Trang 9 trong 32 Đầu tiênĐầu tiên ... 345678910111213141519 ... Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 161 tới 180 trên 623

Ðề tài: TOPIC 02: Tôi Đang Tiếp Xúc "Những Người Trong Thế Giới Vô Hình"

  1. #161

    Mặc định

    Nguyên văn bởi CUUBAOLONG
    Kính chào Người Khăn Trắng,

    Tôi đang tìm hiểu Tôn Giáo. Đề tài “Quan Niệm Phóng Sanh Của Phật Giáo Nguyên Thủy” của Bạn rất hay. Tôi hoan hỷ trong việc làm phóng sanh và thường khuyến khích người khác phóng sanh. Bạn có nói đây là đề tài thuyết pháp của Thượng Tọa Pháp Chất, nhưng vì tôi đọc được đề tài này trên TGVH.com bởi Người Khăn Trắng, cho nên tôi xin lần lượt trình bày thiển ý và nêu 21 câu hỏi của tôi với Bạn. Mong Bạn từ bi giảng giải cho tôi.

    Tôi sẽ đặt tất cả câu hỏi, nhưng trọng tâm những câu hỏi của tôi sẽ là NÊN HAY KHÔNG NÊN TẠO PHƯỚC BẰNG PHƯƠNG TIỆN PHÓNG SANH, dựa trên Ngũ Giới mà Đức Phật Thích Ca đã thuyết dạy.


    Theo trích dẫn trong Trung Bộ Kinh – Majjhima Nikaya, bài số 60. Kinh Không Có Gì Chuyển Hướng – Apannaka Sutta, Webmaster Binhanson.com Budhasasana

    [i][i]Kinh Không Có Gì Chuyển Hướng

    “… Ở đây, này các Gia chủ, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
    Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

    Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống của các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt.

    Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.

    Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt giống; từ bỏ không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.

    Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm”
    ….

    Tôi kèm theo trích dẫn bài viết "Quan niệm về việc Phóng Sanh của Phật Giáo Nguyên Thủy"

    Tôi xin lần lượt trình bày câu hỏi:

    "Sở dĩ chúng tôi chọn đề tài này để nói, là vì xét thấy trong Tam Tạng kinh điển, Đức Phật không dạy, không khuyến khích về phước phóng sanh. Không dạy không khuyến khích tức là không có một bài kinh dạy rõ ràng"


    Câu hỏi thứ nhất:

    Có những sinh hoạt do từ quý Thầy Cô trong Phật Giáo hướng dẫn phật tử hay thập phương bá tánh làm. Từ việc tổ chức đoàn hành hương viếng chùa trong Việt Nam, ngoài Việt Nam, đến tổ chức thiện sự nơi các bịnh viện, cho các bịnh nhân, các cháu sứt môi…, nơi nhà dưỡng lão, nhà trẻ mồ côi, nhà trẻ khuyết tật, … Từ thiện sự giúp đồng bàp nghèo nơi miền quê, miền rừng núi,… đến giúp đỡ nạn nhân thiên tai, bảo lụt khắp mọi nơi… Từ những buổi cơm chay gây quỷ từ thiện, xây chùa, … đến khóa tu Bát Quan, Tham Thiền, Niệm Phật,… Từ những Đêm Đầu Đà rằm tháng Giêng, rằm tháng Tư đến Nhiễu Phật ba vòng trong lễ Dâng Y Kathina. Từ những lễ Để Bát Hội đến nghi thức Trai Tăng trong các đại lễ. Và, trong nghi thức Cầu An, Cầu Siêu, và Trai Tăng phải có dâng Tứ Vật Dụng đến Chư Tăng. Xin hỏi, tất cả những thiện sự, thiện pháp đó Đức Phật Thích Ca có dạy, có khuyến khích, và có bài kinh nào trong Tam Tạng Kinh Điển dạy rỏ về những việc trên không, thưa Bạn?


    "Vậy tại sao ngày hôm nay trong giới Phật giáo chúng ta tổ chức lễ phóng sanh?

    Thì phải nói là lễ phóng sanh hay phước phóng sanh này bắt nguồn từ bên Trung Hoa, theo truyền thống Phật giáo Bắc Tông. Người ta khuyến khích tất cả người ở thế gian trong đó có các Phật tử Bắc Tông, tổ chức làm phước bằng phương tiện này, bằng phương tiện kia, để tổ chức phóng sanh. Mục đích và động cơ để thực hiện lễ phóng sanh hay nghi thức phóng sanh ngày xưa, là đối với những nhà tu hành khi thấy một chúng sanh bị giam cầm, nhất là những loài thú, rất là đau khổ, mà loài thú bị giam cầm ngoài vấn đề đau khổ theo thông thường của chúng sanh bị tù hãm giam giữ, còn bị giết hại mất mạng v.v... Chính vì đó mà những bậc thiện nhân ngày xưa thấy tội nghiệp, thấy thương, do đó không phải là tự mình phóng sanh để giúp đỡ chúng sanh thóat khỏi sự giam hãm, thoát khỏi tù đày, thoát khỏi sự giết hại đó, và từ đó về sau đương nhiên qúi Sư, hay Thầy, hay Sư Cô khuyến khích thì các Phật tử hành theo."



    Câu hỏi thứ hai:

    Hình cột rồng quấn trong chánh điện, rồng nằm hai bên tam cấp dẫn lên chánh điện, nhang, trầm, đèn cầy, chân đèn, lư hương, bàn thờ vong linh, đại hồng chung, chuông, trống, mỏ, khánh, thường sử dụng trong chùa bắt nguồn từ đâu vậy, thưa Bạn?


    "Mục đích và động cơ để thực hiện lễ phóng sanh hay nghi thức phóng sanh ngày xưa, là đối với những nhà tu hành khi thấy một chúng sanh bị giam cầm, nhất là những loài thú, rất là đau khổ, mà loài thú bị giam cầm ngoài vấn đề đau khổ theo thông thường của chúng sanh bị tù hãm giam giữ, còn bị giết hại mất mạng v.v... Chính vì đó mà những bậc thiện nhân ngày xưa thấy tội nghiệp, thấy thương, do đó không phải là tự mình phóng sanh để giúp đỡ chúng sanh thóat khỏi sự giam hãm, thoát khỏi tù đày, thoát khỏi sự giết hại đó, và từ đó về sau đương nhiên qúi Sư, hay Thầy, hay Sư Cô khuyến khích thì các Phật tử hành theo.

    Điều đó, nếu đánh giá theo Phật giáo, thì đó là một loại phước. Thì việc nào thuộc về phước chúng ta cũng khuyến khích, cũng tán thán. Nhưng đối với Phật giáo, Đức Phật dạy các loại phước chúng ta làm, phước nào ra phước nấy, đủ loại phước mà chúng ta phải xác định là thuộc loại phước gì, mục đích để làm chi v.v...

    Thì đối với Phật giáo, việc phóng sanh Đức Phật không phải là khuyến khích theo nghĩa một pháp hành giống như bây giờ. Mà là khuyến khích hay khích lệ, Đức Phật chỉ dạy chúng ta phải giữ giới, chứ không phải dạy chúng ta phóng sanh. Bởi nếu phóng sanh thì chỉ phóng sanh có một lần thôi, và người học phóng sanh chỉ được một lần đó mà thôi, nhưng cả đời của họ về sau có thể trong hoàn cảnh nào họ sát sanh hại vật, tạo rất nhiều tội lỗi và khó vượt qua được điều đó."


    Câu hỏi thứ ba:

    Suy nghĩ, nói và làm theo một điều học thì gọi là hành. Như vậy, nếu người ngày này phóng sanh theo đúng mục đích (trong những trường hợp) phóng sanh của những bậc thiện nhân ngày xưa, như vậy là pháp học hay là pháp hành, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ tư:

    Một đoạn kinh trong bài kinh số 55. Kinh Jìvaka, Trung Bộ Kinh, Webmaster binhanson.com

    “Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: "Hãy đi và dắt con thú này đến", đó là nguyên nhân thứ nhứt, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy, khi bị dắt đi, vì bị kéo lôi nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói: "Hãy đi và giết con thú này", đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ khổ ưu, đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.”

    Bổn phận căn bản của người tại gia cư sĩ là Bố Thí -Trì Giới - Tham Thiền. Theo đoạn kinh trên, tôi hiểu việc làm phóng sanh là cho sức khỏe (lại cho một chúng sanh đang đói khát, bịnh tật, thương tích, trong lúc bị giam cẩm), là cho tự do (lại cho một chúng sanh đang sợ hãi, đau đớn, kinh khiếp, bó buộc vì bị giam cầm), là cho sanh mạng (lại cho một chúng hữu tình, hữu giác đang cận kề sự chết).. Như vậy, có thể nào xếp phóng sanh vào pháp hành Bố Thí không, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ năm:

    Đoạn kinh trong bài kinh 45. Tiểu Kinh Pháp Hành- Cùladhammasamàdàna Trung Bộ Kinh. Webmaster: binhanson.com

    "-- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại pháp hành này. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, và tương lai quả báo cũng lạc."

    Như vậy, nếu người ngày nay học phóng sanh từ những bậc thiện nhân ngày xưa để (hiện tại) hành việc phóng sanh, pháp hành này thuộc loại pháp hành nào trong bốn loại pháp hành mà Đức Phật dạy, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ sáu:

    Có một chuyện kể Phật Giáo, được lập đi lập lại, về một người giết một con dê. Người này chỉ giết một con dê thôi, mà phải đọa vào địa ngục, sau đó phải tiếp tục trả quả, dù mang thân người hay thân súc sanh, người ấy đều bị chết, bằng cách bị giết, suốt 500 kiếp (cho bằng số lông trên mình con dê). Như vậy, nếu như- chỉ một lần thôi - tôi phóng sanh một con chim, tôi có thể hóa sanh nhàn cảnh, sau đó nhiều đời, nhiều kiếp, dù mang thân người hay thân súc sanh, tôi có cơ hội được “tha chết”, hay được “cứu tử” nhiều lần (bằng với số lông trên mình con chim), phải vậy không, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ bảy:

    Lời Phật dạy: “Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống của các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình”. Như vậy, người ngày nay học mục đích của những bậc thiện nhân ngày xưa … “thấy tội nghiệp, thấy thương” chúng sanh bị giam cầm mà phóng sanh. Phóng sanh với mục đích như vậy là có cả hai - phước và giữ giới - phải không, thưa Bạn?


    "Đức Phật dạy giữ giới, bản thân chúng ta giữ giới là khuyến khích những người khác cùng giữ giới theo. Thì coi như một chúng sanh giữ giới, nguyện trọn đời giữ giới sát sanh, không sát hại sinh vật nữa, thì người đó không phải là phóng sanh có một cái mạng đó trong một đợt đó mà thôi, mà có thể phóng sanh luôn suốt cả đời suốt cả kiếp. Có thể đời này và có những đời sau. Mà không phải chỉ có một chúng sanh đó, tức là một người tu đó, không sát sanh mà họ còn khuyến khích nếu được hai người, được ba người, bốn năm người. Thì chúng ta có thể nói phóng sanh không phải là một lần giống như bây giờ qúi vị đã làm, mà có thể phóng sanh nhiều lần, có thể phóng sanh trọn đời trọn kiếp. Hay nói một cách khác là chúng ta phóng sanh luôn chứ không phải là mỗi đời mỗi kiếp như chúng ta làm phóng sanh giống như bây giờ."


    Thiển ý của tôi:

    Ngày nay nghề nghiệp nuôi mạng của con người bằng cách buôn bán thú vật rất là nhiều. Thú vật bị tước đoạt mạng sống cũng dưới nhiều hình thức. Người bán thú còn sống từ chuồng trại, người làm nghề đồ tể giết thịt, người đặt thịt sống từ lò để buôn sỉ, người đặt hàng từ người buôn sỉ đem về bán lẻ, người đặt hàng từ nguồn bán sỉ hay bán lẻ để làm thực phẩm, rồi đem bán nơi các tiệm thực phẩm, chợ, quán vĩa hè, nhà hàng … Tất cả những người ấy không may mắn được hiểu biết – theo Phật dạy - đó là Tà Mạng. Họ “đặt hàng” bao nhiêu là có chúng sanh “bị tước đoạt mạng sống bấy nhiêu”. Như vậy, người ngày nay nếu như thương mình, thương vật, có TÁC Ý PHÓNG SANH, thì hãy phóng sanh theo tinh thần chư Phật dạy: Không làm điều ác. Làm những điều lành. Giữ tâm ý trong sạch.

    1- Không làm điều ác: thì người hãy tâm niệm về Giới và có Tác Ý Tránh Xa Sự Sát Sanh.

    2- Làm điều lành: thì người hãy tâm niệm về Từ Bi, thương xót chúng sanh bị giam cầm, bị giết, hãy Tác Ý Độ Sinh, Hãy Phóng Sanh và khuyên người khác vừa Giữ Giới, vừa Phóng Sanh (y theo tác ý thiện lành của người vậy)

    3- Giữ tâm ý trong sạch: thì khi phóng sanh, người hãy ghi nhớ ba điều: “Không Thấy, Không Nghe, Không Nghi” những thú vật mà người sắp phóng sanh đó, đã vì (hành động Thân - Khẩu- Ý phóng sanh của) người mà bị giăng lưới, đặt bẫy, trói bắt, giam cầm, …. Và dĩ nhiên, người hãy tránh “đặt hàng”, tránh bất cứ nơi nào có “nuôi thú vật cho người phóng sanh đến mua”.


    "Đó là lý do chánh, Đức Phật không khuyến khích phóng sanh theo nghĩa trở thành một pháp hành, mà phóng sanh đó thuộc về một thiện pháp. Là thiện pháp thì tùy duyên lúc nào chúng ta làm được thì làm, chứ không phải là pháp hành để tu tập. Pháp hành để tu tập chính là pháp hành giữ giới, đó là phước báu rất lớn. Bởi vì nếu phóng sanh, có thể nói một tháng chúng ta phóng sanh có một ngày, nhưng giữ giới thì chúng ta giữ giới luôn cả một tháng, thậm chí có thể cả trọn đời."


    Câu hỏi thứ tám:

    Lời Đức Phật dạy cư sĩ tại gia rất nhiều, nhưng gom lại, để gọi là bổn phận của người tại gia cư sĩ, thì có ba: Bố Thí- Trì Giới – Tham Thiền. Như vậy, bố thí là thiện pháp và cũng là pháp hành của người tại gia cư sĩ phải không, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ chín:

    Lời Phật dạy bậc xuất gia cũng rất nhiều, nhưng gom lại để gọi là bổn phận của bậc xuất gia thì có ba: Giới - Định - Tuệ. Như vậy, mặc dù Giới - Định - Tuệ là Tam Học, nhưng cũng là Tam Hành phải không, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ mười:

    Theo vài đoạn kinh trong bài kinh 57. Kinh Hạnh Con Chó – Kukkuravatika Sutta. Trung Bộ Kinh. Webmaster binhanson.com

    “Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Koliya Haliddavasana là tên một thị trấn của dân chúng Koliya.

    Rồi Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, nói lời hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên, ngồi chõ hỏ như con chó. Sau khi ngồi một bên, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:

    -- Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng xuống đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?

    -- Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.

    Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:

    -- Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng dưới đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?

    -- Này Punna, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa". Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông. Ở đây, này Punna, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con chó một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các loài chó. Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: "Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên khác", thời này Punna, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Punna, nếu hạnh con chó được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
    ………

    Khi được nói vậy, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, khóc than, chảy nước mắt. Rồi Thế Tôn nói với lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó:

    -- Này Seniya, Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thồi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa".

    -- Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy không phải vì lời Thế Tôn nói về con. Nhưng vì, bạch Thế Tôn, con đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài. Bạch Thế Tôn, con có lòng tin tưởng đối với Thế Tôn: Thế Tôn có thể thuyết pháp cho con để con có thể từ bỏ hạnh con bò này và để lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, có thể bỏ hạnh con chó này.

    -- Này Punna, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

    -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

    Punna Koliyaputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

    -- Này Punna có bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là bốn? Này Punna, có nghiệp đen đưa đến quả báo đen, này Punna, có nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, này Punna, có nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng, này Punna, có nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp.

    Và này Punna, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen? Ở đây, này Punna có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ thọ, như các chúng sanh trong địa ngục. Như vậy, này Punna, là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình, và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích mình. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp đen đưa đến quả báo đen.

    Và này Punna, thế nào là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng? Ở đây, này Punna, có người làm thân hành không không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không không có tổn hại. Sau khi làm thân hành không không có tổn hại, khẩu hành không không có tổn hại, ý hành không không có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới không không có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới không không có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ không không có tổn hại, thuần nhất lạc thọ, như chư Thiên Subhakinha (Biến Tịnh thiên). Như vậy này Punna là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng.

    Và này Punna, thế nào là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng? Ở đây, này Punna, có người làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, các khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, các ý hành có tổn hại và không tổn hại. Sau khi làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, ý hành có tổn hại và không tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, có lạc thọ khổ thọ xen lẫn, như một số loài Người, một số chư Thiên và một số chúng sanh trong đọa xứ. Như vậy, này Punna là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy này Punna, được gọi là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng.
    Và này Punna, thế nào là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này Punna chỗ nào có ý chí (Cetana: Tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng. Ở đây, này Punna, chỗ nào có ý chí như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp. Này Punna, bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết.” …..


    Như vậy, nếu tôi thực hiện phóng sanh như một thiện sự, Tác ý như một hạnh của Người Giữ Giới Không Sát Sanh, tác ý như người chuyên tâm tạo thiện nghiệp từ phóng sanh. Tôi tác ý hành trì hạnh phóng sanh một cách hoàn toàn viên mãn, tác ý hành trì giới không sát sanh và tích cực phóng sanh một cách hoàn toàn viên mãn, tác ý hành trì tâm từ bi, thương xót loài vật (hoàn cảnh giam cầm của những loài vật mà tôi phóng sanh, mong chúng sống tự do, mong chúng thoát chết) một cách hoàn toàn viên mãn, tác ý hành trì phương cách phóng sanh (tránh những nơi cố ý nuôi cho người mua về phóng sanh) một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung, tôi sẽ sanh về đường Người và sẽ được trường thọ, thiểu tật, thiểu bịnh, phải không, thưa Bạn? Và, Nghiệp Phóng Sanh (với tác ý và thực hiện một cách hoàn toàn viên mãn) như vậy là Nghiệp Trắng, phải không, thưa Bạn?


    "Nếu so sánh cả hai loại phước này, phước phóng sanh chúng ta chỉ làm được trong một lúc đó mà thôi, phước đó rất là nhỏ bé, chỉ có một tiếng đồng hồ, hay nửa tiếng, hay trong giây phút nào chúng ta quyết định để thực hiện việc phóng sanh đó. Nhưng việc giữ giới khi chúng ta phát nguyện rồi, phước giữ giới đó không có nghĩa là một lần đó chúng ta có, mà có thể là nguyện giữ giới trong trọn ngày đó chúng ta sẽ được hưởng phước giữ giới trọn ngày đó. Và không phải chỉ trọn ngày đó mà có thể chúng ta đã nguyện giữ giới như năm giới, nguyện trọn đời, là phước chúng ta sẽ có trọn đời. Trừ ra khi nào bị đứt thì khi đó chúng ta thọ giới lại. Nói chung thì phước giới chúng ta sẽ có một cách liên tục cả ngày cả tháng cả năm cả đời cả kiếp, thì phước báu này nếu so sánh giữa hai loại phước thì phước phóng sanh này chỉ tích tắc mà thôi."


    Câu hỏi thứ mười một:

    Tác Ý Tạo Nghiệp. Theo tiến trình tâm, nếu thực hiện một hành động (thiện hay bất thiện) trước hoặc trong 7 sátna đầu thì, quả trổ ngay trong kiếp sống hiện tại này (và tiếp tục trổ quả trong nhiều kiếp sống tới); hoặc tùy theo những sátna kế tiếp mà trả quả dị thục trong những kiếp sống tới (kiếp này quả chưa trổ). Như vậy, khi tôi vừa trông thấy một lồng chim, chỉ tích tắc, tôi mua và thả chim ngay (trong vòng 7 sátna đầu). Quả lành này sẽ trổ đến cho tôi ngay đời sống hiện tại (nếu có bị kiện cáo cũng thoát khỏi cảnh bị tù tội, khi có bịnh thì gặp thầy giỏi thuốc hay, khi gặp nạn tai thì có người trợ giúp cho tai qua nạn khỏi, suýt chết đuối thì có người cứu, … ) và quả này sẽ còn trổ thù thắng cho tôi trong nhiều đời, nhiều kiếp luân hồi (thêm mạnh khỏe và trường thọ nữa) phải không, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ mười hai:

    Cho dù tôi cần thời gian để thực hiện một chương trình, một kế hoạch phóng sanh có dự tính trước, nhưng trong suốt thời gian đó, tôi thực hiện tác ý đầu tiên là NHỨT ĐỊNH PHÓNG SANH. Như vậy, cho dù thời gian để chuẩn bị là một ngày, một tuần, hay một tháng đi nữa, thì quả phước phóng sanh đó sẽ trổ quả đến cho tôi ngay trong kiếp sống này và cho quả lâu dài trong nhiều kiếp sống tới, phải không, thưa Bạn?


