức Phật muốn chỉ cái gì?
Là cái mà Ngài ấp ủ từ trước tới giờ.
Là chỉ mình có cái tâm hiện tiền, chân thật đầy đủ mà mình quên, đó là tánh thấy. Phải không?
Như vậy thời của Phật, Phật thấy cái đó là cái biết. Mọi người đều có tánh thấy, tánh nghe, tánh biết như vậy mà mình không nhận nó, mà mình chạy theo những cái khác không.
Nên rồi muốn chỉ mà làm sao chỉ được. Cho nên phải nói quanh, nói co đủ thứ phương tiện.
Bây giờ tới đây, Ngài muốn chỉ thẳng, mà muốn chỉ thẳng thì không có lời để nói, chỉ đưa lên, mà đưa lên cốt để người ta thấy, phải không?
Mà thấy mà Phật nhìn, họ ngẩn ngơ thì tất nhiên là thấy mà không biết gì hết.
Tới ngài Ca Diếp nhìn nó cái ngài cười tức là ngài biết, ngài biết cái chỗ Đức Phật muốn chỉ. Thì đó là ngài ngộ, rồi Đức Phật liền ấn chứng.
Qua câu chuyện đó thì quý vị thấy, Đức Phật đã cố gắng chỉ chứ không phải thường.
Mà trong hội bao nhiêu người, chỉ một người lĩnh hội được, còn bao nhiêu người nhớ trong kinh thôi, phải không, hiểu theo kinh thôi.
Bài kinh này nói vầy, bài kinh kia nói thế kia, nói vậy là hay chỗ nào nào.. Chứ không nhận ra được cái thực của mình, mà Đức Phật muốn chỉ.
Như vậy bao nhiêu năm trời dùng phương tiện mà tới đó cũng chưa được phân nửa chúng hiểu, chỉ có một người. Rồi thì Đức Phật ấn chứng.
Ta có chánh pháp nhãn tạng.. , nhãn tạng là con mắt chứ gì, phải không?
Cái đó là Niết Bàn, diệu tâm của mình, đâu có gì lạ.
Bây giờ ngài Ca Diếp nhận được cái đó rồi, Đức Phật phó chúc cho ngài Ca Diếp.
Như vậy, rất là rõ ràng.
Ngài Ca Diếp, ngài được cái đó rồi. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, một hôm ngài A nan mới hỏi:
- Thưa sư huynh, khi Đức Thế Tôn truyền y kim lang cho sư huynh đó, ngoài ra còn có truyền cái gì khác?
Ngài A nan không hiểu, không hiểu tại sao mà được truyền cái y, có truyền gì khác nữa không.
Thi ngài Ca Diếp làm sao, kêu: - A-nan.
Ngài A-nan: - Dạ.
- Cây phướn trước cửa chùa ngã.
Mà dòm thấy có ngã gì đâu.
Như vậy mới biết rằng cái trọng tâm là cái vừa kêu liền ứng thinh dạ.
Cái biết từ lỗ tai không có suy nghĩ, nghe kêu là lên tiếng liền.
Thì như vậy có cái biết không đợi suy nghĩ, cái biết sẵn ở tai. Cái đó là cái Đức Phật truyền cho ngài.
Ngay đó ngài A-nan liền nhận được. Nhận được thì từ đó được kế thừa.
Thì quý vị thấy, người xưa có cố tình giấu giếm mình đâu.
Không dấu mà nói không được. Nếu nói cái gì thì cũng trật hết trơn, chỉ còn cái thuật kêu.
Mà khi kêu: “A-nan!” thì ứng thinh “Dạ” liền, khỏi suy nghĩ, phải không?
Như vậy thì cái biết nghe sẵn ở tai, không đợi suy nghĩ. Cũng như cái thấy sẵn ở mắt không đợi suy nghĩ.
Thì như vậy đó, cái đó hiện tiền ở sáu căn, mà mình không biết.
Mình cứ, nghe thì chờ coi tiếng gì hay, tiếng gì dỡ, rồi sanh ra vui buồn, phải không?
Cứ như vậy mà đi vào trong cái mê hồn trận, không ra khỏi.
Nói cái đó là để đánh thức mình hết sức là mạnh, hết sức là cụ thể, mà mình cũng không biết.
Như vậy thì quý vị thấy, từ Đức Phật tới Tổ Ca Diếp chỉ, có khác không?
Nếu khác thì ở mắt và ở tai thôi, phải không? Chứ không có hai pháp.
Cố chỉ cái đó, mà cái đó mới là cái biết thật của mình.
Còn cái biết hơn thua, phải quấy là cái biết của thế gian nhồi vào đầu mình, phải không, chứ đâu phải thực. Còn cái biết thực của mình nó sẵn như vậy đó.
Mà biết cái kia là biết qua bóng dáng, còn cái này là cái biết trực tiếp không có hình ảnh gì hết. Đó là cái chỗ thiết yếu từ Đức Phật tới Tổ.
Như vậy chỉ “cái đó” nó gần hay nó xa, nó có huyền bí gì không?
Chỉ một cái thực tế sẵn, mà không thể tưởng, không ai dám nhận “cái đó” của mình hết.
Cứ nghe mà tưởng như nói chuyện trên trời trên mây, không ngờ rằng Tổ đang chỉ mình.
Như vậy, mới thấy cái giai đoạn đầu từ Phật tới Tổ.
Qua giai đoạn kế tôi nói sang các Tổ sau này cho quý vị thấy, đi quanh đi co rồi cũng trở về chỗ đó.
Giờ nói tới các Tổ tiếp theo. Vị Tổ thứ ba là Tổ Tăng Xán, ngài có làm bài “Tín tâm minh”, mở đầu thế này:
Đại đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch.
Một câu đó thôi là đã nói hết rồi.
Chữ Đạo ở đây là lấy từ của bên Lão giáo. Lão giáo nói đạo là chỗ không còn ngôn thuyết, không còn nói năng, là chỗ chân lý tuyệt đối.
Như vậy, cái chân lý cuối cùng của chúng ta gọi là đại đạo.
Mà đại đạo không khó, mà chỉ khó tại giản trạch. Phân biệt, giảng trạch là khó thôi.
Cứ nghe gọi, trực tiếp trả lời. Đưa cái gì lên, trực tiếp thấy. Thì đó là đại đạo rồi.
Còn bước qua cái thứ hai, suy nghĩ, thì mất đại đạo.
Quý vị thấy đại đạo chưa?
Bởi vậy có người hỏi ngài Triệu Châu:
- Thế nào là đại đạo?
- Con đường cái.
Đại đạo là ở ngay trước mắt, không chịu mà lại hỏi, thì tức nhiên là phải chỉ đường cái ngoài kia.
Đó là cái lầm lẫn.
Mà rồi người sau cứ như vậy mà mò, mò không ra.
Đó là Tổ Tăng Xán, Tổ thứ ba. Đến ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền:
- Thế nào là đạo?
Thì Ngài nói: - Bình thường tâm thị đạo.
Tức là cái tâm bình thường đó là đạo. Mà tâm sao gọi là tâm bình thường?
Bây giờ hỏi tất cả quý vị ở đây, quý vị có cái tâm bình thường không?
Có không? - Có mà không biết biết giữ nó không.
Có thì có thiệt, nhưng mà không biết có giữ nó không.
Vừa thoáng qua cái nó mất, thoáng qua cái, mất.
Cho nên tâm bình thường là tâm gì?
Là tâm không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy… tất cả cái nghĩ hai bên đều không có, không nghĩ tất cả đối đãi đó, là tâm bình thường.
Như vậy thì quý vị hiện giờ có cái tâm đó không?
Có, chắc ai cũng thừa nhận có mà sống được với nó hay không?
Có mà sống được hay không? - Có mà bỏ quên, có mà không màng.
Bởi vậy tôi nói chúng ta là những kẻ phủ phàng, rất là tệ bạc.
Phũ phàng ai? - Phũ phàng mình. Phải không?
Mình phũ phàng mình rồi xách gói đầu này học đạo đầu kia, kiếm đủ thứ hết, cầu khẩn lạy lục.
Đi muốn kém bàn chân, lạy muốn u cái đầu, mà tìm không ra.
Mà chính cái đó là cái mình sẵn có, mà không chịu, cứ chạy đầu này kiếm, chạy đầu kia tìm.
Nghe chỗ nào linh thiêng thì chạy lại tìm.
Mà rốt cuộc cái mình sẵn mà mình lại bỏ quên. Không phũ phàng là gì?
Chúng ta có cái thật, hết sức là giản đơn mà mình không chịu.
Như vậy thì bây giờ, hỏi chứ, mình tu cho đáo để tới cái chỗ Diệt tận định, tức là tâm bình thường rồi, không còn niệm gì nữa là bình thường rồi, thì đó là vô sanh, đó là đạo.
Mà cái đó đương có sẵn ở đây. Mà mình không chịu để nó bình thường. Mình cứ cho nó nhảy thôi là nhảy.
Đó, thì quý vị mới thấy chúng ta thật là điên đảo.
Phật nói điên đảo là chỗ đó. Cái có sẵn, cái quý vô cùng, mà mình không chịu nhận, không chịu biết. Cứ chạy đầu này tìm, chạy đầu kia kiếm.
Kiếm đáo để rồi ngồi, ngồi đó, muốn tu mà không biết tu làm sao?
“Bình thường tâm thị đạo.” Tâm bình thường thôi!
Nên nhiều khi tôi nói quý vị thấy dường như là mình cợt chơi mà nó có ý nghĩa vô cùng.