    "Nếu so sánh về kết quả về sau lại khác nữa. Người làm phước phóng sanh chưa chắc chết được sanh lên thiên đàng, chưa chắc chết mà vượt khỏi địa ngục, bởi phước đó chỉ làm trong một giây khắc ngắn ngủi, nó không đủ sức hộ trì giữ được cho người này còn tái sanh lại làm người, hay được phước sanh thiên, hay giữ người đó không tái sanh sa đoạ địa ngục."


    Câu hỏi thứ mười ba:

    Một chuyện tích Phật Giáo, mà chư tăng Nguyên Thủy thường kể, là tiền thân Đức Phật Thích Ca khi còn là Bồ Tát, Ngài đã hy sinh thân mình cứu mạng một bầy cọp. Kiếp đó Bồ Tát là mộtThái Tử. Một lần dạo chơi trong rừng, thấy một con cọp mẹ và một bầy cọp con đang đói lã, gầy gò, sắp chết dưới một vực sâu, Thái Tử quyết định dùng thịt của chính mình để cứu sống bầy cọp. Từ trên cao, Ngài phóng mình xuống trước mặt bầy cọp. Bầy cọp rón rén liếm lấy dòng máu của Ngài đang loang trên mặt đất, nhưng không dám vồ lấy thân Thái Tử. Nghĩ rằng cọp mẹ đuối sức không thể vồ giết Ngài, Thái Tử dùng cành cây tự cứa cổ mình đến tắt thở. Bấy giờ bầy cọp mới dám ăn thịt của Ngài. Thái Tử thọ hưởng quả lành này nhiều đời nhiều kiếp nơi nhàn cảnh. Như vậy, hành động bố thí sanh mạng của vị Thái Tử này, để cứu mạng bầy cọp là hành động phóng sanh phải không, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ mười bốn:

    Một câu chuyện Phật Giáo:

    Có một chiếc thuyền sắp chìm xuống biển khơi. Mọi người trên thuyền hốt hoảng, kẻ thì cầu nguyện, người thì la khóc. Có một người thiện nam đã quy y Tam Bảo và thọ trì Ngũ Giới. Người ấy lên tiếng kếu gọi tất cả hãy bình tĩnh. Người ấy nói về phước báu của Tam Quy và Ngũ Giới và khuyên mọi người hãy phát nguyện thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới, hướng tâm nương tựa vào Tam Bảo trong lúc cận kề cái chết, chớ nên hoảng sợ nữa. Người này chia mọi người thành từng nhóm và lần lượt truyền Tam Quy Ngũ Giới đến họ. Cho đến khi nhóm người cuối cùng vừa thọ Quy Giới xong thì con thuyền cũng vừa chìm xuống mặt nước. Tất cả thác sanh về cảnh giới chư thiên. Như vậy, hành động truyền quy giới của người thiện nam kia là phóng sanh, người này đã phóng sanh tất cả nạn nhân kia về trời, đã phóng sanh họ nhiều đời, nhiều kiếp phải không, thưa Bạn?


    "Phước giữ giới ngăn được bốn đường ác đạo, có thể ngăn chặn người ta không đọa địa ngục, ngạ qủi, súc sanh, atula, mà có khả năng giúp cho người ta được sanh về thiên giới. Do đó cổ đức người ta có nói câu "Ngũ giới bất tri nhân thiên lộ triệt", tức là năm giới mà không giữ thì đường người đường trời bị đóng rồi, mà đường người đường trời bị đóng tức là chúng ta phạm giới thì đương nhiên bốn đường ác đạo, đường địa ngục, đường ngã quỉ đường súc sanh, atula chúng ta sẽ bị đoạ vào.

    Do đó phước phóng sanh có thể kể thuộc loại bố thí, thuộc về bố thí mạng sống. Phước phóng sanh này không phải tự nhiên làm được, chúng ta phải bỏ tiền bỏ của mua các loài thú rồi thả chúng ra, phước này muốn làm thì đòi hỏi phải có tiền của, chúng ta không thể nào có đủ tiền mua hết tất cả chúng sanh trên thế gian để phóng sanh để chúng sanh được toàn mạng. Khi được phóng sanh rồi thì có thể chúng sanh đó còn nghiệp báo của cái sát sanh của nó phải trả, có thể vừa phóng sanh nó ra rồi có những loài thú còn cái nghiệp phải trả thì chúng sanh khác nhảy vô sẽ bắt nó giam hãm, có thể giết hại nó, hay có thể bán tiếp tục."


    Câu hỏi thứ mười lăm:

    Mạng sống là quý nhất đối với mọi loài hữu tình. Sanh Tử là trọng đại. Như vậy, tiến trình việc thực hiện phóng sanh càng khó khăn bao nhiêu thì (sau khi thực hiện rồi) phước báu càng tăng trưởng (gấp nhiều lần hơn) cho người phóng sanh phải không, thưa Bạn?


    Câu hỏi thứ mười sáu:

    Lập lại câu hỏi thứ bảy: “Lời Đức Phật dạy cư sĩ tại gia rất nhiều, nhưng gom lại, để gọi là bổn phận của người tại gia cư sĩ, thì có ba: Bố Thí- Trì Giới – Tham Thiền. Như vậy, bố thí là thiện pháp và cũng là pháp hành của người tại gia cư sĩ phải không, thưa Anh?”. Như vậy, phóng sanh là bố thí, và bố thí là pháp hành, và phóng sanh là pháp hành phải không, thưa Bạn?


    "Do đó một số người trí thức ở đời thấy điểm này sẽ phê phán: phóng sanh là tiếp tay cho người làm việc ác bất thiện. Hỏi tại sao người ta nói vậy? Bởi vì người ta nói mình mua chim rồi thả, thì nhóm nuôi chim sẽ đi bắt lại và bán lại cho người ta. Như vậy có khác nào chúng ta phóng sanh càng nhiều là chúng ta khuyến khích người đó tiếp tục bắt cho nhiều chúng sanh để bán. Bởi vì có CẦU thì đương nhiên phải có CUNG. Và chính vì đó mà thấy có nhiều điểm bất thiện, những điểm không tốt trong việc mua bán chúng sanh để phóng sanh như thế này, thành ra một số bậc trí thức phê phán chỉ trích, khuyên không nên mua theo kiểu dặn hay đặt hàng, và nhất là làm thành một cái lễ thì coi như điều đó chúng ta khuyến khích nhau, và người ta tham gia vào nghiệp bắt giữ những chúng sanh để đem bán cho chúng ta. Ở Việt Nam, chúng ta nghe có một số người nuôi thú chuyên nghiệp, chẳng hạn như loài chim chóc chẳng hạn, người ta thả nó ra rồi nó bay trở về tổ của người nuôi, và người ta bắt đem bán lại. Điều này không biết quí vị có từng nghe không? ở bên Thái Lan chúng tôi cũng nghe, về những người nuôi loài chim, họ dùng một loại ma túy pha loãng cho uống hàng ngày quen, thành ra nó có bay đi đâu cũng trở về chỗ đó, khi người ta thả rồi nó bay đã rồi cũng trở về chỗ đó ăn, đó là chim. Còn loài cá cũng vậy, họ cho ăn cũng trộn với ma túy, thả xuống sông vùng chuyên môn phóng sanh, hễ thả xuống chỗ đó nó bơi một hồi rồi cũng trở lại chỗ đó, giống như người ta nuôi là chúng sanh để cho phóng sanh. Thành ra điều này người ta thấy người ta phê phán cũng có lý."


    Câu hỏi thứ mười bảy:

    Học tập về phóng sanh mà “có người thả thì mới có người bắt, có người thả thì mới có người nuôi”, tôi thấy từa tựa như quan niệm ăn thịt cá (mà không giết) thì “có người ăn thì mới có người giết”. Chữ CẦU chữ CUNG áp dụng cho quan niệm phóng sanh này cũng từa tựa chữ CẦU chữ CUNG áp dụng vào quan niệm ăn chay, ăn mặn vậy.

    Tôi phóng sanh và tôi chỉ lấy chúng sanh trước mặt làm Đối Tượng khởi Tác Ý (của tôi). Tôi phóng sanh một bầy chim thì bầy chim là đối tượng phóng sanh trước mắt của tôi. Âm thanh tiếng chiêm chiếp và đập cánh hoảng loạn của chúng in vào nhĩ thức của tôi khiến tôi xót xa. Tôi cảm nhận nỗi lo sợ của chúng. Khi mở lồng thả chúng ra, tôi hoan hỷ nhìn chúng vỗ cánh bay. Tôi giữ niềm hoan hỷ đó. Mỗi lúc kể lại cho ai nghe về lần phóng sanh ấy, tâm tôi đều hoan hỷ. Mỗi khi nhớ lại lần phóng sanh ấy, tâm tôi đểu hoan hỷ. Tôi hoan hỷ trước trong và sau khi phóng sanh. Nghề Tà Mạng- buôn bán thú vật- của những ai kia tôi không tác ý đến. Như vậy, tôi có là người khuyến khích, là người tiếp tay với người có tác ý bất thiện (nuôi con vật cho người mua và phóng sanh) hay không, thưa Bạn?


    "Nếu chúng ta muốn thực hiện phóng sanh thì lúc nào rảnh rỗi, lúc năm khi mười hoạ, chúng ta thực hành, thì điều đó có lẽ nó không dính dáng gì tới điều này, nhưng mà tổ chức và khuyến khích theo nghĩa trở thành một phong trào thì coi chừng nó sẽ có cái tác hại, người ta lên tiếng phê phán. Qúi vị lên mạng internet xem, không phải ai cũng tán đồng việc phóng sanh của chúng ta, mà người ta còn phê phán điều đó. Mà cách phóng sanh này người ta phê phán, nếu nói rằng Đức Phật dạy thì coi chừng người ta phê phán Đức Phật là sai, Đức Phật không có dạy điều này, Đức Phật dạy chúng ta hành thiện, làm những thiện sự, chứ không dạy chúng ta phóng sanh. Đức Phật dạy chúng ta giữ giới là cấm sát sanh cho bản thân chúng ta, nếu chúng ta giữ được điều đó thì có thể nói là chúng ta đã phóng sanh trọn đời cho tất cả chúng sanh này, chúng ta không còn giết hại nó nữa. Hai nữa là chúng ta khuyến khích thành phong trào giữ giới, một người, hai người, ba người, bốn người năm người, thì việc này không có bậc trí thức nào phê phán chúng ta cả, mà không phê phán chúng ta tức là không phê phán về Đức Phật."


    Tôi xin kể một câu chuyện:

    Có một nhóm người Việt Nam, ở Houston, Hoa Kỳ chuyên tâm phóng sanh loài vật ở biển. Hàng mỗi cuối tuần, họ ra vùng biển Galveston, cách đó hơn một tiếng lái xe, tìm đến những cửa hàng, bến tàu, để mua tôm, cua, cá trong phạm vi số tiền họ có được ngày hôm ấy. Họ mang tôm cá ấy ra bờ biển, và nhẹ tay đặt chúng xuống nước, hoan hỷ nhìn chúng quảy đuôi, búng mình, bò nhanh về với biển cả bao la. Họ gửi theo chúng lời chúc phúc. Tác ý của nhóm người này, ngoài tâm từ bi, còn là để tạo phước đức hổ trợ cho việc tu tập Tham Thiền và Niệm Phật của họ. Đồng thời họ cầu phước, chú nguyện phước báu phóng sanh cho vài thành viên trong nhóm đang có những căn bịnh lạ, mà chạy thầy, chạy thuốc đều không khỏi. Vậy mà sau một thời gian phóng sanh, những bịnh ấy từ từ thuyên giảm, có người hoàn toàn lành bịnh. Tôi được biết, họ bắt đầu công việc này từ khoảng trước năm 2008. Thành viên của họ tăng lên, trong đó có người Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, …


    "Do đó nếu so sánh về phước thì chúng ta thấy về phước phóng sanh này sẽ được phước gì?

    Trước hết động cơ phóng sanh là do lòng từ bi, thì chúng ta kể đó là phước đức. Phước từ bi tội nghiệp thương chúng sanh, do phước này nhân này, đời sau chúng ta sanh ra nếu bị giam hãm bị cầm tù thì có những người thương và tội nghiệp chúng ta. Chúng ta thả chúng sanh này thì nhân nào quả nấy, chúng ta giả xử sanh làm loài thú thì nhân nào quả nấy, chúng ta chỉ hưởng được quả sẽ có những người giải thoát chúng ta khỏi sự giam cầm, khỏi tù tội, đó là chúng ta nói về nhân quả theo thông thường. Chúng ta chỉ thấy được có tới đây thôi, đó là điểm chính."


    Thiển ý của tôi:

    Một hạt lúa giống gieo trồng sẽ trổ nên một cây lúa. Một cây lúa sẽ cho nhiều hạt lúa. Mỗi hạt lúa (trên cây) ôm trong lòng nhân sanh cây lúa mới. Có một lần tôi được một người bạn cho một bụi nhỏ rau ngò gai. Tôi trồng bụi rau xuống đất. Vì ít quá nên tôi không hái rau để ăn, mà cố tình để gây giống. Bụi rau trổ hoa rồi hạt rụng. Sang năm, tôi có một đám lớn rau ngò gai xanh ngăn ngắt. Có bao giờ một hột chỉ cho một trái (hay một nhân sanh một quả), còn nhiều “quả” trổ sanh liên quan đến nhân ấy lắm! Ví dụ, một hạt bắp trổ thành một thân cây bắp, cho dù thân cây bắp chỉ cho ra 1 hoặc 2 trái bắp, bản thân một trái bắp đang mang (dính theo mình) bao nhiêu là “nhân sanh cây bắp”…


    Câu hỏi thứ mười tám:

    “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Có những đặc ân giảm án cho những tù nhân mang bản án tù chung thân, hay lãnh án tử hình. Nhân nào đã trổ quả đến cho những người được giảm án tù chung thân, những người tưởng chừng phòng giam cũng sẽ là huyệt lạnh! Nhân nào đã trổ quả đến cho những người được giảm án tử hình, những người thắt tim chờ tiếng cửa sắt khua vang, lạnh lùng, trong phòng giam mỗi buổi sáng sớm! Nhân nào trổ quả cho những người phạm tội –đáng ra phải ngồi tù- lại chỉ lãnh án tù treo! Nhân nào trổ quả cho những người phạm tội – lý khó dung, tình thông nạp- được tuyên bố trắng án! Như vậy, chỉ một Tích Tắc của Tác Ý và thực hiện phóng sanh một lần thôi, có thể nào quả phát sanh đến cho những người phạm tội, hay những tù nhân, mà tôi vừa ví dụ không, thưa Bạn?


    "Nhưng phước giữ giới là khác, phước giữ giới này nếu chúng ta phát triển thấp thì cũng là phước từ bi, từ bi này khác. Từ bi kia là tội nghiệp chúng sanh bị giam hãm cầm tù. Nhưng từ bi này là tội nghiệp chúng sanh bị sát hại, bị mình giết hại trong hiện tại và bị người khác giết hại trong hiện tại ,hoặc là kể cả tương lai, thành ra mình nguyện như thế này là có thể mình chấm dứt sự sát sanh trong tương lai cũng dựa trên lòng từ bi, giữ giới cũng là lòng từ bi. Nó khác nhau ở chỗ là phóng sanh chúng ta phải phải tiền dùng tài sản của mới thực hiện được phước đó. Còn đối với phước giữ giới thì chúng ta không cần tốn tiền tốn bạc chúng ta giữ được điều này, đó là nói theo thông thường giữ giới, phước giữ giới. So sánh giữa hai cái phước về sanh thiên, phước phóng sanh thì năm khi mười hoạ lúc nào phước mà tới bất chợt bởi chúng ta làm mong manh trong cả một đời sống chúng ta không biết làm được bao nhiêu lần, thành ra phước này bấp bênh không đủ sức giải quyết trong lúc chúng ta cận tử hấp hối lâm chung để nó có thể chận bốn đường ác đạo hay có thể giúp chúng ta sanh lên thiên giới. Do đó phước này nói một cách khác hơn, đôi khi chúng ta có phước này nhưng phước này không đủ sức để chúng ta sanh lại làm người hay không đủ sức sanh làm chư thiên, mà chúng ta bị một nghiệp ác khác, phước này không đủ sức chận nghiệp ác thì nghiệp ác kéo chúng ta sanh vào cõi thú chẳng hạn, thì chết sanh làm cõi thú chúng ta trả nghiệp ác đó, nhưng nếu chúng ta bị chúng sanh bắt bớ giam hãm cầm tù ăn thịt hay hãm hại, thì lúc bấy giờ phước phóng sanh mới giúp cho chúng ta, thì người ta mới thả chúng ta giống như chúng ta đang thả chúng sanh vậy thôi. Nhưng riêng phước giữ giới thì khác, khi chúng ta giữ giới như thế này thì phải nói là nó đủ sức chận ngang tất cả những nghiệp ác nào, tất cả những nghiệp bất thiện nào mà nó có thể khiến chúng ta đoạ bốn đường ác đạo, cái phước giữ giới mà nó mạnh như thế đó, phước giữ giới còn giúp cho chúng ta có thể sanh được về các cõi trời."


    Tôi xin kể một câu chuyện có thật: Đại ý là chính, tình tiết là phụ.

    Trước năm 1972, có một gia đình có con trai ngoài mặt trận. Một ngày, gia đình nhận tin người con tử trận (không tìm thấy xác). Đến chùa xin lễ cầu siêu, Ngài trụ trì cười nói với gia đình: Cầu an. Nó chưa có chết. Có niềm thành kính với Ngài, cho nên mọi người chờ đợi. Mấy năm sau 1975, người con trai đột ngột xuất hiện nơi ngưỡng cửa nhà. Anh kể: Trước ngày anh ra trận, anh có lên chùa xin quy y với Ngài Hòa Thượng. Ngài đã truyền Tam Quy và Ngũ Giới cho anh (theo hệ phái Theravada). Khi lâm trận nơi chiến trường, anh luôn tâm niệm “mình là người có giới”. Một lần, trông thấy một đối phương lấp ló (người đó không nhìn thấy anh), anh giơ súng lên, nhưng hạ xuống vì “tâm anh có giới”. Chiến trận ác liệt. Bom dội tứ phương. Anh cùng đồng đội vùng chạy. Mỗi khi đuối sức gục xuống thì có một lực vô hình dựng anh lên, đôi chân anh chạy như lướt trên mặt đất. Đến một ngã rẻ, đồng đội anh quẹo (bên trái), anh vừa định quẹo theo thì lực vô hình kia hất anh về bên phải. Vừa quẹo qua phải thì chân anh như vướng vào vât gì cao tới đầu gối, khiến anh té sấp người xuống đất. Vừa khi đó “Ầm”, anh còn kịp nhìn thấy xác đồng đội văng lên phía sau lưng. Anh nhìn quanh chổ anh té xuống. Không một gốc cây to. Không một bụi đất cao. Dưới chân anh chỉ là cát đá, mà hòn đá to nhất cũng chỉ bằng ngón chân mà thôi. Anh lại chạy. Lực vô hình ấy nâng đôi chân anh. Anh cứ chạy. Té xuống. Vực lên. Anh chạy tuốt qua vùng đất đối phương (mà không hay) nên anh bị bắt… Ngài Hòa Thượng dạy: Quả phước (toàn sanh mạng, thoát ngục tù, được trả tự do, và về sum họp với gia đình) này do giữ giới và do tác ý phóng sanh (tha một mạng người) của anh trong chiến trường!


    Câu hỏi thứ mười chín:

    Theo bài kinh số 27. Kinh Khởi Thế Nhân Bổn. Trường Bộ Kinh. Webmaster: binhanson.com

    "10. Này Vàsettha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển hoại. Trong khi thế giới chuyển hoại, các loại hữu tình phần lớn sanh qua cõi Abhassara (Quang Âm thiên). Ở tại đây, những loại chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài. Này Vàsettha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển thành. Trong khi thế giới này chuyển thành, một số lớn chúng sanh từ Quang Âm thiên thác sanh qua tại đây. Những chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy một thời gia khá dài.

    Tóm tắt: Thế giới chuyển hoại là do lửa, xuất phát từ sức nóng của 7 mặt trời, hạn hán, khô cạn, rồi phát cháy. Lửa cháy đến cõi Quang Âm Thiên thì dừng lại và tắt đi. Chúng sanh phần lớn được sanh qua cõi Quang Âm Thiên đó là nhờ tu tập Tứ Vô Lượng Tâm (Từ-Bi-Hỷ-Xả), và họ trở thành những chúng sanh hữu tình đầu tiên của một thế giới mới." Như vậy, Từ Bi của Tứ Vô Lượng Tâm là từ bi gì - giữa từ bi của phóng sanh và từ bi của giữ giới, - lại khiến người tu tập Từ Bi được thọ quả lành tái sanh lên Quang Âm Thiên- thưa Bạn?