Thường thường thấy người điên, mình nói người đó sao: bất bình thường. Phải không?
Bất bình thường là người điên.
Giờ tâm mình bình thường mà mình khởi nghĩ là sang cái bất bình thường. Như vậy mình điên không?
Bởi vậy Phật nói mình điên đảo.
Nhưng mình đâu chịu mình điên đảo, cứ tưởng mình khôn.
Rõ ràng, đang bình thường, bỗng dấy lên, chạy tứ tung, rồi lại kềm đè. Khổ chưa?
Mình tu mà không chịu sống với cái bình thường, nên trở thành điên đảo.
Mình điên đảo thì Phật nói điên đảo, tức là điên, lộn ngược.
Cái thực đang có mà không chịu nhận, rồi chạy đi kiếm tìm này, tìm kia đáo để.
Cái thật đó Phật đã chỉ rõ ràng. “Tâm bình thường là đạo.”
Mà giờ mình đi tìm cuốn kinh này, quyển luận kia mình đọc.
Đọc đau cả đầu, suy nghĩ đã đời, đạo có chưa?
Đọc hết ba tạng kinh rốt cuộc thì mình sao?
Mình chỉ dính trong đầu thêm nhiều quá, phải không? - Chứ không được cái bình thường.
Như vậy, tâm bình thường là đạo, hết sức là đơn giản.
Mà cái bình thường đó ai mà không có nhưng mà tại chúng ta muốn phi thường không hà, phải không?
Phi thường nghe oai, thành ra bất bình thường. Nghe coi bộ điên quá.
Như vậy chúng ta sống mà muốn sống theo cái bất bình thường, chứ không chịu sống với cái bình thường.
Như vậy cái tâm bình thường là tâm không nghĩ phải quấy, hơn thua, tốt xấu gì hết.
Lặng yên thấy biết, nghe biết, đói biết, no biết, tất cả xúc chạm rõ biết.
Khỏi cần biểu ngồi thiền 2 giờ, 3 giờ gì nữa hết.
Quý vị cứ ngồi, ngồi nhổ cỏ chơi vậy thôi.
Nhưng mà chưa bình thường phải ngồi thiền.
Ai chưa bình thường thì bắt buộc phải ngồi thiền.
Còn bình thường rồi thì khỏi ngồi thiền.
Như vậy thì Tổ muốn chỉ cho mình thấy thiền là tất cả chỗ gọi là vô tâm đó.
Vô tâm tức là không có tâm chạy theo chứ mà có cái tâm bình thường.
Tâm bình thường gọi là vô tâm vì không có tâm nghĩ như mình nghĩ.
Mình cho cái tâm là cái nghĩ suy, phân biệt.
Mà tâm bình thường là không nghĩ suy, phân biệt. Không nghĩ suy, không phân biệt cho nên gọi là vô tâm.
Cho nên nói tất cả chỗ vô tâm, phải không?
Mà tất cả vô tâm thì tất cả chỗ là đạo.
Như vậy tâm bình thường là đạo, mình đi đứng nằm ngồi đều là đạo hết trơn.
Còn giờ mình đi đứng nằm ngồi có khi chạy lên cõi trời, có khi chui xuống địa ngục tứ tung hết trơn; có khi làm thánh làm hiền, có khi làm kẻ trộm, tướng cướp,..đủ thứ chuyện hết.
Vì vậy mà không đi trong lục đạo sao được.
Như vậy tâm bình thường là không chạy, không dính, không kẹt bên nào hết, mà cái tâm đó có tạo nghiệp không?
Nếu tâm bình thường có tạo nghiệp không? Đâu có tạo nghiệp.
Mà không tạo nghiệp thì làm sao mà cầu giải thoát. Phải không?
Cho nên nói: - Ai trói buộc ngươi?
- Không ai trói buộc.
- Vậy cầu giải thoát làm gì?
Mình bình thường vậy thôi. Cầu giải thoát chi nữa cho dư.
Đó là cái chuyện mình nghe nó lạ cái tai.
Mà quý vị xét kỹ có phải là thực tế một trăm phần trăm không.
Dạy mình cái thực tế là bỏ tâm rối loạn, lăng xăng, điên đảo đó, sống với tâm bình thường.
Mà tâm bình thường ai cũng có, ai cũng sẵn hết.
Như vậy mới thấy chủ trương, đường lối của chư Tổ dạy hết sức là cụ thể, hết sức là thực tế.
Mà rất tiếc mình bị nhiễm thuốc điên, thuốc cuồng bây giờ cho nên ngồi lại thì điên cuồng chạy tứ tung hết. Kềm chế kềm không nổi rồi than tu khó quá.
Chứ sự thật rất rõ.
Mình có cái thật như vậy rồi thì những cái lay xoay, điên đảo bỏ đi, có gì quan trọng.
Vậy mà chúng ta bám vào cái giả, quên cái thiệt, bỏ mất cái thật của chính mình.