    "Nói đặc biệt đây là chúng ta nói giữ giới theo nghĩa giữ giới để kiếm phước, chứ chưa phải giữ giới theo nghĩa đoạn trừ phiền não, giữ giới cao cấp hơn. Giữ giới theo cấp đoạn trừ phiền não chúng ta có thể đắc được thiền định. Trước hết nói về công năng đắc thiền định, thiền định thì chuyện này dễ dàng, người ta nói "giới năng sanh định, định năng sanh tuệ." Nhưng đặc biệt của giới nhà Phật không phải chữ năng đắc định không đâu, giữ giới của nhà Phật có khả năng đoạn trừ phiền não và có thể đắc thành quả thánh Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, Alahán. Do đó Đức Phật mới khuyến khích chúng ta giữ giới, chẳng hạn giới không sát sanh chẳng hạn, bởi chúng ta giữ giới không phải chỉ một giới không sát sanh, chúng ta còn nhiều giới khác. Nhưng ở đây chúng ta muốn nói là so sánh giữa giới không sát sanh và sự phóng sanh, hai cái khác nhau. Và hai cái phước trổ quả báo ra sao kết quả như thế nào, thì chúng ta so sánh thấy quả báo của giữ giới này trong khi giữ giới chỉ kể một giới không sát sanh mà phước thù thắng to lớn nhiều hơn đặc biệt hơn tất cả chúng sanh."


    Câu hỏi thứ hai mươi:

    Thiển ý của tôi:

    Công năng của Giới - trong phạm vi của “Giới năng sanh Định” (dù là Thiền Định hay Thiền Minh Sát)- là (trong giai đoạn đầu) khi hành giả nhắm mắt tọa thiền, thông thường ý thức làm việc nhiều, vì lẻ ấy, hành giả thường gặp “pháp cái” là Phóng Tâm khởi lên. Khi phóng tâm, thông thường hành giả “thấy” lại những việc chính mình đã làm. Những việc làm đã qua dù thiện hay bất thiện, chất chứa trong ký ức, trong cái kho “Tưởng”, trở về với hành giả, như xem lại một bộ phim. Nếu hành giả làm nhiều bất thiện, thì tâm trạo cử, hối quá phát sanh đến hành giả, khiến thân tâm hành giả cảm thấy nóng nảy, bứt rứt, ngồi không yên, nhắm mắt không yên, phóng tâm càng phóng tâm thêm,... khó chú tâm vào đề mục tham thiền. Nếu hành giả làm nhiều thiện nghiệp thì tâm hoan hỷ, thỏa thích phát sanh; hân hoan sanh, phỉ lạc sanh, làm duyên trợ hành giả chú tâm vào đề mục và từ từ vào định (theo mức độ của chú tâm và tùy theo đề mục tham thiền). Như vậy, bố thí từ phóng sanh, thiện pháp từ phóng sanh có chất chứa vào Tưởng không, thưa Bạn?


    "Và đây là lý do Đức Phật không chủ trương không thuyết giảng một đề tài một pháp nào khuyến khích làm việc phóng sanh, nhưng điều đó không có nghĩa là Đức Phật cấm làm. Đức Phật không cấm nhưng không khuyến khích. Tức là Đức Phật kể cái này là loại hành thiện, thì hành thiện này là tùy theo chúng ta muốn làm thì làm còn không làm thì điều đó không quan trọng. Không phải là chúng ta người tu hành mà không phóng sanh là chúng ta không đầy đủ phước, không đầy đủ đức để tu hành. Nói như vậy là sai, là không đúng. Bởi vì so sánh giữa hai cái, người phóng sanh và người giữ giới thì người giữ giới cao thượng, người giữ giới cả ngày cả tháng cả năm cả đời cả kiếp còn cái này phóng sanh thì lâu lâu năm mười bữa nửa tháng hay ba bốn tháng mới làm được một lần, nó không phải là cái hạnh, không phải là nguyện, không phải là pháp để tu tập, thì đó là lý do mà chúng ta thấy hai cái khác nhau. Thì trong hai cái khác nhau chúng ta đã thấy phước báu rõ ràng là phước giữ giới cao thượng qúi giá hơn. Chúng ta giữ được bản thân và khuyến khích trở thành một phong trào giữ giới thì quả thật phước báu lớn. Chúng ta đã tự mình giác ngộ và khuyến khích cho người khác giác ngộ theo trong con đường tự giác giác tha giác hành viên mãn.

    Còn nếu so sánh theo một nghĩa nữa của phóng sanh, thường thường người ta phóng sanh để cầu phước. Thì nếu nói cầu phước cũng sai. Vì nếu cầu phước thì cầu phước gì? Nếu người ta cầu phước từ bi tội nghiệp chúng sanh bị giam hãm cầm tù, thì nghĩa là nếu tôi sau này có bị giam hãm cầm tù thì xin người ta thả ra, thì thấy rõ ràng nếu làm phước với mục đích này thấy uổng công mất thì giờ, chưa gì hết mà chúng ta sợ bị đoạ bị bắt bị giam cầm tù. Bởi làm sao vậy? Người phóng sanh này họ không có pháp tu, họ không có được giữ giới không có phước giữ giới. Thì đương nhiên giống như người đời không biết làm được phước gì thì thôi làm đại phước phóng sanh cho có phước này hộ trì cho chút định. Thì nếu so sánh giữa hai phước, thì phước phóng sanh người ta chỉ hiểu theo nghĩa là thả chúng sanh để nữa chúng sanh giải thoát thôi, còn nếu mà trưởng dưỡng về lòng từ bi thì trưởng dưỡng lòng từ bi này thì có lúc đó thôi. Còn giữ giới, đã giữ giới liên tục rồi thì phước từ bi chúng ta cũng là phước liên tục, tâm từ bi chúng ta liên tục."


    Câu hỏi thứ hai mươi mốt:

    Theo quyển Kinh Tụng – Hòa Thượng Hộ Tông. Webmaster: binhanson.com

    Chư Tăng hệ phái Nguyên Thủy thường phúc chúc cho thí chủ theo hai bài kinh sau dây (chỉ xin ghi lại phần tiếng Việt):

    ANUMODANĀRAMBHAGĀTHĀ

    "Các con đường nước đầy đủ, nhứt là sông và rạch làm cho biển được đầy đủ, cũng như sự bố thí mà thí chủ đã làm trong lúc hiện tại đây, Cầu xin cho đặng kết quả đến những người đã quá vãng. Cầu xin các quả lành mà người đã mong mỏi, cho được mau thành tựu kịp thời đến người. Cầu xin những sự suy xét chơn chánh cho được tròn đủ đến người. Như trăng trong ngày Rằm. (Bằng chẳng vậy) cũng như ngọc Ma-ni chiếu sáng rỡ ràng là ngọc quý báu, có thể làm cho tất cả sự ước ao của người đều được như nguyện."

    SĀMAÑÑĀNUMODANAGĀTHĀ

    "Cầu xin cho tất cả sự rủi ro của người đều được xa lánh. Cầu xin cho tất cả tật bịnh của người đều được dứt khỏi. Sự tai hại cũng chẳng có đến cho người. Cầu xin cho người được sự an vui trường thọ. Cả 4 Pháp chúc mừng là: Sống lâu, Sắc đẹp, An vui, Sức mạnh, hằng thêm đến người, là người năng nghiêng mình lễ bái, cúng dường đến Tam-Bảo và có lòng tôn kính các bậc tu hành tinh tấn nhứt là bậc trì Giới, và bậc Trưởng lão."


    Khi tôi làm thiện pháp phóng sanh, Tác Ý là bố thí sanh mạng, Tác Ý cho tự do đến chúng sanh đang bị giam hãm, cầm tù, và tôi thành tâm cầu phước cho chính tôi. Tôi cầu xin: “Cầu xin cho tất cả hoàn cảnh giam hãm, cầm tù của tôi đều được xa lánh. Cầu xin cho tất cả hoàn cảnh bắt bớ, giam cầm của tôi đều được tránh khỏi”. Như vậy, phước phóng sanh đó sẽ thành tựu đến cho tôi - tránh xa, thoát khỏi - mọi hoàn cảnh liên quan đến bắt bớ, giam cầm, tù tội, ngay trong hiện tại và luôn đến tương lai, kiếp sống này và trong luân hồi phải không, thưa Bạn?


    "Nếu tu hạnh từ bi đúng hạnh từ bi thì lại khác. Người ta tu không phải là lâu năm khi mười hoạ hay nửa tháng nào đó người ta tu tập về hạnh từ bi, thì như vậy giữ giới sát sanh này nhiều khi người ta lại nghĩ là phóng sanh để cầu phước cho gia đình mạnh khỏe và an vui, thì chẳng qua chúng ta suy nghĩ là phước sẽ đem lại cho chúng ta những điều đó thôi, chứ chưa phải là cái chính."


    Tôi xin kể một câu chuyện có thật:

    Có một cô gái bị bịnh ngoài da, sần sùi, ngứa ngáy, cả đông y, tây y cũng không giúp gì được cho cô. Cô bị chứng bịnh này gần 20 năm, cho nên thể chất của cô yếu ớt, lại thêm mặc cảm, vừa buồn rầu, vừa u uất, chán chường. Tôi góp ý cho cô phóng sanh để cầu sự mạnh khỏe và an vui cho chính bản thân cô. Tôi nhắc nhở cô “cẩn thận” về phóng sanh. Ví dụ, ngoài việc tránh việc “vừa thả đi đã thấy người bắt lại”, còn phải lưu ý là cá nước sông thì không mang thả ra nước biển. Chim quen trong lồng thì không thả đến trời cao, … Hiểu ý tứ, cô thực hiện việc phóng sanh rất là chu đáo. Kết quả, cô tươi đẹp, mạnh khỏe, hạnh phúc, an vui.


    "Nếu mà gọi là làm phước theo nghĩa cầu lợi cầu tài có phước báu nhiều trong đời sống để giàu sang, thì phước đó không phải là phước phóng sanh, mà phước muốn cầu tài giàu sang thì ngoài vấn đề cúng dường cho Tam Bảo hay cúng dường cho Đức Phật hoặc cúng dường cho Chư Tăng thì phước này mới đúng là người cầu phước. Giả xử qúi vị muốn cầu phước để phước trổ hiện tại được giàu sang, được sung sướng, được có tiền, có của, thì không có phước nào ngoài phước cúng dường cho Tam Bảo, mà Tam Bảo cụ thể nói về Chư Tăng hiện tại, bởi việc cúng dường cho Chư Tăng hiện tại là cúng dường bằng đồ ăn, thức uống, bằng tứ sự đến cho Chư Đại Tăng, qúi vị cúng dường đúng pháp thì cầu phước có thể trổ cho qúi vị sanh ngay trong đời hiện tại, có thể trổ cho qúi vị giàu sang sung sướng có tiền có của, đạt địa vị. Ngày xưa người ta làm phước thì phải nói người ta được giàu sang thành những vị trưởng giả, giống như bây giờ trở thành những người triệu phú, trở thành những người tỷ phú, và thậm chí người ta còn đạt được những địa vị quan quyền, thậm chí địa vị vua chúa cũng vẫn còn đạt được. Đó là phước báu bố thí để cầu phước. Nếu chúng ta gọi là cầu phước thì cụ thể hơn là làm phước cúng dường đến Chư Tăng.

    Và nếu so sánh giữa hai loại phước, phước đến do phóng sanh là phước từ bi tế độ, tức là chúng ta thương hại chúng ta giúp cũng giống như làm phước cho người nghèo khổ thì hai cái phước Chư Tăng này thì chúng ta không thể nào nói chúng ta làm phước bằng từ bi bằng cái nghèo khổ được bởi Chư Tăng không phải là đối tượng thiếu phước hay đối tượng nghèo khổ để chúng ta từ bi thương hại chúng ta cho. Chư Tăng là bậc tu hành có ân đức lớn đạo đức cao thì chúng ta cúng dường đến mục đích là cúng dường cầu phước, thì chúng ta cúng dường này bằng sự tôn kính, cúng dường này cũng giống như cúng dường cha mẹ là bậc đáng tôn đáng kính. Vậy chúng ta cúng dường bằng cách như thế này thì phước tôn kính, phước quả báu cúng dường đưa đến chúng ta sẽ được quả báu tôn kính. Thì chính quả báu tôn kính này làm đúng, sở dĩ ta được phước làm vua được làm trưởng giả là nhờ ta tôn kính Chư Tăng, tôn kính đến đâu thì phước người ta được tôn kính đến đó, mà chúng ta tôn kính Chư Tăng nhất hạng thì đương nhiên chúng ta được mọi người tôn kính nhất hạng, mọi người tôn kính nhất hạng lại là chúng ta đã đứng trong địa vị của vua chúa rồi. Đó là phước báu tôn kính đến Chư Tăng đem lại bằng sự lễ vật bằng sự cúng dường. Khi chúng ta xuất tiền của để cúng dường cầu phước thì nếu cầu phước bằng cách cúng dường Chư Tăng thì chúng ta mới cầu phước giàu sang có tiền có của đem lại chúng ta. Còn chúng ta bố thí bằng cách mua chúng sanh để phóng sanh thì chúng ta muốn cầu phước này như muối bỏ sông bỏ biển chứ đừng hi vọng cầu phước nào được ngay trong hiện tại, bởi phước này không đem lại, bởi chúng sanh này nếu nói theo Đức Phật nghĩa là cho con thú một trăm lần không bằng cho người ác một lần, mà cho con thú nghĩa là phải nói rằng bất quá chúng ta chỉ hưởng được có một trăm đời trăm kiếp mà thôi, còn khi cúng dường mà cho người nghèo khổ những người lỡ đường người bịnh hoạn mà chúng ta từ bi tội nghiệp người ta cơ nhỡ hay thiếu thốn bất hạnh gì đó thì chúng ta cúng dường hay là bố thí cho họ thì phước chúng ta vẫn còn hơn con thú cả chục lần. Từ đó mà chúng ta so sánh đến cái hạng đắc thiền rồi hướng đến Tu Đà Hườn Tu Đà Hàm A Na Hàm, A La Hán, từ từ tới Chư Tăng phước báu cúng dường Chư Tăng là phước báu tối thượng để chúng ta cầu phước được.

    Do đó người nào nói rằng phóng sanh để cầu phước được có tài sản có tiền của có được may mắn có gì đó, thì chẳng qua người đó chủ trương về phóng sanh khuyến khích người ta nói vậy thôi, còn đúng hay sai thì không ai kiểm tra không ai biết. Còn nếu mà nói Đức Phật thuyết thì Đức Phật không thuyết. Thành ra chúng ta không thể nào tin những lời người ta nói phóng sanh để được giàu sang, phóng sanh được sung sướng, cái đó chẳng qua là lời của mấy vị tổ nói mà thôi chứ không phải là Đức Phật nói.

    Đó là điểm quan trọng nhất để chúng ta so sánh về từng loại phước, phóng sanh phước như thế nào, phước bố thí cúng dường như thế nào. Nếu giả xử như chúng ta muốn trưởng dưỡng lòng từ bi thì chúng ta phóng sanh cũng được, chúng ta làm phước điều đó cũng được, nhưng nếu chúng ta cầu phước thì chuyện phóng sanh này không phải là chuyện cầu phước của chúng ta, mà chúng ta cúng dường Chư Tăng là chuyện cầu phước, cúng dường Chư Tăng là chúng ta được phước cúng dường mà được thêm phước về tôn kính đem theo. Còn nếu chúng ta gọi là cầu phước theo nghĩa để chặn bốn đường ác đạo, hay để được sanh thiên, hay được phước đặc biệt quí báu về đời sau, thì phải nói nhờ phước của giữ giới đem cho chúng ta tất cả. Qúí vị chỉ phóng sanh bình thường thôi nghĩa là nghiệp ác chưa từ bỏ, cái giới qúi vị không giữ, qúi vị phạm đủ cách thì đời sau qúi vị sanh ra có thể được là mình khi nào bị cầm tù thì người ta sẽ giải thoát cho mình, còn nếu người ta không cầm tù thì phước đó không sanh không còn trổ cho chúng ta, và khi chúng ta trong lúc bị cầm tù đôi khi không phải chúng ta được may mắn có tay chân mắt mũi đầy đủ ngũ quan, bởi vì nếu chúng ta không giữ giới mà giới khiếm khuyết nó có thể sanh chúng ta đui mù tàn tật câm điếc v.v.... và chúng ta cũng sẽ bị giam hãm cũng giống như tất cả các chúng sanh khác, nhưng phước giữ giới thì sẽ đưa ngũ quan hoàn hảo cho chúng ta, chúng ta sẽ có tay chân mắt mũi không khuyến tật bộ phận nào hết, nó đem đến cho chúng ta một thân thể đầy đủ của một chúng sanh, nhất là thân thể của loài người chẳng hạn, và nó giúp cho chúng ta có thêm về trí tuệ để chúng ta được giải thóat. Còn phước phóng sanh thì bất quá phước đó là phước thông thường để cứu mạng của một chúng sanh để nuôi nấng lòng từ bi theo nghĩa người ta không biết có từ bi thôi. Chứ Phật Giáo là từ bi giữ giới, từ bi đó cao thượng hơn qúi giá hơn.

    Tuy nhiên hôm nay qúi vị làm phước phóng sanh thì chúng tôi cũng chỉ qúi vị làm cách này nữa, bây giờ mình đã làm rồi hay lỡ làm rồi hay mình đã thường làm rồi, thì thôi cũng được, bây giờ qúi vị làm phước xong qúi vị có thể nguyện như thế này, chẳng qua nó tạo duyên cho chúng ta thôi thì chúng ta nghĩ là nhờ làm phước mà phóng sanh cho chúng sanh này được thoát khỏi giam hãm thoát khỏi tù đày, thì thôi do nhờ phước báu này cho tôi nguyện cho tôi giải thoát được ngục tù tham ngục, tù sân ngục, tù si, tức là giải thoát khỏi tham sân si. Thì nếu nguyện như thế đó thì từ phước vật này nó sẽ chuyển qua thành phước trí cho qúi vị. Hay phần phước đức này chuyển qua phước trí thì nó trợ duyên phước này sẽ có một tác dụng khác không phải tác dụng phóng sanh, mà nó có tác dụng nhờ phước này đời sau chúng ta có thể giải thoát được tham sân si. Chúng sanh bây giờ bị tham sân si giam hãm, chúng ta là người đang bị nô lệ của tham sân si, ở trong ngục tù của tham sân si, nghĩa là quản lý hay hành hạ chúng ta hàng ngày, chúng ta chưa được giải thoát, chúng ta bị chịu nhiều đau khổ giống như một chúng sanh ở trong ngục tù chịu đau khổ. Như vậy thì chúng ta tác ý khéo qua thì chúng ta vẫn được phước nguyện giải thoát, nhưng phước này chẳng qua là phước phụ thuộc, hay phước trợ duyên. Giống như ngày xưa trong kinh thấy câu chuyện của một ông sa di đi đổ rác, rồi một ông Tỳ Khưu quét rác đổ rác, thì phước thông thường thôi, nhưng người ta cũng biết khéo chuyển phước này, "do phước này đời sau cho tôi có nhiều trí tuệ hay có thể tôi tu hành tôi giải thoát" v.v.... Thì người ta chuyển phước qua thành phước để giải thoát thì cũng được. Trong kinh còn kể một có một ông đi quét lá bồ đề bình thường thôi, ông nhờ quét lá này ông mới dùng tác dụng quét đó ông nguyện cho sau này ông có được trí tuệ giống như cây trổi quét sạch tham sân si này. Người ta khéo chuyển những phước vật đi qua thì người ta cũng có được lợi ích, mà phước này chỉ có trong Phật giáo dạy cho chúng ta mới được, còn nếu không có thì giống như người đời làm phước phóng sanh chẳng qua là phước thông thường của người đời chỉ có phước nhân quả tương quan trả lại cho thôi.

    Thời pháp đến đây cũng vừa phải lẽ trước khi dứt lời chúng tôi xin hồi hướng đến tất cả Chư Thiên, nhất là Chư Thiên hộ pháp Đức Trời Đế Thích Tứ Đại Thiên Vương ....."


    Và, cuối cùng:

    Tôi xin gửi ba bài kinh này đến những người cầu phước.

    Chân thành cám ơn Thượng Tọa Pháp Chất. Chân thành cám ơn Người Khăn Trắng.

    Theo quyển KINH TỤNG – Ngài Hòa Thượng Hộ Tông. Webmaster: binhanson.com

    YĀNADĀNĀNUMODANAGĀTHĀ
    KỆ TỤNG VỀ SỰ HOAN HỶ THEO VẬT THÍ

    Annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ,
    Mālā gandhaṃ vilepanaṃ,
    Seyyāvasathaṃ padīpeyyaṃ,
    Dānavatthū ime dasa.

    Cả 10 vật thí nầy là:
    1) Cơm; 2) Nước; 3) Y phục; 4) Xe, Thuyền; 5) Tràng bông; 6) Vật thơm; 7) Vật thoa; 8) Thất; 9) Chỗ ngụ; 10) Đèn đuốc.

    Annado balado hoti.

    Người thí vật thực gọi là cho sức lực.

    Vatthado hoti vaṇṇado.

    Người thí y phục gọi là cho sắc đẹp.

    Yānado sukhado hoti.

    Người thí xe thuyền gọi là cho sự an vui.

    Dīpado hoti cakkhudo.

    Người thí đèn đuốc gọi là cho mắt sáng.

    Manāpadayī labhate manāpaṃ.

    Người thí vật vừa lòng hằng được vật vừa lòng.

    Aggassa dātā labhate punaggaṃ.

    Người thí vật quý trọng hằng được vật quý trọng.

    Varassa dātā varalābhī ca hoti.

    Người thí vật đẹp hằng được vật đẹp.

    Seṭṭhandado seṭṭhamupeti ṭhānaṃ.

    Người thí chỗ quý trọng hằng đi đến nơi quý trọng.

    Aggadāyī varadāyī,
    Seṭṭhadāyī ca yo naro.

    Những người nam nữ thí vật quý, thí vật đẹp và chỗ quý trọng.

    Dighāyu yasavā hoti,
    Yattha yatthūpapajjati.

    Những người nam nữ ấy, thọ sanh đến cõi nào, hằng được trường thọ, được cao sang trong cõi ấy.

    Etena saccavajjena,
    Suvatthi hotu sabbadā,
    Arogyasukhañceva,
    Kusalañca anāmayaṃ.

    Do lời thành thật nầy. Cầu xin sự thạnh lợi, sự an vui, do không tật bịnh và tránh khỏi sự đau đớn, dễ dàng hằng phát sanh đến người.

    VIHĀRADĀNASUTTAGĀTHĀ
    KỆ TỤNG VỀ SỰ THÍ TỊNH XÁ

    Sītaṃ uṇhaṃ paṭihanti,
    Tato vāḷamigāni ca,
    Siriṃsape ca makase,
    Sisire cāpi vuṭṭhiyo.

    “Thất của Chư Tăng” công dụng để ngăn ngừa lạnh ướt, nóng nực, thú dữ, rắn nhỏ, rắn lớn, các côn trùng, các thứ muỗi và mưa.

    Tato vātātapo ghoro,
    Sañjāto paṭihaññati.

    Gió và nắng quá gắt đã phát rồi hằng dội lại, bởi nhờ nơi thất.

    Leṇatthañca sukhatthañca,
    Jhāyituṃ ca vipassituṃ,
    Vihāradānaṃ sanghassa,
    Aggaṃ buddhehi vaṇṇitaṃ.

    “Cách thí thất” mà người đã dâng cúng đến Chư Tăng, cho các Ngài nương-náu, an tâm, cho đặng thiêu hủy điều ác, và tu Pháp Minh-sát mà Chư Phật là các đấng Giáo chủ, đã có lời ngợi khen, là việc bố thí cao thượng.

    Tasmā hi paṇḍito poso,
    Sampassaṃ atthamattano.

    Cớ ấy, chư Thiện tín là người trí thức, khi được thấy rõ sự lợi ích cho mình.

    Vihāra kāraye ramme,
    Vāsayettha bahussute.

    Cần lập chùa, cất thất là nơi tiêu dao an-lạc, rồi nên thỉnh các bậc Trí tuệ đến ngụ nơi ấy.

    Tesaṃ annañca pānañca,
    Vatthasenāsanāni ca,
    Dadeyya ujubhūtesu,
    Vipasannena cetasā.

    Nên tín ngưỡng các bậc đã có thân tâm chơn chánh, và dâng cúng thêm vật thực, nước, y phục và thất cho các Ngài.

    Te tassa dhammaṃ desenti,
    Sabbadukkhāpanudanaṃ,
    Yaṃ so dhammamidhaññāya,
    Parinibbātyanāsavo.

    Người tín thí khi đã thấy và thông rõ Phật giáo, sẽ được dứt khỏi lậu phiền não và đến Niết-bàn.

    DEVATODDISSADAKKHIṆĀNUMODANAGĀTHĀ
    KỆ TỤNG ĐỂ HỒI HƯỚNG QUẢ BỐ THÍ ĐẾN CHƯ-THIÊN

    Yasmiṃ padese kappeti,
    Vāsaṃ paṇḍitajātiyo.

    Những bậc Trí tuệ được ở trong nước nào.

    Sīlavantettha bhojetvā,
    Saññate brahmacārino.

    Thường thỉnh các bậc trì giới cao thượng là bậc thu thúc, đến thọ thực trong nước.

    Yā tattha devatā āsuṃ,
    Tāsaṃ dakkhiṇamādise.

    Chư Thiên đã hội tại chỗ cúng dường, thì bậc Trí tuệ nên hồi hướng quả DAKKHIṆĀDĀNA đến Chư Thiên ấy.

    Tā pūjitā pūjayanti,
    Mānitā mānayanti naṃ.

    Chư Thiên mà bậc Trí tuệ đã cúng dường, đã tiếp rước do quả (DAKKHIṆĀDĀNA) hằng cúng dường, hằng tiếp rước bậc Trí tuệ.

    Tato naṃ anukampanti,
    Mātā puttaṃva orasaṃ.

    Bởi bậc Trí tuệ hồi hướng quả DAKKHIṆĀDĀNA đến Chư Thiên, thì Chư Thiên hộ trì lại bậc Trí tuệ, cũng như cha mẹ tiếp dẫn con đẻ vậy.

    Devānukampito poso,
    Sadā bhadrāni passati.

    Thiện tín được Chư Thiên hộ trì rồi, thì hằng thấy rõ các nghiệp lành.



    Chúc tất cả thành viên an lành!
    Trân Trọng
    CUUBAOLONG
    Last edited by CUUBAOLONG; 26-03-2012 at 06:19 PM.

  2. #162

    Mặc định

    @Nguyên Văn của Huynh Workerbee

    Kính chào huynh Cuubaolong!

    Đọc những câu hỏi vừa hỏi vừa đáp của huynh, tôi hiểu được rằng huynh là người hiểu rất sâu về Kinh, Luật và Vi Diệu Pháp.

    Tôi xin được thắc mắc 2 vấn đề trong những câu hỏi trên, nếu có thể, mong huynh từ bi giải thích:

    1. Trong câu hỏi số 10, Tác ý tạo nghiệp, huynh có nói rằng việc phóng sinh được thực hiện khẩn cấp trong 7 sát na đầu tiên thì quả sẽ trổ sanh ngay tại đời này và trong các ví dụ huynh đưa ra dường như điều đó là đúng. Nhưng thực tế, so với 1 tiến trình tâm thức dài 17 sát na, không có một hành động nào của con người chúng ta có thể ngắn được đến như vậy mà nó phải kéo dài ít nhất 1 s đồng hồ cho đến nhiều ngày, nhiều tháng hoặc nhiều năm. Vậy tôi không hiểu bằng cách nào mà hành động phóng sinh của các ví dụ huynh đưa ra có thể đưa tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na đầu tiên của 7 sát na đổng lực tâm được. Phải chăng do quá trình hành động phóng sinh kéo dài trong nhiều tiến trình tâm mà có tiến trình tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na đầu tiên của 7 sát na đổng lực, trong khi tiến trình khác thì tác ý tạo nghiệp lại rơi vào sát na thứ 7, và tiến trình khác nữa thì tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na thứ 2 đến thứ 6 trong 7 sát na đổng lực? Tức là quả dị thục sẽ trổ sinh ngay trong đời này, đời sau và vô định kiếp về sau?


    2. Huynh nói rằng phước báu giữ 5 giới sẽ ngăn việc tái sinh vào 4 khổ cảnh. Tôi cũng được học như vậy. Nhưng tôi vẫn có 1 thắc mắc rằng, trước khi 1 người thọ 5 giới và giữ giới tròn đủ, thì người đó đã từng gây ác nghiệp có thể rơi vào khổ cảnh, và tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na thứ 7 trong đổng lực tâm, tức là quả sẽ trổ sinh trong kiếp kế. Vậy nếu không bị đọa xuống khổ cảnh do phước báu giữ 5 giới, thì quả của ác nghiệp sẽ trổ sanh thế nào?

  3. #163

    Mặc định

    Hoan Hỷ. Kính chào Huynh Workerbee!
    ________________________________________
    Kính chào Huynh Workerbee,

    Kinh, Luật và Vi Diệu Pháp tôi may mắn được rờ tới trang bìa thôi, thưa Huynh. Cám ơn thiện ngôn, thiện ý của Huynh.

    Tôi hoan hỷ trình bày những thiển ý của tôi về hai câu huynh nêu lên. Nhưng tôi xin thưa: Tôi không dừng lại lâu trên diễn đàn Thế Giới Vô Hình. Đăng ký thành viên vào TGVH.com mới có thể link vào một số trang hay tài liệu nơi khác, cho nên tôi phải đăng ký để có quyền thành viên. Khi nào xong những việc cần phải làm, tôi cũng ngừng tìm kiếm. Gặp quý Bạn, chư Huynh như thế này là tốt đẹp cho tôi lắm!

    Câu thứ nhất:

    “Trong câu hỏi số 10, Tác ý tạo nghiệp, huynh có nói rằng việc phóng sinh được thực hiện khẩn cấp trong 7 sát na đầu tiên thì quả sẽ trổ sanh ngay tại đời này và trong các ví dụ huynh đưa ra dường như điều đó là đúng. Nhưng thực tế, so với 1 tiến trình tâm thức dài 17 sát na, không có một hành động nào của con người chúng ta có thể ngắn được đến như vậy mà nó phải kéo dài ít nhất 1 s đồng hồ cho đến nhiều ngày, nhiều tháng hoặc nhiều năm. Vậy tôi không hiểu bằng cách nào mà hành động phóng sinh của các ví dụ huynh đưa ra có thể đưa tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na đầu tiên của 7 sát na đổng lực tâm được. Phải chăng do quá trình hành động phóng sinh kéo dài trong nhiều tiến trình tâm mà có tiến trình tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na đầu tiên của 7 sát na đổng lực, trong khi tiến trình khác thì tác ý tạo nghiệp lại rơi vào sát na thứ 7, và tiến trình khác nữa thì tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na thứ 2 đến thứ 6 trong 7 sát na đổng lực? Tức là quả dị thục sẽ trổ sinh ngay trong đời này, đời sau và vô định kiếp về sau?”

    1- Thưa Huynh, ví dụ tôi thả một con chim, chỉ trong 7 sátna đầu tiên, chỉ là một ví dụ.

    Các ví dụ khác tôi không tác ý nhấn mạnh vào 7 sátna đầu tiên của tiến trình tâm.

    Qua những ví dụ trên, tác ý của tôi là: “Nhân phóng sanh có trổ quả trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai”. Suy ra, theo tiến trình 17 sátna tâm, họ phải là những người đã làm những việc phóng sanh trong 7 sátna đầu tiên của cái tâm tạo nghiệp, cho nên quả trổ đến cho họ ngay trong kiếp sống (này) của họ.

    2- Tôi không hiểu sâu Vi Diệu Pháp. Và tôi chưa từng phân tích lộ trình tâm của tôi, từ khi gieo Nhân cho đến lúc gặt Quả như thế nào. Trong cuộc sống, tôi nhận ra rất rỏ, “làm nhanh” “thọ quả nhanh”, như vậy, theo Vi Diệu Pháp, tôi đã “làm nhanh” trong 7 sátna đầu tiên (của Tâm Đổng Tốc). Và, nghiệp tôi làm trong 7 sátna đó có cho quả gọi là Hiện Báo Nghiệp, cho nên tôi “thọ quả nhanh”. Chỉ có vậy thôi, thưa Huynh.

    Vì thế, tôi không dám trả lời câu thứ nhất của huynh. Muốn trả lời câu này, tôi phải đặt xuống mọi tình huống, mọi chi tiết trong các ví dụ vào từng “cái tên gọi” của mỗi sát-na tâm. Tôi không có khả năng phân tích như vậy.


    Lấy một ví dụ, tôi nói: “Huynh thông minh quá!”. Huynh cười đáp: “Cám ơn, huynh cũng thế”. Tôi nói: “Cám ơn huynh” và tôi cảm giác hân hoan.

    Chỉ nói qua lại ba câu thôi, thì đã có nhiều lộ trình tâm sanh diệt trong tôi rồi (trong hành động trò chuyện đó), nhiều sát-na tâm (của tôi) sanh diệt trong đó rồi, và tôi cũng đã tạo nhiều nghiệp Thân-Khẩu-Ý trong đó rồi. Tôi “thọ quả tức khắc” là những quả: nụ cười của huynh cho tôi vui; lời cám ơn của huynh cho tôi vui, cảm giác hân hoan là vui.

    Ba cái quả trổ sanh (cho tôi) - từ một lời thiện ngôn - là quả của Hiện Báo Nghiệp. Tại vì trong mỗi một lộ trình có 17 sát-na tâm đó, tôi may mắn ngay [nơi (9-15) Tâm Tổng Đốc –Javana] lại tạo Khẩu Thiện Nghiệp. Trong 7 sát-na đầu (9-15) tôi lại may mắn Tác Ý nói Thiện trong sát-na thứ nhất (9). [Và chắc chắn, trong Khẩu Thiện Nghiệp đó, tôi đã có Tác Ý trong những sát-na tâm thứ bảy (15) để trổ Sanh Báo Nghiệp, dù mang thân con người, hay thân con ngựa, tôi cũng sẽ được khen là “người thông minh”, “ngựa thông minh”. Và chắc chắn, tôi đã có Tác Ý trong những sát-na tâm thứ hai (10), sát-na tâm thứ ba (11), sát-na tâm thứ tư (12), sát-na tâm thứ năm (13), sát-na tâm thứ sáu (14) để trổ Hậu Báo Nghiệp. Nhiều nhiều kiếp tới, làm chúng sanh trong cảnh giới nào tôi sẽ luôn “được tiếng thông minh”.]


    Để tạ lỗi cùng Huynh, tôi xin kể một câu chuyện phóng sanh đã cho tôi Hiện Báo Nghiệp. Nếu hữu duyên gặp được Luận Sư, tôi cũng sẽ mang câu hỏi này (của Huynh) để mong chư vị giảng giải cho tôi, để tôi - đã hoan hỷ - càng thêm hoan hỷ trong việc phóng sanh.

    Trước hết, tôi xin kể hai ví dụ cũng về “làm nhanh trả quả nhanh”.

    Hành động tốt nào khi tôi làm xong, mà ngay tức khắc, hay trong ngày, trong tuần tôi đã thọ được kết quả lành, tôi hoan hỷ, cho đó là tại vì tôi đã làm “nhanh” theo lời Phật dạy về sát-na tâm. Cũng vậy, hành động xấu nào khi tôi làm xong, mà ngay tức khắc, hay trong ngày, trong tuần, tôi thọ quả ác, tôi tỉnh ngộ cho đó là tại vì tôi làm “nhanh” theo lời Phật dạy về sát-na tâm. Từ khi hiểu được “làm nhanh” thì “trả nhanh”, tôi rất sợ làm ác, và chỉ cố gắng làm lành.

    Ví dụ về một Nghiệp Thiện:

    Có một lần tôi theo đoàn hành hương đi đãnh lễ Phật Tích bên Ấn Độ. Vị Thầy trưởng đoàn đã nhắc nhở là không nên (với cá nhân) cho người ăn xin, tại vì rất nhiều trường hợp “bị bao vây” đáng lo ngại. Điển hình, một vị Hòa Thượng ở Hoa Kỳ qua Ấn Độ và trú tại một ngôi chùa của chư Tăng Việt Nam. Vị viện trưởng cũng lưu ý Hòa Thượng về việc bố thí cho người ăn xin. Hòa Thượng, không biết vì lý do gì, một hôm, một mình “chuẩn bị” bố thí ngay trước - ngoài cổng - chùa. HT cho một người, người thứ hai đến HT cho, người thứ ba đến HT cho, … cho, cho, cho,… Không lâu, HT đã bị bao vây bởi một nhóm đông người ăn xin. Lúc này HT mới … hoảng. Muốn tháo lui thì cổng chùa (không biết vì lý do gì) đã khóa chốt từ bên trong …Tôi dừng chuyện HT nơi đây.

    Ở tại Bồ Đề Đạo Tràng mấy ngày, tôi buồn vì không được …cho. Đến một buổi sáng sớm, trên đường từ BĐĐT trở lại khách sạn gần đó, tôi một mình đi bộ ngang qua những người bán hàng rong. Tiếng các cháu mời mua “bánh mì” Ấn Độ nghe ríu rít, xen lẫn tiếng Việt Nam, tiếng Mỹ, rồi còn A Di Đà Phật… Tôi quyết định mua giúp bánh mì cho các cháu. Đi dọc theo một dãy dài các “lò bánh mì”, tôi đưa tiền và xòe bàn tay ra dấu mua 10 cái. Mua 10 cái nhưng tôi trả tiền cho 20 cái. Các chủ lò tươi cười xách mấy bao nylon bánh mì chạy theo đưa cho tôi. Và dĩ nhiên, chung quanh tôi đã có vòng vây người líu ríu .Tôi đưa tay chỉ vào những người ăn xin và ra dấu: “Cho họ hết đi, giúp tôi cho họ ăn hết đi”. Lúc đầu các cháu ngơ ngác nhìn vì chưa hiểu ý của tôi. Rồi “lô xô”, rồi “lào xào”, quơ tay qua, quơ tay lại. Một cháu ra vẻ “đây nè, như vầy nè”, cháu rút bánh mì trong bao đưa cho một người ăn xin. Cả nhóm ùa như bầy ong vỡ tổ, rồi lăng xăng chạy đi rút bánh mì cho những người khác, bỏ tôi đứng “bơ vơ”. Náo loạn cả một dãy đường. Người qua, kẻ lại nhìn tôi cười. Chủ hàng, chủ quán nhìn tôi cười. Tôi cũng cười. Đi chầm chậm trở về, tôi thấy niềm hân hoan nhè nhẹ ở trong tâm.


    Thưa Huynh,

    Tôi “cho” người ăn xin là “Nhân của một việc thiện”. Suốt tiến trình từ khi “muốn cho”, “đang cho”, “sau khi cho” kéo dài khoảng 30 phút. “Quả lành trả” cho tôi là: “Tâm hân hoan”, “Ý nghĩ hân hoan: mình đã làm được một việc lành mà mình mong muốn”; những nụ cười thiện cảm, những ánh mắt nồng ấm, những âm thanh vui tươi; tôi an nhiên, thanh thản đi về. Tất cả quả lành - ngay tức khắc trổ sanh - đó là vì, theo tôi, “tôi quyết định cho, thực hiện hành động cho” tích tắc trong 7 sátna đầu tiên của tâm tạo nghiệp.


    Ví dụ về một Nghiệp Bất Thiện:

    Tôi xin lỗi vì tôi sẽ phải dùng ví dụ từ một người khác. Như tôi đã thưa với Huynh, tôi rất sợ làm điều ác, cho nên tôi thường kiểm soát ý nghĩ của mình. Nghĩ bất thiện thì tôi có nghĩ, nhưng ra khẩu và thân thì ít khi tôi làm. Tôi không dám. Bởi vì tôi thọ quả xấu cho hành động bất thiện của mình quá nhiều rồi, tôi không dám làm sai, làm xấu nữa.

    Tôi đặt tên giả cho những người trong chuyện thôi nhé!

    Một buổi sáng, tôi đang ở trong bếp của một ngôi chùa. Tôi nghe âm thanh tiếng nói lớn ở ngoài sân. Dừng tay rửa rau, tôi lắng nghe. Đó là tiếng của cô Thêu, một phật tử đến công quả. Cô Thêu đang lớn tiếng với sư cô Chăm Chỉ. Sự tình là như vầy: Cô Thêu có trách nhiệm nấu ăn cho vị Trụ Trì, cô cũng trông coi luôn nhà bếp. Hồi sáng này, sư cô Chăm Chỉ vào bếp lau chùi cái tủ lạnh. Cô Thêu đến chùa, vô bếp và mở tủ lạnh. Thấy tủ lạnh sạch sẽ, cô đi tìm sư cô để …la. Tôi không nghe tiếng sư cô, chỉ có tiếng cô Thêu.

    Vào buổi xế chiều, tôi đang ở trong Chánh Điện. Tôi nghe âm thanh tiếng nói lớn ở trước hiên nhà bếp. Lắng nghe. Đó là tiếng của Giấy, một người thanh niên định cư tại chùa. Giấy đang lớn tiếng với cô Thêu. Sự tình là như vầy: Cô Thêu ở trong nhà bếp. Giấy đang ngồi nơi dãy ghế ngoài hàng hiên. Từ trong đi ra, cô đóng cửa lại như thế nào, mà Giấy lớn tiếng chỉnh hành động “đóng cánh cửa” của cô Thêu. Tôi nghe rỏ câu: “… đàn bà không có ý, có tứ …”. Cô Thêu thì giả lả … Tôi lắc đầu, thầm nghĩ: “Cô Thêu làm cái việc la sư cô Chăm Chỉ “nhanh” quá cho nên cô “bị la” cũng nhanh, chưa hết nữa ngày “nhân” đã sanh “quả””.