Đó là cái chỗ mà tôi thấy ai ai nếu khéo tu thì có thể sống lại cái tâm bình thường không phải là khó.
Chỉ vì không khéo tu rồi cứ dính kẹt lời nói hay, lời nói dỡ, khoe mình đúng, khoe mình sai rồi cứ như vậy mà điên đảo.
Rồi càng điên đảo chừng nào thì cái đau khổ dày chừng nấy.
Mà khởi niệm chạy theo cái này, cái kia thì đó là mình tạo nghiệp, làm nghiệp dữ, nghiệp đủ thứ hết. Vì vậy mà có luân hồi, lục đạo.
Chúng ta sống được cái tâm bình thường này thì không cầu giải thoát tự nó là giải thoát, bởi vì không tạo nghiệp.
Bây giờ quí vị thử một ngày sống với tâm bình thường coi tạo nghiệp gì ?
Có tạo nghiệp gì không?
Giả sử đi lỡ dẫm chết con kiến trong bãi cũng không sao, không bị nghiệp. Tại sao?
Bởi vì nghiệp là do ý niệm dấy lên.Ý niệm xấu, muốn hại, rồi miệng nói thân làm.
Còn cái này thân làm thì thân mình đi nhưng mà tâm mình không có dấy.
Mà nghiệp thành là phải do tâm dấy.
Nói chỗ này tôi đi xa một chút, gọi là nhớ đâu nói đó, tôi nói.
Sơ Tổ Trúc Lâm có cái hết sức là kì đặc.
Sơ Tổ khi đang làm vua, là một người hiểu Phật pháp sâu, thâm nhập được đạo lý Thiền. Mà lại là vua, có giặc đến thì giờ phải làm sao?
Mà tội sát sinh là tội đầu trong ngũ giới. Bây giờ nếu mà mình ra lệnh đi đánh giặc thì tức là biểu người ta giết, phạm tội sát sinh, mình giết, dạy người giết.
Vậy phải làm sao đây?
Đó là chỗ mà tôi thấy rất lí thú mà chúng ta nhiều khi không để ý đến.
Cho nên ngài mới nghĩ bây giờ mình là người chịu trách nhiệm với muôn dân, ra lệnh thì người ta làm.
Nhưng mình ra lệnh thì tức là mình có ý, ý sát hại thì ý nghiệp thành.
Mà ý rồi miệng, rồi thân hợp tác thì định nghiệp không thể chuyển.
Cho nên thôi bây giờ hỏi mấy ông tướng sĩ giặc đến muốn đánh hay muốn hòa. Tức là hội nghị Bình Than, hội nghị mời hết các tướng sĩ lại:
- Giặc tới muốn cướp nước mình thì chúng ta nên đánh hay nên hòa?
Thì mấy ông tướng sĩ hô lên: - Đánh.
Thì đó là lệnh của tướng sĩ bảo đánh chứ ngài đâu có ý gì.
Hỏi một cách công khai mà, nên cái này hay cái kia?
Thì tùy mấy ông à, mấy ông định sao tôi làm vậy.
Nhưng mời tướng sĩ không chưa đủ mới mời hết các bô lão trong nước lại họp hội nghị Diên Hồng, hỏi:
- Giờ giặc đến như vậy đó, chúng ta nên đánh hay nên hòa?
Thì mấy ổng nói: - Đánh.
Như vậy thì được lệnh của tướng sĩ, được lệnh của nhân dân, Ngài chỉ làm theo mệnh lệnh đó, chớ đâu phải Ngài ra lệnh. Khôn không?
Khôn tránh được định nghiệp cho mình mà lại rất là dân chủ, được người ta quí kính. Đó là cái quá ư là khéo.
Cho nên đánh giặc, giết giặc rất nhiều mà ngài không bị định nghiệp, mà ngài ngộ được làm Tổ.
Hiểu như vậy mình mới giải được.
Chứ nhiều khi người ta nói tội sát sinh là tội đầu, mà ổng cầm quân đánh giặc tức là giết biết bao nhiêu người thì ổng phải đọa địa ngục chứ làm sao mà thành Tổ được . Rồi nói sao?
Hiểu cái đó rồi mới thấy cái hay, rất là hay. Rồi tôi mới thầm thầm tôi thấy cái hay đó tôi nói để cho quý vị hiểu được.
Có ai đó khi mà bẻ nói là Phật cấm, nếu ai phạm ngũ giới phải đọa. Mà đây, giới sát sinh là giới đầu mà ngài phạm rồi đây, mà phạm chẳng những một người mà nhiều người nữa. Thì như vậy làm sao thành Tổ?
Thì mình phải dẫn cái này làm chứng.
Phạm mà không phải ý nghiệp. Mà ý nghiệp là cái gốc. Ý nghiệp không có thì cái tội đó chuyển được. Tu, cứu dân độ thế để chuyển.