    Như thế đó, cô Thêu “la” là “Nhân của một việc bất thiện”. Suốt tiến trình từ khi “muốn la”, “trong khi la”, “sau khi la” của cô Thêu kéo dài khoảng 20 phút. “Quả xấu trả” – ngay trong ngày - cho cô Thêu là: “tâm khó chịu” nên cô “hành động lúng túng”, “nói giả lả”, “nói chống chế” (khi cô bị Giấy la) là vì, theo tôi, cô Thêu “quyết định la”, “thực hiện hành động la”, chỉ tích tắc trong 7 sátna đầu tiên của cái tâm tạo nghiệp.


    Tiếp theo, tôi sẽ kể một việc phóng sanh đã cho quả trong đời hiện tại.

    Đoạn kinh “Lộ Trình Tâm”, trong quyển “Vi Diệu Pháp Giảng Giải”, của Tỳ Kheo Giác Chánh, Webmaster: binhanson, như sau:

    BÀI 18. LỘ TRÌNH TÂM CITTA-VĪTHI

    Là tiến trình sanh diệt của tâm. Tùy theo trường hợp sanh khởi lộ trình tâm được phân ra lộ dài, lộ ngắn, lộ lớn, lộ nhỏ. Tùy theo nơi chốn sanh khởi, lộ trình tâm được phân biệt làm hai loại: lộ trình qua ngũ môn và lộ trình qua ý môn. Ðơn vị đo lường trong lộ trình tâm được gọi là tâm Sát Na.

    A- Tâm Sát na của Lộ trình tâm.

    Trong trạng thái thụ động, khi tâm không bị kích thích bởi đối tượng, được gọi là tâm Hộ kiếp (Bhavaṅga). Khi bị kích thích bởi đối tượng thì một tâm sẽ khởi lên trên mặt tâm Hộ kiếp, rồi chìm xuống để một tâm khác khởi lên (thông thường chúng ta không thể giữ mãi một tâm không cho chìm vào tâm Hộ kiếp). Như vậy, đời sống của một tâm bao gồm 3 giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ(Ṭhiti) và Diệt (Bhaṅga). Ðời sống đó được gọi là tâm sát na (Cittakhana).

    I) Lộ trình qua ngũ môn.
    Là dòng tâm thức sinh khởi qua năm căn môn: Nhãn môn, Nhĩ môn, Tỷ môn, Thiệt môn và Thân môn. Lộ ngũ môn được phân thành hai loại:

    1) Lộ ngũ môn bình nhật.
    Lộ ngũ môn bình nhật là lộ trình tâm xuyên qua ngũ môn để tiếp thu và xử sự với cảnh trong đời sống hàng ngày. Lộ ngũ môn bình nhật được phân ra làm bốn loại.

    a. Lộ ngũ môn cảnh rất lớn
    Là lộ trình tâm được diễn tiến đầy đủ trong 17 tâm sát na.

    1- Khi một đối tượng vào trong phạm vi nhận thức của tâm thức, qua một trong năm cửa, một sát na của tâm Hộ kiếp được trôi qua. Sát na ấy được gọi là Quá khứ Hộ kiếp(Atītabhavaṅga). Tức là trạng thái tâm chủ quan sanh diệt đồng thời với cảnh sắp đến.

    2- Tâm Hộ kiếp bị kích thích và rung động trong một tâm sát na gọi là sự rung động của Hộ kiếp (Bhavaṅgacalana). Tức là trạng thái tâm chủ quan bị cảnh mới chi phối.

    3- Rồi tâm Hộ kiếp ngưng chuyển động trong một tâm sát na gọi là sự dừng đứng của Hộ kiếp (Bhavaṅgupaccheda). Tức là trạng thái tâm chủ quan chấm dứt, nhường chỗ cho những tâm khách quan khởi lên để tiếp thu và xử sự với cảnh mới. Khi đó các tâm sát na khác sẽ khởi lên và chìm xuống một cách mau lẹ như sau.

    4- Tâm Khán ngũ môn (Pañcadvāravajjana) tức là tâm khách quan khởi lên hướng về đối tượng (cảnh mới hiện đến) và chìm xuống trong một tâm sát na.

    5- Nhãn thức (Cakkhuviññāṇa) hay một trong bốn thức kia sẽ khởi lên trong một tâm sát na.

    6- Tâm Tiếp thu (Sampaṭicchana) là tâm khách quan khởi lên bắt lấy cảnh trong một tâm sát na.

    7- Tâm Quan sát (Santīrana) tức là tâm khách quan khởi lên xem xét cảnh (điều tra đối tượng) trong một tâm sát na.

    8- Tâm Phân Ðoán (Voṭṭhapana) tức tâm Xác định đối tượng là vật tốt hay xấu, sạch hay dơ... (đây chính là công tác của tâm Khán Ý môn) khởi lên trong một tâm sát na.

    9. – 15. Tâm Ðổng Tốc (Javana) tức là tâm xử sự với cảnh (còn gọi là tâm hưởng cảnh) khởi lên liên tiếp 7 tâm sát na. Chính đây là thời điểm quan trọng hơn cả trong toàn lộ trình vì các nghiệp thiện hoặc ác được tạo ra trong lúc này. Trong 7 sát na này, sát na thứ nhất tạo nghiệp, kết quả trong đời hiện tại, gọi là Hiện báo nghiệp; sát na thứ bảy, tạo nghiệp, kết quả trong đời sau, gọi là Sanh báo nghiệp; năm sát na còn lại, tạo nghiệp, kết quả từ đời kế tiếp cho tới lúc chứng Vô dư Niết-Bàn, gọi là Hậu báo nghiệp.
    16. – 17. Tâm Thập di (Tadālambana) là tâm hưởng cảnh dư của tâm Ðổng tốc nhưng không có khả năng tạo nghiệp (vì những tâm làm việc Thập Di hoàn toàn là tâm quả). Tâm này khởi lên để gìn giữ và ghi nhận cảnh vào trong tiềm thức. Tâm này lập đi lập lại trong hai sát na.
    .........


    Câu chuyện của tôi như sau:

    Việc này xảy ra vào khoảng năm 2004, khi tôi sinh hoạt tại một ngôi chùa. Hôm đó là ngày chủ nhật. Như thường lệ, tôi tham dự buổi lễ đại chúng của chùa. Khi lễ hoàn mãn, tôi đảnh lễ Đức Phật, đứng lên định đi ra, thì tôi trông thấy một người thiếu nữ đang khép nép đứng bên cửa chánh điện. Tôi dừng lại. Thiếu nữ tiến về phía tôi, rụt rè hỏi:

    - “Em vào lễ Phật có được không?”.

    Tôi gật đầu mỉm cười:

    - “Xin mời tự nhiên”.

    Cô nói: “Dạ, cám ơn”, rồi đi vào.

    Tôi đứng nhìn ra ngoài sân. Độ 10 phút sau, quay người nhìn trở lại, tôi thấy cô đang tần ngần đứng bên bàn thờ. Nhìn thấy 3 nén nhang, tôi biết cô đã lễ Phật xong rồi. Lúc này, tôi mới nhận ra cô khoảng 22, 23 tuổi và hình như đang mang thai. Nhìn nét mặt của cô, tôi hiểu cô có chuyện. Tôi tiến lên vài bước, dừng lại, cất tiếng:

    - “Cô có chuyện gì cần có phải không? Nếu được, cô nói đi, đừng ngại. Giúp gì được cho cô tôi sẽ cố gắng”.

    Thiếu phụ cúi đầu. Khi ngẩng lên, trên gương mặt đã tuôn hai hàng nước mắt.
    Tôi nhẹ nhàng nói:

    - “Hãy ngồi xuống. Nói cho tôi nghe, có chuyện gì vậy?

    Cô sụt sùi ngồi xuống.

    Tôi đến góc bàn lấy một hộp khăn giấy, rồi trở lại đưa cho cô. Tôi im lặng ngồi xuống. Lau nước mắt, cô bắt đầu tâm sự:

    - “Em có thai gần được bốn tháng. Từ lúc bắt đầu mang thai, em chăm sóc kỷ lưỡng lắm. Lần nào đi khám định kỳ, bác sĩ cũng nói là thai tốt. Ai dè, hôm kia em đi, bác sĩ báo tin thai nhi không có bao tử. Em sợ, khóc quá chừng”.

    Cô lại rưng rức. Tôi ôn tồn hỏi:

    - “Rồi bác sĩ nói sao nữa, có dặn cô phải làm sao không?”.

    Cô đáp:

    - “Dạ, bác sĩ nói khi sanh ra con em không có bao tử thì làm sao mà sống. Còn nếu như muốn bỏ thai thì phải làm trong lúc này vì thai nhi còn dưới 4 tháng. Sau 4 tháng thì không làm việc lấy thai nhi ra được nữa, phải để mà sanh”.

    Tôi ân cần hỏi:

    - “Vậy bây giờ cô tính thế nào?”.

    Cô lại mếu máo:

    - “Em chưa biết tính sao nữa. Chuyện này bất ngờ quá, em chưa biết phải làm sao”.

    Im lặng một giây, tôi nói:

    - “Tôi giúp cô chuyện này nhé!”.
    - “Dạ, xin giúp em”, cô vội nói.

    Tôi tiếp:

    - “Trước hết, tôi góp ý với cô là nên giữ lấy thai nhi. Nếu phải chết, thì trước cũng chết, sau cũng chết. Cô giữ lấy thai nhi cho đến lúc sanh ra. Con chết thì là con đi với nghiệp của con. Cô bỏ con bây giờ thì cô tạo nghiệp sát sanh. Cô sanh con ra rồi mà con có chết thì cô, dù có đau buồn, cũng chỉ có đau buồn thôi. Còn như cô bỏ con từ bây giờ thì cô vừa đau buồn vừa hối hận, rồi tâm hối hận có thể theo cô suốt cuộc đời… Cô nghĩ sao?”.

    Cô đáp:

    - “Dạ, em cũng có nghĩ qua chuyện giữ con lại, nhưng mà em cũng nghĩ đến chuyện có khả năng qua 4 tháng rồi lỡ thai chết trong bụng nữa…”.

    Tôi mỉm cười:

    - “Vậy bây giờ cô suy nghĩ và quyết định đi!”.

    Cô mím môi, rồi gật đầu:

    - “Em quyết định giữ lại. Sanh ra mà con có chết thì em chôn con. Mang con trong bụng cho có mẹ, có con. Em không bỏ con bây giờ đâu.”

    Tôi gật đầu:

    - “Vậy bây giờ tôi giúp cô một việc nhỏ này nhé!”

    Cô đáp:

    - “Dạ”

    Tôi đứng lên, đi đến bên bàn thờ lấy một chai nước lọc. Tôi bảo cô thắp nhang lạy Phật, phát nguyện giữ lấy thai nhi với tình thương của một người mẹ, và cầu xin những điều cô mong muốn cho con của cô. Tôi đứng chờ. Người thiếu phụ thành tâm khấn nguyện. Tôi bảo cô ngồi xuống rồi nói:

    - “Tôi đặt lời cầu xin của tôi vào chai nước này. Tôi cầu xin cho thai nhi sanh ra được đầy đủ cơ thể và sống bình thường, mạnh khỏe. Nếu như do nghiệp quá khứ của chính con đã tạo và con phải chết trong bụng mẹ, thì cầu xin cho con tái sanh về nhàn cảnh. Cầu xin cho tình thương con và quyết định giữ thai nhi lại của cô là phước lành cho thai nhi an toàn, khỏe mạnh. Bằng như con phải ra đi, cầu xin cho con tái sanh nơi nhàn cảnh”.

    Nói xong, tôi đưa chai nước bảo cô uống. Cô xoay nắp chai (còn nguyên chưa mở nắp). Tôi bảo cô uống từ từ trong lúc tôi niệm vài bài kinh An Lành (Theravada). Chừng 5 phút tôi dừng lại. Tôi bảo cô mang chai nước về nhà, mỗi khi uống hãy niệm “Araham - Đức Phật Trọn Lành”. Cô cúi đầu cám ơn tôi rồi ra về.


    Từ khoảng năm 2000 tôi bắt đầu có những triệu chứng của bịnh tim. Tây Y làm nhiều xét nghiệm mà chưa rỏ tôi bị bịnh gì. Tôi ra vào phòng cấp cứu hoài riết tôi cũng nản. Năm 2003, hữu duyên có người giới thiệu tôi đến một thầy Đông Y. Ngày đầu tiên bắt mạch cho tôi, thầy chỉ nói: “Uống thuốc nghe, không sao đâu”. Một tháng sau, người đệ tử của thầy nói nhỏ với tôi: “Hôm đó thầy nói “không gặp tui, thì một tuần nữa là ngã xuống rồi đó”. Ráng uống thuốc nghe”. Thầy hốt thuốc trị bịnh cho tôi không có lấy tiền. Lần lần, tôi hữu duyên gặp những bác sĩ tài giỏi về Đông Y ở Pháp, Mỹ, Việt Nam, bắt mạch, họ đều nói tôi mang bịnh tim bẩm sinh, bây giờ rất nặng, phải uống thuốc cho đàng hoàng mới mong thoát chết, chờ Tây Y tìm ra bịnh, thì tôi cũng mồ xanh cỏ rồi. Tôi ròng rả uống thuốc, ròng rả ra vào bịnh viện làm xét nghiệm, ròng rả vào ra phòng cấp cứu …


    Sau ngày gặp người thiếu phụ, tôi không có tin tức gì về cô nữa, cũng không biết tìm mẹ con cô ở nơi đâu. Ngày qua ngày tôi cũng dần quên chuyện mẹ con của cô. Phần tôi thì … hai lần tôi hấp hối rồi thoát chết.

    Một lần, đang ngồi ăn cơm, tôi bỗng lên cơn mệt, gục đầu xuống bàn. Đôi chân tôi yếu không đứng lên nổi nữa. Tôi gọi xin giúp. Có hai người đến xốc tôi lên và đưa tôi về phòng, đặt tôi nằm trên giường. Họ thăm hỏi rồi đi ra. Nói xon tiếng “Cám ơn” là tôi nằm im nhắm mắt, cảm nhận cái đau từng cơn nơi vùng ngực bên trái. Mệt thật mệt. Sức lực của tôi lúc đó chỉ còn 1 hay 2%. Tôi cảm thấy lạnh. Cảm cái lạnh từ đôi chân dần lên gối, lên bụng, lên hai cánh tay. Tôi chợt nhận ra: “Mình đang hấp hối đây. Lạnh lên đến trái tim là chết đó!”. Không hốt hoảng, tôi lướt tư tưởng sám hối và từ giả đến Thầy Tổ, cha mẹ, con trai, anh chị em, đồng đạo …Tôi để tâm vào mũi, cảm nhận hơi thở ra vào nơi mũi, chờ …chết. Đang theo dõi hơi thở thì tôi thấy … tôi đi ra! Tôi đi ra giữa hai hàng người quỳ ôm mặt khóc! Một “nàng tiên”, với xiêm y phất phới, từ trên cao hạ xuống đứng trước mặt tôi. Ngay lúc ấy, tôi mở mắt ra và tự nói: “Mình chưa chết, sẽ có người đến cứu”.

    Chưa đầy 10 phút sau, có tiếng gỏ cửa phòng. Tôi lên tiếng mời vào. Hai người quen đến thăm tôi. Trong đó có một cô nói rằng: “Tôi đang đi với con gái về hướng trên kia, bỗng nhiên tôi bảo con gái quay xe lại và nói mẹ muốn đến chùa”. Cô nhìn tôi chảy nước mắt. Cô bảo tôi ngồi dậy. Tôi ngồi, với tư thế ngồi lên đôi bàn chân, sát trên giường. Cô bỗng đổi sang nói bằng một ngôn ngữ lạ tai. Cô xoa tay vừa đập, vừa vuốt lên hai cánh tay và lưng của tôi. Chỉ trong vòng 5 phút, tôi cảm nhận một sức nóng từ nơi bụng phừng lên mặt tôi. Mặt tôi nóng ran. Thân tôi ấm lại. Cô dừng lại và nói: “Xem mặt đỏ rần rồi kìa. Hết chết rồi”. Sau vài lời dặn dò tôi giữ gìn sức khỏe, hai cô ra về. Tôi khỏe lại thật nhanh.


    Khoảng 6 tháng sau, tôi lại hấp hối lần thứ hai. Buổi tối hôm đó, đang đứng nói chuyện với vài người bạn, tôi thấy choáng, thoáng như một giây ngất đi vậy. Chào họ. Tôi chầm chậm vô phòng. Cảm nhận cái mệt và cái yếu dần dần lan trong toàn thân. Tôi đi tắm, thay đồ sạch để đi … chết. Lên giường nằm, hai bàn tay đặt lên nhau giữa ngực, tôi nói: “Con chuẩn bị đi đây”. Lúc đó vào khoảng 10 giờ tối. Chú tâm vào mũi, theo dõi hơi thở, tôi cảm nhận mình lịm dần, lịm dần … Mơ màng, tôi cảm giác có người lật tôi sang bên phải. Tôi hé mắt thấy đôi cánh tay của mình quơ lên trên theo tư thế bị lật qua. Tôi nói trong tâm: “Con chuẩn bị chết rồi mà”, rồi lại thiếp đi.

    Suốt đêm, thân người của tôi cứ “bị” lật qua trái, lật qua phải, hoàn toàn không do tôi chủ động. Tôi chỉ biết mỗi khi “bị” lật, tôi hé mắt thấy đôi cánh tay áo và bàn tay tôi quơ lên. Cho đến khi tôi đủ sức mở mắt ra, việc đầu tiên tôi biết là tôi chưa chết. Lúc đó gần 5 giờ sáng. Nằm im cảm nhận toàn thân, tôi thấy cái mệt biến đi rồi. Chống tay từ từ ngồi lên, tôi cảm nhận cái yếu cũng biến đi rồi. Thật lạ! Chấp tay, tôi thành tâm nói: “Con cám ơn Chư Thiên”.


    Từ hôm đó sức khỏe của tôi dần dần khá hơn. Khi có ai hỏi thăm bịnh tình của tôi, tôi cười vui rồi nói: “Nhìn lưỡi tôi dài ra rồi chưa?”. Tôi giả bộ thè lưỡi cho họ xem. Họ ngơ ngác không hiểu. Tôi nói: “Uống thuốc lè lưỡi rồi, phải hết bịnh chứ!”. Cùng nhau cười.


    Vào khoảng 14 tháng sau, tính từ ngày gặp “mẹ con” người thiếu phụ kia. Cho đến một hôm. Chiều hôm đó, tôi đứng dưới bóng cây, đón các em trong đoàn phật tử đi cắm trại trở về. Đứng nhìn các cháu nhỏ đầu bù, tóc rối, mắt nhắm, mắt mở, lê thê, lếch thếch như đoàn quân bại trận, mà tôi bật cười. Quay đầu sang bên trái, tôi nhìn thấy một người thiếu nữ đang đứng bên gốc cây. Đưa ánh mắt trở lại nơi các cháu, tôi chợt nhận ra cô ấy trông quen quen. Tôi quay nhìn thẳng vào mặt cô. Cô cũng nhìn thẳng vào tôi. Tôi lục lọi ký ức.

    Từ từ tiến về phía cô, tôi lên tiếng:

    - “Xin lỗi … có phải … cô là …”.

    Tôi chưa biết hỏi làm sao, thì cô trả lời:

    - “Dạ phải. Em sanh con rồi”, rồi cô im lặng.

    Tôi ngập ngừng:

    - “Vậy …”.

    Cô tiếp:

    - “Con em có bao tử bình thường”.

    Tôi cảm thấy hân hoan ngập trái tim:

    - “Bây giờ bé sao rồi cô?”

    Cô đáp:

    - “Dạ, em để ở nhà, con trai. Bé được gần 8 tháng rồi, khỏe mạnh, bình thường, dễ thương lắm ạ!”.

    Cô thấp giọng:

    - “Cám ơn ạ!”.

    Tôi chỉ cười …


    Tôi qua khỏi căn bịnh tim và hoàn toàn bình phục từ năm 2008. Thầy dặn tôi mỗi năm cần phải uống 10 thang thuốc bổ, nhưng tôi lắc đầu.


    Hôm nay, nhân đề tài phóng sanh, tôi tin chắc mạng sống của tôi, còn lại đến bây giờ, là do NHÂN từ lần “phóng sanh” cái sinh mệnh bé bỏng còn đang cuộn tròn, úp mặt trong bụng của mẹ kia!

    Bé thoát chết hai lần - Tôi thoát chết hai lần! Bé khỏe mạnh - Tôi khỏe mạnh! Một bài học Nhân Quả - theo tôi – là Hiện Báo Nghiệp!


    Nếu diễn tả, tôi chỉ có thể diễn tả cái “dòng tâm tạo Nghiệp” đó nó không xảy diễn nơi lục thức. Tác Ý tạo Nghiệp.