Đó là cái chỗ tôi nói cho quý vị thấy.
Bởi vậy cho nên khi chúng ta nói đến cái chỗ chân thật này thì mình phải thấy rõ nó gần gũi, nó thực tế làm sao.
Bởi vậy cho nên trong nhà Thiền, có những thiền sư, đọc lâu tôi quên tên. Ngài tu cái ngài la ngài ngộ rồi. Huynh đệ giật mình chạy lại hỏi thấy cái gì mà ngộ. Trả lời: “ Nếu sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi.”
Đó, là sao?
Ở trong nhà, nhà quê có đốt đèn ở bàn thờ, mà rồi tới giờ nấu cơm thấy không có lửa, chạy đi hàng xóm xin lửa về nhúm đốt, nấu cơm trễ mất.
Lên thấy bàn thờ mình có cây đèn, nếu hồi nãy biết cây đèn là lửa, lấy đó mồi thì khỏe biết mấy, phải không?
“Nếu sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi.”
Nếu sớm biết mình có đại đạo sẵn thì sự tu hành đạt được sớm biết mấy.
Còn cái này mình cứ đi tìm Phật đâu đâu. Cho nên giờ được thức tỉnh lại thì thấy rất là muộn.
Còn một vị khác nữa nói nghe tức cười, ở giữa chúng nói: “Tôi ngộ rồi, tôi ngộ rồi”. Thì mấy người đó chạy lên bạch với hòa thượng. Hòa thượng kêu lên hỏi:
- Ông ngộ cái gì, nói nghe coi?
Nói: - Ni sư là cô gái. Ni sư là cô gái làm ra.
Thì ông hòa thượng gật đầu. Đơn giản làm sao, phải không?
Ngoài cô gái kiếm ni sư có không? Vậy thì cô gái đó là ni sư chớ ai.
Như vậy thì cái đơn giản, nó thực tế mà không ai dám nhìn, không ai dám biết, cứ tìm kiếm ở đâu đâu.
Như vậy cái thực tế đó, trước kia mình có ngờ không? Không ngờ được.
Mình khi đi tu cũng tưởng Phật đâu trên cõi Cực Lạc, ở đâu đó chớ không có tín Phật ở gần như vậy.
Bây giờ biết lại thì quá là gần.
Như vậy từ Phật tới Tổ một mạch truyền bá Thiền tông, đều chỉ thẳng cái bình thường tâm là đạo, chớ không có gì khác hết.
Như vậy thì chúng ta tu, tu cho tới chỗ cuối cùng thì chúng ta mới thấy trở về với cái bình thường đó, chứ không có cái nào khác.
Nhưng mà tại vì hiện giờ chúng ta điên đảo quá nặng, quá đậm đi. Gỡ những điên đảo đó khó.
Chớ bây giờ hỏi ngồi thiền bảo mấy chú làm gì? Bỏ điên đảo thôi.
Vừa nhớ bỏ, vừa nhớ bỏ mà bỏ hoài vẫn không hết. Tại sao bỏ không hết?
Bởi vì ngồi thiền thì bỏ, chạy ra thì thâu. Đó, dồn vô, dồn vô rồi chiều tối ngồi bỏ, bỏ cái sáng thâu.
Cứ như vậy hoài, bỏ một đời cũng không hết nữa. Bỏ cái này thâu cái khác.
Bây giờ làm sao ngồi mình bỏ được, buông được rồi ra mình cũng phải bỏ, cũng phải buông luôn.
Thì như vậy nó mới có kết quả.
Hôm qua, hôm kia đọc lời ca gọi là “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” thấy rõ ràng Tổ nói.
Nghĩa là tu mắt thì nhắm, tai bít lấp, tất cả cái gì không quan tâm hết.
Như vậy thì mới thấy là người tu muốn đến nơi đến chốn thì phải cố gắng buông xả những cái hiện tại chúng ta thấy, chúng ta nghe, không có cái gì là quan trọng.
Cái quan trọng tối thượng đó là bình thường tâm, trở lại cái tâm bình thường. Như vậy thì hỏi chứ mấy năm nay quý vị ngồi để làm gì?
Có phải là cốt trở lại tâm bình thường không?
Vậy thôi, có gì đâu, phải không?
Như vậy thì tu bao nhiêu năm, cốt trở về được cái đó.
Nhưng mà có cái khó là muốn trở về cái đó thì phải gỡ, phải bỏ hết thị phi, phải quấy, hơn thua, tốt xấu,..
Mà người ta không chịu bỏ những cái đó, nên trở về không được.
Trở vô cái nó dội, trở vô cái nó dội, phải không?
Bị mấy cái kia bắn tung ra hết.
Bởi vậy ai qua được cái đó thì trở về không khó khăn chút nào.
Cho nên cái tu thấy như là chuyện gì nó hơi huyền bí, chứ sự thật không có huyền bí gì hết. Nó thực tế như vậy.