    Tác Ý không phải là một lời nói, một mệnh lệnh, sai khiến thân, khẩu, ý, cho dù nói là: “Khởi tác ý muốn đi” hay “Khởi tác ý muốn đứng”. Tác Ý như một luồng sức mạnh nâng sự hoạt động của thân và tâm, hay Thân-Khẩu-Ý. Sức mạnh đó dồn vào nơi nào, thì nơi đó “bộc phát” gieo xuống một cái nhân. Tiến trình “dòng tâm tạo Nghiệp” không xảy diễn nơi mắt tôi thấy, tai tôi nghe, mũi tôi ngửi, miệng tôi nếm, thân tôi xúc chạm, hay ý tôi suy nghĩ, mà là nơi “phản ứng tâm” (của tôi) đối với sự thấy, sự nghe, sự ngửi, sự nếm, sự đụng chạm, sự suy nghĩ. Phản ứng tâm đó (thành một) “trạng thái tâm”, hay còn gọi là “tâm xao động”, cái nơi mà tôi “cảm” được, một nơi ẩn sâu trong lồng ngực, một nơi như tận đáy trái tim.


    Tôi diễn tả, tiến trình - của một lộ trình có 17 sát-na tâm - xảy diễn trên tầng số “sức phản ứng của tâm”, hay trên “cái tâm đang xao động”.

    Khi lục căn tiếp XÚC với lục trần, nếu không kịp chánh niệm “chỉ là thấy, chỉ là nghe” … thì THỌ liền lập tức, để rồi, nếu không kịp chánh niệm “chỉ là thọ” thôi, phản ứng tâm - từ THỌ - mà bắt đầu rung động, hiện khởi một “trạng thái tâm” hay gọi là “tâm xao động”. Lúc này “Tưởng” cũng sẽ vào tham gia. Nếu “Tưởng” nêm vào lành, thiện thì trạng thái tâm xao động của tôi sẽ là trạng thái tâm thiện có hỷ, có lạc, có hân hoan, … Nếu “Tưởng” nêm vào xấu, ác thì trạng thái tâm xao động của tôi sẽ là trạng thái tâm bất thiện, có sầu, bi, khổ, ưu, não… Nếu Tưởng không làm gì hết, thì “tâm xao động” chỉ như một gợn nhẹ, cũng nhẹ nhàng lắng xuống. Một trạng thái tâm đi qua! Rồi thôi!

    Những sát-na tâm sanh diệt rà trên một trạng thái tâm, để rồi, đến cường độ rung động cao nhất, xao động nhất (của trạng thái tâm) ấy- chính những cái chổ nào mà hỷ, lạc, hân hoan, sầu, bi, khổ, ưu, não … “đang có mặt”, “đang lặn, hụp, nhô lên, chìm xuống” đó, mà Tác Ý bộc phác, gieo xuống một cái Nhân. Thời gian trụ của một trạng thái tâm xao động có dài, có ngắn. Tuy thời gian dài, ngắn khác nhau, mỗi một trạng thái tâm xao động đều có một chuỗi Nhân Quả Nhân Quả … Sanh Diệt Sanh Diệt… tương duyên, liên tục. Cường độ rung động (trong trạng thái tâm xao động) lại không lệ thuộc vào thời gian. Độ rung động cao nhất nơi nào thì Tác Ý gieo hạt nơi ấy, dài dài suốt thời gian trụ của trạng thái tâm xao động. Trạng thái tâm xao động chấm dứt vào lúc mà “cảm” hoàn toàn lắng xuống, mất hẳn, tâm bằng trở lại.

    Một trạng thái tâm xao động sanh rồi diệt, nhưng những lộ trình tâm (diễn tiến trên đó) sanh diệt, sanh diệt, đếm sao cho thành con số! Và cứ trên một lộ trình tâm thì Tác Ý gieo hạt. Hạt gieo vào hỷ ươm mầm hỷ. Hạt gieo vào lạc ươm mầm lạc. Hạt gieo vào bi ươm mầm bi. Hại gieo vào não ươm mầm não…

    Một lộ trình tâm đã là quá ngắn, còn nói gì đến 1 sát-na tâm. Khi tâm tôi bắt đầu xao động (vì hoàn cảnh của hai mẹ con kia) thì trong suốt thời gian 30 phút giao tiếp với cô, đã có bao nhiêu lộ trình tâm sanh diệt (trên tâm xao động của tôi rồi).

    Khi xao động bắt đầu rung chuyển (tôi gọi là cường độ) (HÀNH), thì Tưởng làm việc (TƯỞNG), từ từ bỏ vật liệu (theo từng ý nghĩ, lời nói, cử chỉ của tôi), trộn vô (XÚC) vào trạng thái tâm (đang xao động của tôi). Những vật liệu đó là: “Bác sĩ có nói cô phải làm sao không?”, “như vầy thì cô ấy khổ tâm lắm đây!”, “sao mà tội cho thai nhi vậy”, “bây giờ mà bỏ thai thì đau lòng người mẹ lắm!”, “đây có thể ví dụ về trường hợp bán trứng hột vịt lộn, trứng gà lộn, trứng cút lộn đây!”, “có nên giúp cô ấy không?”, “làm vậy lỡ như cho cô hy vọng rồi thất vọng thì sao?”, “thôi, còn nước, còn tát, giúp cho cô khỏi gieo nghiệp sát sanh!”, “Tôi giúp cô chuyện này nhé!”, “cô bỏ con bây giờ là cô tạo nghiệp sát sanh”, “tôi mỉm cười”, “tôi gật đầu”, “tôi cầm chai nước niệm kinh”, “tôi bảo cô khi uống nước hãy niệm Araham”… Và , những “vật liệu” đó có những “vị”: “trắc ẩn, xót xa, ưu, thương cảm, kinh sợ (điều ác), thương, sầu, não, xả, hân hoan, bi mẫn, hỷ, an, lạc”.

    Suốt, suốt, dài, dài như vậy, vật liệu nào nhiều thì ra vị (của vật liệu đó) nặng nhất, trội nhất. Đã là vị nặng thì khi nếm vào rất dễ nhận ra. Sức mạnh của Tác Ý “nhận ra” vị, rồi “dồn vào nơi” vị (THỌ). Ngay chổ cái “vị ưu”, “vị hỷ”, “vị xả” nào mà tôi lại “suy nghĩ” (HÀNH), tôi lại “nói” (HÀNH), tôi lại “làm” (HÀNH) là - ngay chổ ấy - Tác Ý gieo một Nhân Ý Nghiệp, một Nhân Khẩu Nghiệp, một Nhân Thân Nghiệp.

    Ví dụ:

    Toàn bộ trạng thái tâm xao động của tôi - từ khi sanh đến lúc diệt - có 10 lộ trình tâm. Mổi lộ trình tâm có 17 sát-na. Mỗi sát-na, ví dụ, là 1 giây. Như vậy có 170 sát-na. Tức là tôi có 2 phút 50 giây để tạo Nghiệp Thiện, Nghiệp Ác [hay không tạo Nghiệp (nếu XÚC chỉ là xúc thôi)].

    Chỉ tìm Hiện Báo Nghiệp thôi, cho nên tôi ghi số 9 cho những sát-na tâm thứ nhất, mà tôi Tác Ý Gieo Nghiệp Thân-Khẩu-Ý.

    1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17

    Như vậy, chỉ trong 2 phút 50 giây -trên thực tế - đủ thời gian cho tôi gieo 10 lần Thân Khẩu Ý nghiệp, bằng sát-na tâm thứ nhất trong Tâm Đổng Tốc (9-15), [còn nói gì tôi đã có đến 30 phút!]


    Câu hỏi thứ hai:

    “2. Huynh nói rằng phước báu giữ 5 giới sẽ ngăn việc tái sinh vào 4 khổ cảnh. Tôi cũng được học như vậy. Nhưng tôi vẫn có 1 thắc mắc rằng, trước khi 1 người thọ 5 giới và giữ giới tròn đủ, thì người đó đã từng gây ác nghiệp có thể rơi vào khổ cảnh, và tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na thứ 7 trong đổng lực tâm, tức là quả sẽ trổ sinh trong kiếp kế. Vậy nếu không bị đọa xuống khổ cảnh do phước báu giữ 5 giới, thì quả của ác nghiệp sẽ trổ sanh thế nào?”

    Thưa Huynh,

    Tôi kính gửi Huynh bài kinh dưới đây của Hòa Thượng Hộ Tông, Therava. Bài kinh này có nói nói đến 4 đọa xứ và có câu “Nghiệp theo chẳng kịp khi thăng Niết Bàn”. Tôi sẽ cùng huynh học tập về câu hỏi thứ hai.

    VÔ THƯỜNG - KHỔ NÃO - VÔ NGÃ
    Diễn ra Quốc âm:

    Biển trần khổ sóng bồng lai láng,
    Kiếp phù sanh đáng chán biết bao
    Tấm thân chìm đắm dạt dào.
    Mịt mờ chưa biết đời nào thoát ly,
    Cõi giả tạm ích gì sự thế.
    Uổng tâm tư tìm kế miên trường,
    Trần hoàn vạn vật vô thường,
    Khổ não, vô ngã đầy đường chông gai.
    Do báo nghiệp lưu lai từ trước,
    Các pháp hành, tạo được thân duyên,
    Pháp hành kế tục nhau liền,
    Diệt, sanh, sanh, diệt triền miên không ngừng.
    Người hay thú đồng chung số phận,
    Hễ có thân ngũ uẩn, không bền.
    Chịu điều biến đổi đảo điên,
    Sanh, già, đau, chết không yên lúc nào,
    Thể vật chất không sao giữ nổi,
    Sức vô thường phá mỗi sát na,
    Xét cùng đâu phải thân ta.
    Khó ngăn tóc bạc không cầm răng long.
    Lửa ái dục đốt lòng từ phút,
    Vấy ưu phiền, chẳng chút nào nguôi,
    Dễ chi đặng tạm an vui,
    Suy mòn vì nhuộm nặng mùi trần ai.
    Chừng thân chết nảy hơi hôi hám,
    Người, ai ai chẳng dám lại gần,
    Gớm ghê, dầu bậc chí thân,
    Ðều sợ xui, lụy, hương lân, cửa nhà.
    Chọn một chốn rừng già hoang vắng,
    Ðem thây thi, an táng cho xong,
    Ðịa táng, hỏa táng chẳng đồng,
    Tùy duyên, tùy lực, vẫn không quản gì.
    Ðưa xác chết, người đi đông đúc,
    Kẻ thân nhân uất ức, khóc than.
    Hình hài ba khúc rã tan,
    Thanh danh tiêu diệt họ hàng cách xa.
    Khổ tử biệt thiết tha nung nấu,
    Biệt gia tài, của báu, tình yêu,
    Tấm thân ngũ uẩn đã tiêu,
    Ðất, nước, gió, lửa, về nhiều căn nguyên.
    Thân đã chẳng, thiên diên ngày tháng.
    Buổi chia lìa ngao ngán đau thương.
    Chúng sanh ba cõi vô thường,
    Nên vun cội phước, tìm đường siêu sanh.
    Lựa các thứ nhân lành gieo giống,
    Quả kết trong kiếp sống về sau,
    Mở lòng bố thí dồi dào,
    Học kinh, trì giới, khá mau tu hành,
    Kẻo rồi phải điêu linh, sa đọa,
    Vào bốn đường ác đạo khó khăn
    Vô cùng khốn khổ thân tâm,
    Ðời đời kiếp kiếp trầm luân không về
    Thân khẩu ý giữ gìn trong sạch,
    Dẫn trên đường thanh bạch mà đi,
    Dầu cho chuyển kiếp đến kỳ,
    Cũng còn trông ngóng thoát ly khổ sầu,
    Rán hối quá quay đầu hướng thiện,
    Ác nghiệp trần đoạn tuyệt chớ gieo.
    Tâm đừng xu hướng, vui theo,
    Thiện duyên gầy dựng, trần lao dứt lần.
    Các phương pháp, yên tâm tịnh trí,
    Chúng sanh cần tìm kiếm học hành,
    Cho lòng chán nản phát sanh,
    Cội nguồn tội khổ hiểu rành sâu xa,
    Pháp chán nản dạy ta suy xét,
    Khổ cõi đời số cát sông Hằng,
    Tám điều khổ não ghi bằng,
    Ðây lần lượt giải, ngọn ngành như sau.
    Cõi trần thế ra vào há dễ,
    Luật tuần hoàn nào kể chi ai,
    Thân ta chẳng lựa gái trai,
    Cũng đều mắc phải đọa đày khổ sanh.
    Khi nghiệp đến pháp hành cấu tạo.
    Thác sanh vào lòng mẹ thành phôi,
    Nguyên tố nhỏ nhít vô hồi,
    Vốn là chất lỏng, giống dầu mà trong,
    Giọt dầu ấy dính lông con thú,
    Ta cầm lên rảy giũ bảy lần,
    Chỉ còn chút ít dính gần,
    Ðó nguyên chất khởi nên thân con người.
    Bảy ngày đầu còn tươi trong vắt.
    Rồi lan lần biến sắc đổi màu,
    Ðến tuần thứ bảy về sau,
    Biến thành một chất trông vào đáng ghê
    Ðỏ dợt dợt, mỡ pha lẫn máu,
    Bởi nguyên Hành cứ tạo thêm ra,
    Lại đến bảy bữa thứ ba,
    Hóa thành chất đặc, như là thịt dư,
    Trong bụng mẹ an cư một chỗ,
    Miếng thịt thừa tội lỗi xiết chi,
    Tuy hình hườn kết thế ni
    Nhưng mềm mại, như chì rã tan.
    Tưởng tượng đến trăm ngàn ghê sợ.
    Phôi bây giờ tương tợ trứng gà,
    Phôi này còn yếu chưa già,
    Tuần tự thay đổi, bảy ngày thứ tư.
    Bảy ngày nữa từ từ biến hóa
    Bắt đầu chia tất cả năm nhành,
    Tuy hình chưa hẳn thật thành
    Nhưng đã có dạng đầu, mình, chơn, tay.
    Pháp hành đã tạo hoài không dứt.
    Tuần thứ năm thất nhựt vừa qua,
    Nhỏ to hình dáng đẩy đà
    Ba lăm ngày ấy đã ra hình hài
    Ngoài ba tháng thành thai cứng các
    Thai loài người, nào khác thú đâu.
    Cũng đều khổ não âu sầu,
    Ở trong bụng mẹ co đầu, rút chơn,
    Ngồi lổm hổm còn hơn ràng buộc
    Trên đồ ăn vừa được tiêu tan,
    Hai tay nắm lại đỡ cằm,
    Mặt day lưng mẹ, tối tăm mịt mờ.
    Quanh mình vấy chất dơ, hôi thối
    Ðầu đội đồ, mẹ mới ăn vào,
    Vừa dơ, vừa ngộp xiết bao
    Nên hằng giẫy giụa thân nào đặng yên.
    Nếu mẹ chẳng cử kiêng ăn uống,
    Mặc đói no, nuốt bướng nhai càn,
    Nóng, cay, nguội, lạnh, không màng,
    Miển vừa khẩu dục ngó ngàng chi con,
    Vật thực trúng da non của trẻ,
    Nóng giật mình, lạnh sẽ phát run,
    Ðau thương khổ não khôn cùng.
    Như chim bị trận bão bùng mưa sa.
    Lại giống khỉ trải qua mưa gió,
    Nằm co ro, một xó rét run,
    Kinh hoàng sợ sệt hết lòng,
    Chẳng kham nỗi khổ, day tầm đôi bên.
    Hoặc kiếm ở phía trên, hay dưới,
    Hoặc là nơi mấy bụi gần đây
    Chừng nào tìm được bộng cây,
    Chui vào ẩn náu thân này mới an.
    Ðủ mười tháng vẹn toàn thân thể.
    Gần kỳ sanh lòng mẹ chẳng vui
    Lo âu dạ luống bùi ngùi
    Sợ sự tai hại trong hồi khai hoa,
    Mãn toan tính đắn đo, cân nhắc,
    Biển mênh mông chưa chắc đặng qua,
    Quanh quẩn công chuyện trong nhà,
    Dễ duôi nào dám đi xa bao giờ,
    Kịp đến lúc ngồi chờ hoa nở,
    Quyến thuộc vầy kẻ đỡ người nưng
    Chịu điều đau khổ từng cơn,
    Dầu kiên gan mấy, cũng sờn nỗi đau,
    Người cả thảy, không sao tránh thoát,
    Bỗng dường như, bão tạt vào thai
    Hài nhi, như chớp, đã day,
    Theo đường kinh huyết ra ngoài sản môn.
    May được lúc lâm bồn yên tịnh.
    Cả mẹ con khỏe mạnh vuông tròn,
    Ấy nhờ hồng phúc nhà còn,
    Chúng sanh kiếp trước gây nhiều thiện căn
    Nếu phước báu không bằng tội ác,
    Khi sanh ra chịu các khó khăn,
    Dẫu còn sống sót nữa chăng?
    Gật gờ dường phải đôi lần dứt hơi!
    Vì nhân ác đến hồi trả quả,
    Chúng sanh này, thảm họa chết non.
    Chết ngộp, hoặc chết mỏi mòn,
    Chết ngoài bụng mẹ, hoặc còn trong thai
    Ngán ngẫm, kiếp sanh lai tất tưởi!
    Từ thác sanh đến buổi lọt lòng,
    Mạng căn nào biết chắc không.
    Nhưng đều phải chịu trong vòng khổ lao
    Suy nghĩ chán xôn xao tất dạ,
    Xét khổ sanh buồn bã âu sầu,
    Ðây là hết khổ đặng đâu,
    Có thân còn phải lãnh thâu khổ già!
    Sự khổ già thân ta hằng chịu,
    Dầu gái trai tiều tụy như nhau.
    Ðổi thay chẳng trước thì sau,
    Suy mòn từ lúc tốn hao từ giờ!
    Buổi niên thiếu ngây thơ, đầy đặn,
    Sắc xinh tươi đủ vẹn mười phân
    Dáng điệu đẹp đẽ tốt lành,
    Dương dương đắc ý, tuổi xanh thường tình,
    Ðộ trẻ trung vóc hình tráng kiện,
    Hằng phô bày thể diện đáng yêu,
    Thế gian ai cũng ưa chìu,
    Gái trai đều có tự kiêu thuở này,
    Mê muội tưởng đẹp hoài không giảm,
    Quá lạc lầm quí mến thân ta,
    Sắm đồ trang sức, xa hoa,
    Ðiểm tô cho đặng, đẹp ra tuyệt trần.
    Dụng kính, lược, dự phần chải gỡ,
    Giồi phấn son, sặc sỡ thêm duyên,
    Chẳng vừa sở tạo tự nhiên.
    Lấp mùi hám trược, ướp liền nước thơm.
    Công trang điểm, sớm hôm không dứt,
    Dáng bên ngoài đến cực kỳ xinh,
    Ðủ các tư cách gợi nhìn,
    Thật ra nào khác như hình trái sung.
    Xác ô uế, đều cùng nam nữ,
    Túi đựng đầy những thứ đồ dơ,
    Lại còn biến đổi dường mơ,
    Chậm, mau, rồi cũng có ngày tiêu tan!
    Hữu tình đến vội vàng tuổi hạc,
    Mái tóc xanh trắng bạc như bông,
    Dầu cho cạn trí hết lòng.
    Cản ngăn nó cũng vẫn không nghe nào.
    Tay chơn thảy mòn hao, gầy yếu,
    Lần lần còn xương chịu lấy da,
    Thôi thời tráng kiện đã qua,
    Vô thường xô đuổi, tuổi già đến thay.
    Mắt sáng suốt những ngày rực rỡ.
    Chưa bao lâu đã trở nên lờ,
    Trông xa các vật tờ mờ
    Nhãn quan suy kém, có chờ cho đâu,
    Ðồng thời phát khổ sầu tai điếc,
    Lắng mà nghe chẳng thiệt tiếng tăm,
    Nghe lầm, ắt nói lại lầm,
    Nhĩ quan đã hẳn âm thầm hoại tiêu.
    Cuộc biến đổi rất nhiều cơ sở,
    Ðây trưng ra mấy cớ thật gần,
    Như răng, phải rụng lần lần,
    Ðó là triệu chứng tấm thân đã già.
    Tham luyến sống, cũng là phải chết,
    Thân hữu hình, chưa hết bao lâu,
    Thế rằng: "Sanh tử quan đầu".
    Ta nên lấy nó làm câu răn mình.
    Cũng có kẻ quá tin sức khỏe.
    Tâm trẻ con, thân thể đã già.
    Có ai kêu thử, ÔNG, BÀ.
    Dầu không oán giận, cũng là không vui
    Nghe tiếng gọi ngậm ngùi không dĩ,
    Trái lại kêu bằng CHỊ hay ANH,
    Tưởng mình đương độ xuân xanh,
    Vui mừng thỏa mãn, làm lành thêm lên,
    Hạng người thế không nên ái truất,
    Người chẳng thông kinh luật khuyên răn,
    Hạng này hay có làm xằng
    Ai thân cận lắm, ắt hằng nhơ lây,
    Nghĩ chín chắn thân này ắt hoại.
    Ðã nhớp nhơ mà lại không bền,
    Khổ, Già, đeo đuổi một bên,
    Khổ Ðau, liên tiếp cho thêm não nề,
    Ôi! Thảm khốc, nhắc về Bịnh khổ,
    Một cơn đau phát lộ đến ta,
    Do nhiều bịnh chứng hà sa,
    Toàn thân rũ riệt thiết tha lắm hồi.
    Bệnh suyễn, mệt, nói thôi không xiết,
    Bịnh ho, lao, bịnh kiết, ung thư,
    Ghẻ chốc, tê, bại cốt hư,
    Ðàn ông cũng phải chịu như đàn bà,
    Bịnh cùi, lác, thúi da, lầy lụa.
    Những lang ben ăn túa châu thân,
    Nhức đầu, xổ mũi, rút gân,
    Phù thủng sưng khắp tay chân, mặt mày,
    Lưng gối mỏi, thiên thời, gió rét,
    Bịnh đau răng, mũi ngẹt, trái ban,
    Sưng phổi, cạn mật, héo gan,
    Những bệnh hư thận nhiệt hàn cũng lo,
    Cử đôi bịnh, nghiệm cho ra lẽ,
    Dầu bịnh cơ nặng nhẹ khác nhau,
    Nhưng mà đã phải vương đau,
    Khổ thân chẳng biết tả sao cho cùng,
    Ðời hay nói: "Ðau chân hả miệng",
    Ngoài thuốc thang còn chuyện dị đoan
    Nhờ thầy bố trận, lập đàn,
    Ông này, bà nọ cầu an đêm ngày,
    Sợ có sự nạn tai dồn dập,
    Cầu hỏi cho đặng gặp cơ duyên,
    Hết lòng khấn vái chư Thiên,
    Hộ căn bịnh ấy, giảm thuyên từ rày,
    Vong cha mẹ trên mây, ngoài gió,
    Hoặc ông bà, mà có hiển linh,
    Xin về độ bịnh mạnh lành.
    Sửa sang tế vật, lòng thành dâng cho
    Bởi lầm lạc chẳng lo kinh kệ.
    Mãi chuyên cần, tế lễ cầu xin.
    Bịnh do nghiệp chướng của mình,
    Há vì cúng quảy bịnh tình thoát sao,
    Thân đã có, nguồn đau phải có,
    Mãi tối tăm chẳng rõ hiệp tan,
    Chúng sanh trong cõi thế gian,
    Nặng nhẹ đều phải vương mang bịnh trần
    Chỉ tránh khỏi có phần LA HÁN,
    Cảnh NIẾT BÀN dứt nạn khổ đau,