Trở về cái thật của chính mình.
Đó là tôi dẫn các Tổ. Rồi bây giờ đây tới một câu chuyện khác.
Nãy giờ nói, mà chưa nói cái “không ngờ”.
Mà trước khi nói cái không ngờ này, bước qua tôi dẫn ý kinh Kim Cang để mai kia quý vị học.
Kinh Kim Cang tuy là dài nhưng trọng tâm không ngoài hai câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề. Ngài Tu Bồ Đề hỏi Đức Phật:
- Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao hàng phục được tâm, làm sao an trụ được tâm ấy?
Hai câu thôi, phải không?
Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao hàng phục được tâm, làm sao an trụ được tâm ấy, tức là tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ấy.
Thì trong kinh Kim Cang, Đức Phật trả lời, trả lời trước nói cách an trụ tâm. Phật dạy rằng:
- Nếu người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ mới sanh kì tâm.
Ý là người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì không nên đối với sắc sanh tâm dính mắc, không nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm vướng mắc.
Phải không có vướng mắc mà an trụ ngay chỗ đó đó.
Phải an trụ ngay cái chỗ không vướng mắc đó gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thì như vậy tức là đối với sáu trần không dính.
Không vướng mắc với sáu trần.
Rồi còn hỏi làm sao hàng phục được tâm thì Ngài bảo rằng:
- Độ tất cả chúng sanh hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng đều vào Vô dư y Niết-bàn. Độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh được diệt độ.
Thì chúng sanh hữu sắc là dấy niệm nhớ tới hình ảnh người, đó là hữu sắc. Rồi chúng sanh vô sắc là nhớ lại chuyện phải quấy.
Chuyện phải quấy là chúng sanh không có hình sắc.
Rồi tất cả những cái hữu tưởng, vô tưởng chúng sinh là những niệm ta dấy lên nhớ hình ảnh, nhớ tâm niệm, nhớ cảnh không hình ảnh, không tâm niệm v.v…tất cả những cái nhớ nghĩ đó gọi là chúng sinh hữu sắc vô sắc đều đưa vào Vô dư y Niết-bàn.
Tại vì Niết-bàn có hai: Hữu dư y và Vô dư y.
Hữu dư y là còn thân mà tâm được hoàn toàn thanh tịnh, không sanh diệt. Đó là Hữu dư y.
Vô dư y là không có thân và lặng hết mọi sanh diệt. Đó là Vô dư y.
Như vậy thì tất cả chúng sanh mà lăng xăng đó đó đưa vào chỗ Vô dư y, tức là không còn sanh diệt, không còn hình bóng gì hết.
Cho nên hồi xưa tôi cứ thắc mắc Phật bảo độ tất cả chúng sanh vào Vô dư y Niết-bàn. Mà nếu có Phật thì tôi nói:
- Bạch Đức Thế Tôn, con chưa được Niết-bàn làm sao con độ ?
Phải không? Độ tất cả chúng sanh mà mình chưa biết Niết Bàn ra sao thì làm sao độ?
Nhưng bây giờ mới thấy rõ Vô dư y Niết-bàn là chỗ không có còn niệm sanh diệt nữa, mà những niệm sanh diệt là chúng sanh, mà chúng sanh đó lặng hết, không còn sanh diệt, tức là vào Vô dư y Niết-bàn.
Bởi vì những chúng sanh đó lặn mà không có chúng sanh.
Bây giờ tâm mình lặng mình còn thấy có gì nữa không?
Không có chúng sanh được diệt độ. Cái chỗ đó thâm trầm làm sao.
Thì như vậy chúng ta tu mà muốn đến chỗ cứu kính, thì phải ở trong độ tất cả những chúng sanh của mình nó được đến Vô dư y Niết-bàn, rồi ở ngoài đối với sáu trần không dính mắc.
Thì như vậy là chúng ta được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là ở chỗ đó đó. Trong kinh Đức Phật trả lời rất là rõ.
Vì vậy ở đây, đi qua đến Tổ Huệ Năng, khi mà nghe nói tới cái chỗ đó, nhất là chỗ “ưng vô sở trụ” đó, không có dính mắc vào bất cứ sắc trần nào, thì đó là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì Ngài liền thốt lên rằng:
Không ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh.
Không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt.
Không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ.
Không ngờ tánh mình vốn không dao động.
Không ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp.
Ngài thốt luôn năm cái “không ngờ”.
Chính Ngài cũng không ngờ rằng tánh…Tánh là cái gì?
Lâu nay chúng ta hiểu chữ tánh cũng còn hơi mơ hồ.
Tánh là cái có sẵn. Cái có sẵn gọi là tánh.
Đợi duyên hợp mới có thì đó là tướng.
Như vậy thì cái tánh là cái có sẵn.