    Còn trong ba cõi trần lao.
    Những sự chết, sống ốm đau là thường
    Thấy bịnh hoạn cảm thương thân thế,
    Cũng toan lo, tìm kế giải sầu,
    Khổ đau càng thấm càng lâu,
    Rồi đến khổ CHẾT bắt đầu dấn theo.
    Khi khổ CHẾT đã gieo mầm dữ,
    Thân chúng sanh mất sự thăng bằng,
    Trẻ già đều phải hãi hùng,
    Nhưng gần đến chết thì lòng hay quên,
    Cơn hấp hối, run lên không dứt,
    Khắp thân mình, thịt giựt, gân thun,
    Tay chơn chuyển động vẫy vùng,
    Ruột, gan, dao cắt vô cùng đớn đau,
    Ngày tận số, lâu, mau đã tới,
    Cái THỨC THẦN lìa với xác dơ,
    Rồi thân ba khúc nằm trơ,
    Toàn thây lạnh buốt, cứng rờ như cây,
    Quyến thuộc vẫn trông thây than tiếc,
    Người chết rồi còn có biết chi,
    Thân kia đã gọi thây thi.
    Con người ấy gọi là đi qua đời.
    Khi đã chết không nhờ của cải,
    Cùng vợ chồng, con cái, mẹ cha,
    Anh em, quyến thuộc, gần xa,
    Khó trông dīu dắt, cõi ma, một mình,
    Thậm chí đến, đồng trinh cắc bạc,
    Ðể trong môi, người thác theo lề,
    Cũng không đem được dựa kề,
    Cõi trần để lại, ra về HỒN không!
    Quỹ VÔ THƯỜNG, vô song quyền thế
    Giết chúng sanh bất kể gái trai,
    Giết người chẳng lựa cho hay,
    Dầu CHƯ THIÊN cũng bị tay vày vò,
    Ðời sanh sống làm cho tiêu diệt,
    Sát sanh linh chẳng biết xót than!
    Chỉ trừ một cõi NIẾT BÀN
    VÔ THƯỜNG chẳng dám lộn hàng đến đây,

    Bởi chưng ở cảnh này tịch tịnh,
    Ðầy yên vui chẳng dính bụi trần,
    Phước báu to lớn muôn phần,
    Chẳng hư, chẳng hoại là thân vàng ròng,
    Tưởng chết sống, sanh lòng phiền não,
    Muốn khỏi thì rán tạo phước duyên,
    Cố công TRÌ GIỚI, THAM THIỀN,
    Ðặng có kết quả, về miền AN VUI
    Chớ hờ hững dễ duôi sự ác,
    Ðừng để cho lầm lạc càng tăng,
    Tỉnh liền, vun tưới thiện căn,
    Nghiệp theo chẳng kịp, khi thăng NIẾT BÀN
    Nếu lần lựa, muộn màng sanh hại,
    Cũng đừng nên ỷ lại vào ai,
    Bút thô (Buddho) một tiếng Tăng bày,
    Trong cơn hấp hối, niệm sai, lạc đường.
    Ta nên nhớ VÔ THƯỜNG, KHỔ NÃO,
    Ðừng đợi cho nghiệp báo đến nơi.
    Ðọa đày vừa lúc tắt hơi,
    Bốn đường ác đạo đời đời khó ra,

    Sự khổ chết, nguyên là nghiệp dữ,
    Luật luân hồi, tử tử, sanh sanh.
    Còn khổ quả báo sẵn dành,
    Chính ta gây kết đã thành từ lâu,
    Vô minh đã gieo sâu nhân ác,
    Nhân đến hồi kết các quả sầu,
    Do câu "THIỆN ÁC ÐÁO ÐẦU"
    Về sau phải chịu, vui rầu chẳng sai.
    Vì lầm lạc giữ hoài tâm ác,
    Cõi trần này giết thác sanh linh.
    Mà không một chút niệm tình,
    Cứ làm việc dữ, tự mình không lo,
    Vật có chủ, không cho cũng cắp,
    Vợ con người, mê hoặc tà dâm
    Tính toan mưu kế âm thầm
    Chẳng kiên luât pháp, tối tăm làm liều,
    Nói dối cũng một điều rất dữ,
    Lòng phát ra miệng cứ nói đùa
    Có người uống rượu say sưa,
    Dầu ai thức tỉnh, không chừa thói quen.
    Cõi hiện tại, nhúm nhen, ngũ nghiệp
    Tánh xấu xa chẳng kịp đổi thay,
    Chết rồi phải bị đọa đày,
    Xuống nơi ÐỊA NGỤC chịu hoài nạn tai,
    Các tội ác không sai một bước,
    Bóng theo hình, cái trước, cái sau,
    Nhân nào quả nấy, liền nhau
    Mình gây mình chịu, ai vào giúp ta,
    Bị quỷ sứ hành hà đánh đập,
    Kéo lôi bừa, bầm dập, chẳng thương,
    Lửa phiền thiêu đốt thịt xương.
    Chết sống, sống chết luôn luôn không ngừng.
    Sự khổ cực bởi thân ác báo,
    Gái hay trai, đã tạo phải mang,
    Cảnh này ác quả đã tan,
    Sanh làm NGẠ QUỈ nhẹ nhàng đôi phân.
    Giống ngạ quỉ toàn thân ghê tởm,
    Ðói khát khao, hôm sớm nhe nanh,
    Ăn ròng máu mủ hôi tanh.
    Hết kiếp ngạ quỉ tái sanh lên đời.
    Loài súc vật trên bờ dưới nước.
    Lớn nhỏ, vì từ trước dễ duôi,
    Ðành cam số phận hẩm hiu,
    Làm những vật thực để nuôi mạng người,
    Bắt giết hại mấy mươi chẳng tiếc,
    Tàn sát cho đáng nghiệp hồi xưa,
    Hành hình thảm khốc mới vừa,
    Ðó là QUẢ BÁO có chừa chi ai,
    Cũng có kẻ đầu thai THẦN QUỈ
    A TU LA, NGẠ QUỈ khác chi,
    Cũng đều đói khát nhiều khi,
    Chịu chẳng biết mấy TĂNG KỲ[*] kiếp lâu
    Kiếp quá khứ rất giàu tội khổ,
    Tội khổ này chẳng bỏ sót ai,
    Chúng sanh khắp hết bốn loài,
    Thấp hóa, không hạn. Noản thai chẳng trừ,
    Nhân ác đã gieo từ vô thỉ,
    Quả xấu xa trực chỉ gieo mình,
    Làm cho tất cả chúng sanh,
    Mỗi kiếp phải chịu khổ hình như trên.
    Cõi giả tạm dường tên thắm thoát,
    Kiếp này qua, kiếp khác đến thay,
    Rồi trong những kiếp vị lai.
    Cũng là khổ não bao vây liền sát,
    Khiến chúng sanh lầm lạc thêm hoài.
    Vì chưa thoát khỏi trần ai.
    Nên những nghiệp dữ không ngày nào xa.
    Ðây ta thử xét qua hiện tại.
    Chẳng khổ nào sánh lại khổ ăn,
    Vì nhân đói khát, khó khăn,
    Muốn cho no đủ, nên hằng phải lo,
    Nghèo sạch đất, giàu to cũng thế.
    Nhọc ưu tư, nào kể ngày đêm.
    Có rồi lại muốn có thêm,
    Bằng người chưa có cũng tìm cho ra,
    Nếu biếng nhác ở nhà thong thả,
    Ăn không lo, lỡ cả núi sông,
    Mối ăn nặng cánh bên lòng.
    Mãn nuôi mạng sống, dày công liệu lường,
    Già chí trẻ vẫn thường lam lụng,
    Làm kiếm ăn phải dụng tấm thân,
    Xác thịt lẫn với tinh thần,
    Khó khăn cũng chịu, nhọc nhằn cũng cam,
    Bịnh đói khát hằng ngày vất vả,
    Thuốc dầu hay, chẳng đã tật này,
    Không được ăn uống, ốm gầy,
    Càng lâu ắt phải bỏ thây cõi trần,
    Ăn hay gấp mấy lần diệu dược,
    Có ăn rồi, bịnh được giảm thuyên,
    Chúng sanh dầu biếng cũng siêng,
    Không sao tránh khỏi phải quyền sanh nhai.
    Có kẻ rán cấy cày, đào, cuốc,
    Luống chuyên cần, rẫy bái ruộng nương,
    Kẻ thì làm mướn, bán buôn.
    Biết bao khổ cực, luôn luôn một đời.
    Người giàu có, thảnh thơi đôi chút.
    Bởi từ xưa quả phúc vo tròn.
    Cõi trần, hái trái ngọt ngon
    Khỏe thân, nhưng cũng vẫn còn khổ tâm
    Những khổ não đã lần lượt giải
    Vắn tắt đây, đại khái tám điều
    Chúng ta lấy đó làm nêu,
    Gái trai cũng phải chịu điều khổ lao
    Biết rõ khổ, ta mau thức tỉnh
    Rán tu hành, Giới Ðịnh làm căn.
    Mong cầu giải thoát trói trăn
    Trần khổ xa tách nhẹ thăng Niết Bàn.



    Thiển ý của tôi:

    “Huynh nói rằng phước báu giữ 5 giới sẽ ngăn việc tái sinh vào 4 khổ cảnh. Tôi cũng được học như vậy. Nhưng tôi vẫn có 1 thắc mắc rằng, trước khi 1 người thọ 5 giới và giữ giới tròn đủ, thì người đó đã từng gây ác nghiệp có thể rơi vào khổ cảnh, và tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na thứ 7 trong đổng lực tâm, tức là quả sẽ trổ sinh trong kiếp kế. Vậy nếu không bị đọa xuống khổ cảnh do phước báu giữ 5 giới, thì quả của ác nghiệp sẽ trổ sanh thế nào?”

    Câu “Nghiệp theo chẳng kịp khi thăng Niết Bàn” đã là lời khẳng định. Lúc Hữu Dư Niết Bàn thì thân tứ đại còn thọ quả của Nghiệp Thiện, Nghiệp Bất Thiện đã gieo nhân từ trước. Khi Vô Dư Niết Bàn thì tất cả rớt trở lại (không theo vị ấy nữa).

    Đức Phật Thích Ca (hữu dư Niết Bàn) có thọ quả thân bất thiện nghiệp, cho nên Ngài gặp những việc này:

    1- Đề Bà Đạt Đa oan trái, cố ý hãm hại Phật.
    2- Đề Bà Đạt Đa lăn đá làm bầm ngón chân của Phật.
    3- Lương Y Jivaka dùng dao mổ (lấy máu bầm) nơi ngón chân của Phật.
    4- Nàng Cinca vu khống Phật.
    5- Voi Nalagiri định xông đến với ác tâm sẽ chà đạp Phật.
    (Theo “Tám Sự Tích Phật Lực”, Tỳ Khưu Hộ Pháp, Webmaster: binhanson.com”

    Nhân sanh Quả là tất nhiên, nhưng cần có duyên thì Nhân mới có cơ hội trổ Quả.

    Mùa thu vừa qua tôi bỏ vào chậu đất một nhúm hột ớt. Một tuần sau thì thấy lú nhú nhiều mầm non. Tôi định sẽ mua chậu nhỏ, chiết cây ớt ra, nhưng bận nhiều việc nên quên. Tôi quên cả tưới nước. Chúng chỉ uống nước mưa từ ngoài hiên hắt vào. Trời se lạnh. Khi tôi nhớ đến thì tất cả những cây ớt ngủ luôn rồi. Tất cả hạt gieo vừa nhú lên, chưa cao đến một ngón tay, đã lụi tàn, không ra trái; tại vì thiếu Duyên: đất, phân bón, nắng, nước, và thời tiết.


    Thọ trì Ngũ Giới có 83 quả phúc:

    1- Không Sát Sanh có 23 quả phúc.

    2- Không Trộm Cắp có 11 quả phúc

    3- Không Tà Dâm có 20 quả phúc.

    4- Không Nói Dối có 14 quả phúc.

    5- Không Uống Rượu có 15 quả phúc.
    (Theo quyển: “Cư Sĩ Giới Pháp”, Tỳ Kheo Giác Giới, Theravada, Webmaster: binhanson.com)


    Như vậy, đối với người thọ trì Ngũ Giới cho được tròn đủ thì (bản thân của) NGŨ GIỚi là DUYÊN cho những Nhân Thiện trổ quả lành trước, như vậy, Nhân Bất Thiện THIẾU DUYÊN để trổ quả. Thêm vào đó, 83 quả phúc lành của Ngũ Giới cũng là DUYÊN “xóa mờ” lối vào 4 ác đạo và là DUYÊN đưa người giữ Ngũ Giới (được tròn đủ ấy) xa dần, xa dần lối vào 4 đường ác đạo. Nếu người ấy tu tập để “Giới năng sanh Định”, thì các tầng trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới lại là DUYÊN “ngăn sông, cách núi” lối vào 4 ác đạo. Nếu người ấy tu tập để “Định năng sanh Tuệ” và Giải Thoát, Giác Ngộ, Niết Bàn thì …chấm dứt tất cả DUYÊN (để Nhân nương vào sanh Quả).


    Như vậy, những Bất Thiện Nghiệp đã làm của một người trước khi giữ tròn Ngũ Giới đã nhờ Giới nâng đỡ, đã nhờ Giới làm DUYÊN , đã nhờ 83 quả phúc của Giới làm DUYÊN “đóng cửa” lối vào Atula, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục.

    Và như thế, không những chỉ có những tác ý tạo Ác Nghiệp rơi vào những sát-na tâm thứ 7 của Tâm Đống Tốc (9-15) thiếu duyên để trổ Sanh Báo Nghiệp, mà tất cả những tác ý tạo Ác Nghiệp rơi vào những sát-na tâm thứ 2 (10), sát-na tâm thứ 3 (11), sát-tâm thứ 4 (12), sát-na tâm thứ 5 (13), sát-na tâm thứ 6 (14) đều thiếu duyên để trổ Hậu Báo Nghiệp.


    Tôi đã trình bày xong thiển ý của tôi về hai câu hỏi của Huynh. Mong rằng, cho dù không hiểu đúng về Vi Diệu Pháp, Huynh và tôi vẫn an vui do bởi tác ý làm lành, lánh dữ. Mong Huynh hoan hỷ!


    Tôi kính gửi trích đoạn về Ngũ Giới - trong quyển “Cư Sĩ Giới Pháp” đến Huynh và đến những ai muốn tránh xa 4 đường ác đạo.

    “Ngũ giới là năm giới căn bản mà người cư sĩ phải giữ đến trọn đời nên ngũ giới cũng được gọi là Thường nhật giới (niccasīla), gồm năm điều là:

    1- Kiêng tránh sát sanh (pāṇātipātā veramaṇī), tức là tránh sự giết hại các sinh vật, loài có thức tánh. Gọi là giới sát sanh.

    2- Kiêng tránh trộm cướp (adinnādānā vera-maṇī), tức là tránh sự đoạt lấy tài sản sở hữu của người khác mà người đó chưa bằng lòng cho. Gọi là giới trộm cắp.

    3- Kiêng tránh tà hạnh dục lạc (kāmesu micchā-cārā), tức là tránh sự quan hệ tình dục bất chính với người khác ngoài vợ hoặc chồng của mình. Gọi là giới tà dâm.

    4- Kiêng tránh sự nói dối (musāvādā), tức là tránh nói lời không đúng sự thật, lừa dối người khác; thậm chí không nói dối để vui cười. Gọi là giới nói dối.

    5- Kiêng tránh sự uống rượu và chất say (surā-merayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī) tức là tránh sự say sưa rượu chè, không uống các loại chất say. Gọi là giới uống rượu.


    CHI CỦA GIỚI (Aṅga)

    Chi của giới, tức là những điều kiện để kết luận một hành động sai phạm mà chỉ là bất tịnh giới hay hư hoại giới. Một hành động sai phạm mà gọi là đứt giới phải hội đủ chi phần; nếu chưa hội đủ chi giới thì chỉ là bất tịnh thôi.
    Ở đây không nói riêng biệt chi của ngũ giới và chi của bát quan trai giới, mà chỉ nói chung những điều giới cần phải biết.

    * "Giới sát sanh" có 5 chi:

    1- Đối tượng bị hại là sinh vật có thức tánh (pāṇa).
    2- Kẻ giết biết rõ đối tượng là sinh vật (pāṇa-saññī).
    3- Có tâm sát hại (vadhakacitta)
    4- Hành động cố sát (upakkamo)
    5- Đối tượng bị chết vì sự cố sát ấy (tenama-raṇaṃ)
    Hội đủ 5 chi này mới gọi là phạm giới sát sanh.


    * "Giới trộm cắp" có 5 chi:

    1- Vật bị lấy là vật có chủ bảo quản (paraparig-gahitaṃ).
    2- Kẻ lấy biết rõ là vật có chủ (paraparigga-hitasaññī)
    3- Có tâm trộm cắp (theyyacittaṃ)
    4- Cố sức lấy trộm (upakkamo)
    5- Vật đã bị đem đi khỏi chỗ do sự trộm ấy (tena haranaṃ)
    Hội đủ 5 chi này mới gọi là phạm giới trộm cắp.


    * "Giới tà dâm" trong ngũ giới, có 4 chi:

    1- Đối tượng không nên đi đến (agamanīyat-thānaṃ), tức là người không hợp pháp cho quan hệ tình dục.
    2- Có tâm muốn hưởng dục với người ấy (tasmiṃ sevanācittaṃ)
    3- Cố gắng hành động (upakkamo)
    4- Đã hành động tình dục (maggena maggappa-ṭipādanaṃ)
    Hội đủ bốn chi này gọi là phạm giới tà dâm.


    * "Giới hành dâm" trong bát quan trai giới, có 4 chi:

    1- Có lỗ khiếu để hành dâm (bhedanavatthu), tức là trong thân có 3 khiếu, tính theo hạng người tổng cộng có 30 khiếu.
    2- Có tâm muốn hướng dục (sevanācittaṃ)
    3- Cố gắng hành động theo ý muốn (tajjovā-yāmo)
    4- Đã hành động tình dục (maggena maggappa-ṭipādanaṃ), là đã làm cho khiếu chạm khiếu.
    Hội đủ 4 chi ấy gọi là phạm giới hành dâm.


    * "Giới nói dối" có 4 chi:

    1- Chuyện không thật (atathaṃvatthu) tức là chuyện có nói không, chuyện không nói có.
    2- Có tâm muốn nói sai (visaṃvādanacittaṃ)
    3- Cố gắng nói sai (tajjo vāyāmo)
    4- Người nghe đã tin chắc lời nói đó (parassa tadatthavijānānaṃ)
    Hội đủ 4 chi này gọi là phạm giới nói dối.


    * "Giới uống rượu" có 4 chi ":

    1- Thức uống là chất say (majjanīyavatthu), tức là nước uống có nồng độ
    2- Có tâm muốn uống (Pātukamyatācittaṃ)
    3- Cố sức uống chất say ấy (tajjo vāyamo)
    4- Đã uống nước say ấy (tassa pānaṃ), tức là dù một giọt rượu nuốt khỏi cổ cũng gọi là uống rượu.
    Hội đủ 4 chi này gọi là phạm giới uống rượu.