Cho nên nói các pháp duyên hợp không tự tánh, tức là không có sẵn, đợi duyên hợp mới có. Cái này nó không có sẵn, đợi hữu duyên mới có.
Thì cái không có sẵn gọi là tánh không.
Còn mình sẵn có tánh giác.
Các pháp duyên hợp mới có là không có tự tánh, còn mình sẵn có tánh giác là có tự tánh.
Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm có phẩm “Hạnh anh nhi”, đó là con nít. Nó nào nó khóc oa oa, này kia đó...
Thì kể ngày xưa học, mình cũng không hiểu sao mà nói chuyện con nít như vậy.
Nhưng bây giờ mới thấy, cái biết có sẵn đó, lọt lòng mẹ là có biết rồi.
Biết khóc oa oa là biết, phải không? Rồi biết bò, biết đi,.. biết hết, chứ đâu đợi dạy mới biết.
Cái biết đó có sẵn cho nên gọi là tánh.
Như vậy, có người nào khi cha mẹ sanh, lọt lòng ra mà có khóc oa oa không? Có người nào hổng biết khóc không?
Biết khóc oa oa, rồi biết đòi bú, rồi biết bò, biết đi..
Thì như vậy có sẵn cái biết, những cái đó cha mẹ không có dạy.
Như vậy thì chúng ta sẵn có cái biết từ ở đâu đó mang đến, chứ nó không phải mới.
Thì cái biết đó ai cũng có sẵn cho nên gọi là cái tánh giác.
Cái tánh giác ai cũng có sẵn hết.
Mà không ngờ bây giờ mình mới thấy cái tánh nó tự thanh tịnh.
Bây giờ khi chúng ta sống với tâm bình thường đó thì thấy tâm thanh tịnh không?
Bình thường thì nó không động, phải không?
Bình thường thì nó trong sạch, không có hơn thua làm gì có phiền não.
Cho nên tâm bình thường là tâm thanh tịnh.
Như vậy không ngờ mình lâu nay đã có sẵn tâm thanh tịnh.
Đó là cái “không ngờ” thứ nhất.
- “Không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt.”
Vì tâm đó đâu có khởi niệm, mà không khởi niệm thì có gì sanh diệt.
Quý vị thấy mình có cái đó không?
Không khởi niệm là không sanh diệt.
Thì mình không ngờ mình đã có sẵn cái không sanh diệt rồi.
Đó, rồi không ngờ cái thứ ba nữa:
- “Không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ.”
Như vậy mình có sẵn từ hồi bé tới bây giờ, chớ đâu phải mới có đây.
Mình tự đầy đủ rồi mà đó giờ không biết.
Đó là “Không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ.” Rồi:
“Không ngờ tánh mình vốn không dao động.”
Thì cái tánh đó đâu có dao động gì, đâu có nghĩ suy gì.
Thì như vậy mình đã có sẵn cái không dao động rồi.
Rồi:
“Không ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp.”
Từ cái không dao động, không nghĩ suy, nó lại hay sanh ra muôn pháp.
Cho nên gọi là Chân không mà Diệu hữu đó.
Không có một cái gì mà nó sanh tất cả.
Như vậy ở trên tôi đã nói chủ đề sao:
“Phật giáo Thiền tông thực tế, nói đủ là, đến nổi không thể ngờ!”
Phải không?
Chính Tổ khi thấy được cái đó cũng không ngờ, rồi la lên tới năm lần như vậy đó.
Còn mình hồi đó giờ có mà mình hổng biết.
Nếu ngày nào mình biết chắc mình cũng “không ngờ” nữa, phải không?
Không ngờ mình có sẵn. Không ngờ như vậy.
Như vậy thì cái đó là cái sẵn muôn đời, tự có mà mình lại không ngờ.
Như vậy thì Thiền tông dạy mình tu kiếm cái gì? Kiếm cái gì?
Nếu mà về Cực Lạc mình không có đòi về, phải không?
Như vậy kiếm cái gì?
Thì chỉ là trở lại cái thực của chính mình.
Mà trở lại cái thực của chính mình thì nó thực tế vô cùng.
Mà cái đó chứng minh là có từ thuở bé tới giờ. Phải không?
Chứ đâu phải ai dạy.
Thí dụ bây giờ mình học triết lí, mình học khoa học này kia.. đó là cái người ta dạy chứ không phải cái sẵn. Thì cái đó là duyên hợp rồi, phải không? Nhồi mới biết.
Còn cái này nó sẵn có từ thuở nào mà bỏ quên.
Như vậy thì có người nào sinh ra mà không biết khóc, không biết bò, không biết đi không?
Thì ai cũng có cái đó, thì ai cũng sẵn tánh giác rồi.
Có sẵn tánh giác mà không chịu trở về, rồi chạy đi theo thế gian, theo dòng đời.
Tính hơn tính thua, tính phải tính quấy, học đủ thứ lộn xộn.
Rồi bây giờ sống với cái lộn xộn, lăng xăng trong đầu đó, quên mất tiêu cái thực của mình.
Chừng chỉ cho thấy được cái thực, liền mới biết không ngờ mình có cái đó.
Phải không? Mà cái đó là cái sẵn muôn đời.
Thì như vậy mới thấy Thiền tông là một cái hướng dạy chúng ta trở lại cái thực sẵn của chính mình.
Chứ không phải ở đâu đâu, không phải tìm kiếm ở nơi nào!
Không phải đợi ông bồ tát, ông La hán nào dạy mới có cái đó. Phải không?
Chính nó đang có, mà chúng ta quên.
Có mà bỏ quên, để đi xin, đi tìm chỗ khác, thì gọi chúng ta là người gì?
Người gì? Nói một câu cho chính xác coi. Người gì?
Thì như vậy Phật mới chê mình là tại vô minh đó, gọi là không sáng hay nói cách khác là tại vì ngu si, phải không, si mê, điên đảo.
Có mà không chịu nhận để chạy tìm nơi này, nơi kia.
Vì vậy mà rồi khổ sở.
Từ cái khổ sở đó, rồi hoảng hồn mới tìm lại. Tìm lại mà không biết đâu tìm!
Chứ còn thật ra Phật, Tổ không giấu mình tí nào hết, từ trước đến giờ chỉ dạy rõ ràng.
Như vậy hệ thống Thiền tông này phát nguồn từ chỗ Đức Phật do dự không muốn nói, phải không?
Còn những hệ thống khác là phương tiện mà nói. Nhớ vậy đó.
Chỗ đó phải nắm cho thiệt vững.
Chứ còn không lại nói kinh Phật dạy vậy vậy đó..
Chính ban đầu Phật không muốn nói, nói thì người ta không hiểu.
Bởi vậy buộc lòng phải vận dụng phương tiện đưa từ thấp lên cao.
Mà phương tiện thì không phải là thật. Chỗ thật thì không có lời.
Phải không?
Vì vậy các Thiền sư tới chỗ đó hét, đánh, nạt,.. ôi đủ thứ chuyện hết, không nói một lời.
Bởi vì mở miệng thì nó hai bên, mà hai bên thì mất cái thật rồi.
Hiểu như vậy, thấy như vậy mới thấu đáo được ý nghĩa Thiền.
Như vậy để kết thúc bài nói chuyện hôm nay, thì chúng ta tu, phải tu thế nào đây?
Thì cái tu mà biết vọng không theo đó là chúng ta đi tắt một chặng, phải không?
Đi tắt một chặng là Xả niệm thanh tịnh đó, để đi tới cái chỗ vô sanh là Diệt tận định.
Nhưng mà cái đó là cái còn hơi phương tiện một chút.
Vì còn thấy vọng và còn cái biết vọng là hai cái đối đãi. Cho nên nó còn phương tiện.
Tới chỗ cứu kính thì tu bằng cách: “Trong không động, ngoài không dính.”
Trong không động là trong không khởi niệm.
Ngoài không dính là không dính sáu trần.
Ngoài không dính sáu trần, trong không động thì đó mới quả là thiền chánh thống.
Phải không? Mà giờ quý vị chịu tu thế nào?
Tâm không động, mà cứ động hoài thì làm sao? Buộc lòng phải rầy.
Cho nên biết vọng, rầy. Vì vậy cho nên có phương tiện đối đãi, có trâu có chăn đó.
Nhưng mà trâu, chăn dùng đó, là phương tiện.
Rồi cho tới trâu hết thì chăn cũng không còn. Thì đó mới tới chỗ chân thật.
Mà cái chân thật đó chưa phải là chân thật cứu kính. Nó là cái chân thật hết đối đãi.
Mà phải thấy rõ mình hiện hữu, không có vắng bóng cái tri giác của mình lúc nào hết. Mà cái tri giác đó không dấy động ở trong, không dính kẹt ở ngoài.
Sống như vậy đó là sống đúng với cái chân tánh của mình.
Đó là bài nói chuyện hôm nay. Hết chưa? Như vậy là hết tình, hết nghĩa.
Nói như vậy là hết tình hết nghĩa mà quý vị tu không được tôi cũng chịu thua. Biết nói gì nữa?
Khi mà chúng ta thấy đến nơi đến chốn rồi, mình phối hợp lại các kinh Phật, nó không có khác.
Vì phương tiện chỉ, nhưng cuối cùng rồi cũng gặp nhau thôi.
Nhưng mà có khác chút ít về hình ảnh đối đãi và không đối đãi.
Đó là cái chỗ mà chúng ta cần phải hiểu cho tường tận.
Thôi, tới đây nghỉ.
“Chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học.
Phật đạo vô thượng, thệ nguyện thành.”
Hòa thượng Thích Thanh Từ.
There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)
Bookmarks