    PHÁP HỔ TRỢ CHO GIỚI.

    Người cư sĩ cần phải tu tập năm pháp lành (kalyānadhamma), là pháp hỗ trợ cho sự giữ giới tốt đẹp (atthakathā):

    1) Từ bi (mettākaruṇā), tính hài hoà vô sân, có lòng trắc ẩn trước đau khổ của chúng sanh mọi loài. Khi người cư sĩ tu tập đức tính này thì sẽ không nỡ hại chúng sanh, không nỡ đoạt mạng sống các sinh vật. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ nhất (tránh sự sát sanh).

    2) Chánh mạng (sammā-ājiva), có sự tinh tấn trong việc nuôi mạng, quyết không nuôi mạng bằng nghiệp bất thiện. Khi người cư sĩ vui sống chánh mạng sẽ không nghĩ đến gian tham trộm cướp tài sản của kẻ khác. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ hai (tránh sự trộm cắp).

    3) Phòng hộ dục trần (kāmasaṃvara). Kềm giữ tâm không đam mê sắc dục, luôn thấy được sự nguy hiểm của ngũ trần. Khi người cư sĩ có sự thu thúc như vậy sẽ không khởi lên tà ý với vợ con người khác. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ ba (tránh sự tà dâm).

    4) Chân thật (sacca). Tính ngay thẳng trung thực, ưa thích sự thật, không thích dối trá. Khi người cư sĩ vui trong pháp chân thật sẽ khó chịu nếu nói dối. Đây là pháp hỗ trợ giới thứ tư (tránh sự nói dối).

    5) Chánh niệm tỉnh giác (satisampajañña). Sống kiểm soát và nhận thức, ghi nhớ và suy niệm. Khi người cư sĩ quen sống chánh niệm tỉnh giác sẽ không có sự dể duôi quên mình.

    Đó là pháp hỗ trợ giới thứ năm (tránh uống rượu).


    QUẢ PHÚC CỦA SỰ TRÌ GIỚI

    Sự trì giới có rất nhiều lợi ích. Trước hết là giữ giới có năm điều lợi ích thiết thực (Ud.86):

    1- Nhờ sự không dể duôi mà đạt được tài sản lớn.
    2- Có danh thơm tiếng tốt đồn xa.
    3- Đi đến hội chúng, tâm dạn dĩ ung dung
    4- Lúc chết không hôn mê
    5- Sau khi chết, được sanh vào nhàn cảnh thiên giới.

    Có lợi ích thiết thực khác nữa (A.V.1) như Đức Phật dạy cho tôn giả Ānanda rằng:

    "Này Ānanda, giới là thiện, giới có mục đích là bất hối, có lợi ích là bất hối".

    Khi người giữ giới không làm những điều lỗi lầm tội ác, do vậy, người ấy không bị ray rứt lương tâm, không sống trong trạng thái hối hận, tâm được an lạc tự tại.

    Người cư sĩ thọ trì chín chắn ngũ giới, nếu nói riêng mỗi điều giới thọ trì có quả phúc như sau:

    "Không sát sanh" có 23 quả phúc:

    1- Được trường thọ
    2- Thân không tàn tật
    3- Ít bệnh hoạn
    4- Thân hình vừa vặn
    5- Thân thể xinh tốt
    6- Tướng khoan thai cao ráo
    7- Cử chỉ linh hoạt
    8- Bước chân đi dáng đẹp
    9- Vẻ mặt tươi sáng
    10- Tính tình nhu hòa
    11- Tinh thần an vui
    12- Tâm dạn dĩ dũng cảm
    13- Có nhiều sức mạnh
    14- Nói năng bặt thiệp
    15- Không bị quần chúng bắt nạt
    16- Không có sự kinh hoàng sợ hãi
    17- Không bị kẻ thù hãm hại
    18- Không bị chết do người cố sát
    19- Không có chuyện bực mình
    20- Thân thể sạch sẽ
    21- Có đông tùy tùng
    22- Được mọi người thương mến
    23- Không gặp cảnh sanh ly tử biệt


    "Không trộm cắp" có 11 quả phúc:

    1- Có nhiều của cải
    2- Có thực phẩm đầy đủ
    3- Kiếm được thực phẩm dễ dàng
    4- Có được tài sản chưa có
    5- Tài sản có rồi được giữ vững
    6- Muốn gì được đó
    7- Tài sản không bị tiêu hao do thiên tai, hoả hoạn, trộm cướp, tịch biên hay do người thân.
    8- Có được tài sản không bị tranh đoạt.
    9- Không bị nghe và biết "sự không có".
    10- Ở đâu cũng được an vui.
    11- Dễ đạt được tài sản Siêu thế.


    "Không tà dâm" có 20 quả phúc:

    1- Không bị thù địch
    2- Không bị người ganh ghét
    3- Không bị tai nạn do người hại
    4- Ít bị xa lìa người thương
    5- Là chỗ thương yêu của mọi người
    6- Có nhiều thân hữu quí mến
    7- Tìm cái ăn, cái mặc, chỗ ở dễ dàng
    8- Ngủ nghỉ được an vui
    9- Thức giấc được an vui
    10- Nằm ngồi chỗ nào cũng an vui
    11- Sinh kế không khó khăn
    12- Không dễ bực mình
    13- Không sanh khổ cảnh
    14- Không sanh làm người bán nam bán nữ
    15- Tánh người nghiêm túc
    16- Làm việc minh bạch
    17- Tướng mạo uy nghi
    18- Ngũ quyền (mắt, tai ... ) đầy đủ
    19- Cổ không cúp, "Tức là có oai phong"
    20- Không gục mặt, "Tức là có uy quyền"


    "Không nói dối" có 14 quả phúc:

    1- Có ngũ quyền (mắt, tai ... ) được trong sáng
    2- Có lời nói thanh tao
    3- Có hàm răng khít khao đều đặn
    4- Không quá mập
    5- Không quá ốm
    6- Không quá cao
    7- Không quá lùn
    8- Được hưởng xúc lạc
    9- Miệng thơm như hoa sen
    10- Lưỡi mỏng đỏ như cánh sen
    11- Không câm ngọng
    12- Có được kẻ tùy tùng tín cẩn
    13- Lời nói được tín nhiệm
    14- Tâm trí không bị rối loạn


    "Không uống rượu", có 15 quả phúc:

    1- Làm người có trí nhớ tốt, không bị lẫn
    2- Không bị điên khùng, đờ đẫn
    3- Có sự hiểu biết mau lẹ
    4- Thành người đa trí
    5- Làm người tri thức
    6- Làm người hiểu biết điều lợi ích và điều không lợi ích.
    7- Làm người không hoảng hốt
    8- Làm người không có sự bực bội
    9- Không bị người vu khống
    10- Làm người nói năng nghiêm túc
    11- Làm người siêng năng chăm chỉ
    12- Làm người tính trung thực
    13- Làm người có liêm sỉ
    14- Luôn có sự an vui
    15- Luôn được người kính nể.

    Đó là những quả phúc của việc trì giới”


    Rất hoan hỷ được học tập cùng Huynh, Huynh Workerbee!

    Chúc Huynh an lành. Chúc tất cả thành viên an lành.

    Trân Trọng
    CUUBAOLONG
    Last edited by CUUBAOLONG; 26-03-2012 at 07:05 PM.

  4. #164

    Mặc định

    QUA câu chuyện của thầy,nhu tri biết vì sao mình như thế rồi ,và nhu tri sẽ cố gắng làm nhiều việc lành ,cố gắng tu để không phụ lòng các vị đã giúp nhu tri được tồn tại mà tu tập trong thời gian qua
    SỐNG THẬT TỐT MỘT NGÀY,NGÀY MAI LÀ NGÀY MỚI,MỘT NGÀY MỚI ĐỂ SỐNG TỐT.ĐỂ RA ĐI KHÔNG CÓ GÌ HỐI HẬN.MÔ PHẬT
    HOAN HỶ THAY ,HOAN HỶ THAY.
    Last edited by nhutri; 26-03-2012 at 07:11 PM.
    VẤN TÂM VÔ HẬN

  5. #165

    Mặc định

    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.

    HOAN HỶ ,KÍNH TẶNG THẦY CÙNG MỌI NGƯỜI ĐỒNG HOAN HỶ.
    KINH DÂNG LÊN BẬC TÔN TÚC ĐÓA HOA TÂM ,KÍNH CÁC NGÀI ĐÓN NHẬN.
    VẤN TÂM VÔ HẬN

  6. #166

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nhutri Xem Bài Gởi
    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.

    HOAN HỶ ,KÍNH TẶNG THẦY CÙNG MỌI NGƯỜI ĐỒNG HOAN HỶ.
    KINH DÂNG LÊN BẬC TÔN TÚC ĐÓA HOA TÂM ,KÍNH CÁC NGÀI ĐÓN NHẬN.
    SÀDHU, SÀDHU, SÀDHU!
    CHÚC CON, NHƯ TRÍ VẠN ĐIỀU AN LÀNH!

  7. #167

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Dark_Angel Xem Bài Gởi
    Thầy CUUBAOLONG ơi ?!? Thầy cho con hỏi chuyện này 1 chút nha ?!? Khoảng 3 ngày nay tự nhiên con như có bà nhập vậy !Ngồi chat với người ta tự nhiên con nghe ai nói trong tai rồi con cứ thế mà type rồi gửi cmt .Vậy mà người ta lại giật mình,hỏi con bộ đang rình người ta hay sao mà thấy vậy ?!? có 1 người có mắt thứ 3 hay sao ấy_khi nghe con nói thật về việc con nghe tiếng nói rồi cmt lại chứ ko phải con thấy_người ta bảo nhìn thấy 2 sinh mệnh bóng tối cản đường( con dùng đúng từ của người ấy sử dụng) ko cho tiếp cận tìm hiểu về con ?!? Vì con cũng có nhờ người ta xem giúp con 1 số việc ! Vậy có phải con bị vong theo ám ko vậy Thầy ?!? Mà sao vong lại nói với con những bí mật của người ta chi vậy hả Thầy ?!?
    Chào Bạn Dark_Angel,

    Thông thường, chúng ta hiểu hai chữ "Vong ám" mang ý nghĩa xấu, điềm chẳng lành. Nhưng, nếu như Bạn đã có biết về các cảnh giới rồi, thì điều quan trọng cần phải biết là: "Vong là ai? Tại sao làm cái việc nói ra bí mật của người (Bạn đang tiếp xúc) cho Bạn biết, rồi lại cố tình để Bạn viết những điều đó ra (cho đối tượng biết luôn nữa)?"

    Bạn thử đặt câu hỏi này với "tiếng nói" kia, xem "người" trả lời như thế nào nhé!

    Chúc Bạn an lành.
    Mô Phật
    CUUBAOLONG
    Last edited by CUUBAOLONG; 27-03-2012 at 12:57 AM.

  8. #168

    Mặc định

    hihi... tối ngày lảm nhảm bởi vậy tui đưa ông vô nhóm ma sì pam của bà Minh Đài và Ouriertor là phải rồi... hihi...
    The Truth Will Set You Free
    The Lie Will Make You To Be Slave.

  9. #169

    Mặc định

    thầy ơi cho con xin chén trà thanh nhiệt. hi
    chánh niệm khó quá thầy ạ. hôm nay con đi tập yoga mà k tập nổi luôn vì k concentrate my mind được, dù thầy giáo luôn mồm nhắc. những cái ngày thường làm ngon ơ thế mà hôm nay k làm nổi, vô số lần chỉ muốn bỏ về, điều chưa từng xảy ra trước đó, dù chỉ là trong ý nghĩ.
    be here, inhale, exhale, deep breath,.. đơn giản thế mà sao bỗng dưng khó quá đi thôi. để buông quả thực k dễ, dù lý trí có gào thét, nhưng cũng chỉ là lời nói hay khẩu hiệu.
    đã thế tay, chân, giữa trán, đỉnh đầu, đầu mũi, giữa ngực, ... nó nặng, nó rấm rứt, khó chịu. đừng chấp, cả những cảm giác về thân và tâm. nhưng lại lần nữa, sao khó quá thầy ơi.
    lấy mấy cái trò đời ra mà lấp liếm, nhưng không nổi. cứ mãi loay hoay.
    vẫn còn đi còn đi

  10. #170

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Dark_Angel Xem Bài Gởi
    Con cám ơn Thầy đã quan tâm và trả lời cho con ! Nhưng con nghĩ là Thầy đã hiểu lầm do 1 số thông tin nào đó mà Thầy mới nhận được ! Không phải những thông tin của người ta con nhận được từ một " người " nào đó đâu, nên cũng ko thể có việc con nói ra cho người ta biết là làm theo cái muốn của" người " cung cấp thông tin + thêm cái muốn của con ! Thật sự là chuyện này ngoài khả năng kiểm soát của con,vì cái " tiếng nói " kia ko phải của " con người " ?!? và rõ ràng là con bị sự chi phối của cái " tiếng nói " sinh ra từ mục đích của 1 đối tượng " ko phải người " và hoàn toàn ko thể phản kháng ?!? Nếu là " người ",1 khi con đã nhận ra ngta muốn chi phối mình thì chẳng cần phải hỏi con cũng có thể xử lý được ! Nhưng đây là 1 lực siêu nhiên nên con đành pó tay và phải làm phiền Thầy giúp đỡ !
    Nếu Thầy có ý nhắc nhở con là cái tiếng nói ấy phải hỏi " người " hiểu theo cách đó là tiếng nói từ " ma Tâm " của con thì làm sao mà con hỏi được ạ ?
    Đã là " ma Tâm " thì dù nó có trả lời cũng chắc gì là thật,có thể tin được hay sao ?!? :worried:
    Chào Bạn,

    "Người" trong ngoặc kép là tôi nói về phi nhân, về vong đó!

    Đừng ngại trường hợp có "tiếng nói siêu nhiên" bên tai Bạn là tại vì Bạn là người có tâm xấu, tâm ma, nên có "ma tâm". Đôi khi do tâm Bạn bất thiện sanh khởi "ma tâm". Đôi khi Bạn có tâm thiện vẫn nghe tiếng nói của phi nhân. Phi nhân họ muốn nói với Bạn điều gì đó, muốn làm cho Bạn điều gì đó. Tốt, xấu, thiện, ác, ... chưa biết thôi.

    Trường hợp phi nhân cũng "mỗi người một vẻ", nói chung chung không tiện. Nếu Bạn cần, Bạn hỏi "họ" đi. "Họ" trả lời thế nào, Bạn nhắn tin riêng, tôi giúp Bạn kiểm chứng nhé!

    Mô Phật
    CUUBAOLONG

  11. #171

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi ynguoiloitoi Xem Bài Gởi
    cô..........ơi............bây giờ con muốn quên một người con gái giờ làm sao đây cô...........càng cố quên thì càng nhớ hu hu..............
    Cô hiểu .....

  12. #172

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi ynguoiloitoi Xem Bài Gởi
    cô ơi........con có một chuyện nửa..........con hay nói linh tinh trên này..........nên bay giờ con có nói điều gì đi nửa thì cũng bị cho nói tào lao............chuyện đả vậy thì hông nói...............ngay cả cuộc sống bên ngoài cũng vậy.................hu hu...............chích con rùi............mà thui kệ ..............oan ức không cần biện bạch..........vì biển bạch là...........gì đó quên rùi :at_wits_end:
    Cô hiểu được tâm trạng này của con ..... chỉ chứng minh .....không biện minh ... mà cũng không cần chứng minh, biện minh gì hết ... con sống minh bạch trong chính thân tâm của con thì trời biết, đất biết ...

  13. #173

    Mặc định

    Chào Quý Bạn,

    Tôi đã save bài viết “PHI NHÂN: BỐN CHỊ EM … TRONG HAI CHỊ EM”. Tối lại, tôi rút cái extension "WD passport E" ra mà không turn off computer, bây giờ bài mất hết rồi, 15 trang luôn. Không sao từ từ tôi sẽ viết trở lại.

    Hôm nay, tôi copy bài viết từ mục “Phật Giáo Nguyên Thủy” và bài trình bày thiển ý của tôi về bài thuyết pháp “Quan Niệm Về Việc Phóng Sanh của Phật Giáo Nguyên Thủy” để các Bạn tham khảo nhé!

    Chúc quý Bạn an lành.





    Hu , hu , hu buồn ơi ..............là buồn :o:o:o

    Sư Phụ làm con nhớ cái bài Ca Dao gì mà:

    Công Anh bắt tép nuôi cò
    Cò ăn cò béo cò dò lên cây

    Còn Sư Phụ thì


    Công Sư rỏ rỏ mấy ngày
    Sư quên tắt điện , hết bài con xem ..................hu , hu ,hu :at_wits_end::at_wits_end::at_wits_end:

    Xin chúc Sư vui, khỏe, trẻ mãi không già he he :votay::votay:
    Last edited by vo minh cau dao; 27-03-2012 at 09:20 AM.
    Thiên đường hửu lộ vô nhân vấn
    Địa ngục vô môn, hửu khách tầm

    :thinking: :prayingpraying:2

  14. #174

    Mặc định

    HÌC HIC ..
    CÔ NGỒI GÕ NGÀY ĐÊM QUÊN MỆT NHỌC
    1 PHÚT RỜI CHÁNH NIỆM MẤT TOI CÔNG
    HIC HIC

  15. #175

    Mặc định

    MỘT TIA CHỚP TỪ THƯỢNG TỪNG KHÔNG KHÍ
    : SOI SÁNG THIÊN HÀ .
    : LỜI HIỆU TRIỆU NHỬNG VÌ SAO
    : VŨ TRỤ RÙNG MÌNH ...TĨNH GIẤC CHIÊM BAO
    : NGHÌN TRÙNG GIÓ ....CHUYỂN TIN ĐI MUÔN HƯỚNG
    : MÂY LỚP LỚP TẦNG TẦNG QUA KHẮP CHỐN
    : ĐÊM HOANG VU VỢI VỢI MỘT TẦNG KHÔNG
    : TRĂNG THẮP ĐÈN XUA BÓNG TỐI NGHÌN NĂM
    : VẨN THĂM THẲM 1 MÀU ĐÊM LỒNG LỘNG
    : MỘT TIA CHỚP ...VẠCH TRỜI CAO ..SOI NÚI THẨM
    : LỜI SẤM TRUYỀN RUNG CHUYỂN CÃ TRỜI QUANG
    : ĐÁ NÚI CAO DIONG629 VỌNG NHỮNG HUYỀN ÂM
    : VÀ NÚI LỠ ĐÁ LĂN LÒNG ĐẤT HẸP
    VÙNG TĨNH THỨC CẢ TRỜI NGƯỜI
    GIỜ CHUYỂN TIẾP ]
    NGỮA BÀN TAY ĐÓN ÂN SŨNG CỦA THƯỢNG THIÊN
    : PHÉP LÀNH BAN CHO MUÔN CHÚNG TÍN NHÂN
    t LẦN DẤU PHÁP DOI959 CHỜ DUYÊN XÓA NGHIỆP
    HOA THANH KHÍ NỞ TRÊN VÙNG UẾ TRƯỢC
    : XÓA HẬN THÙ MỞ RỘNG VÒNG TAY
    : BAO ĐAU THƯƠNG OAN TRÁI 1 KIẾP NGƯỜI
    : CAM LỘ THŨY RỮA SACH5 ĐỜI TRONG MUÔN MỘT
    : ĐÓA SEN TRẮNG GIỮA BÙN THÊM TINH KHIẾT
    : LIÊN HOA ĐÀI ĐÂU ĐỄ DẤU TRẦN HOEN
    : TỪ TẦNG CAO VỀ VỚI CÕI TRẦM LUÂN
    : MAI CHUYỂN KIẾP .....
    : LẠI TRỠ VỀ PHỤNG LỆNH
    : ...........................................
    : HUỆ MINH CHẤP BÚT
    : NGUOICONHUKHONG SUƯ TẦM

  16. #176

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vo minh cau dao Xem Bài Gởi
    Chào Quý Bạn,

    Tôi đã save bài viết “PHI NHÂN: BỐN CHỊ EM … TRONG HAI CHỊ EM”. Tối lại, tôi rút cái extension "WD passport E" ra mà không turn off computer, bây giờ bài mất hết rồi, 15 trang luôn. Không sao từ từ tôi sẽ viết trở lại.

    Hôm nay, tôi copy bài viết từ mục “Phật Giáo Nguyên Thủy” và bài trình bày thiển ý của tôi về bài thuyết pháp “Quan Niệm Về Việc Phóng Sanh của Phật Giáo Nguyên Thủy” để các Bạn tham khảo nhé!

    Chúc quý Bạn an lành.





    Hu , hu , hu buồn ơi ..............là buồn :o:o:o

    Sư Phụ làm con nhớ cái bài Ca Dao gì mà:

    Công Anh bắt tép nuôi cò
    Cò ăn cò béo cò dò lên cây

    Còn Sư Phụ thì


    Công Sư rỏ rỏ mấy ngày
    Sư quên tắt điện , hết bài con xem ..................hu , hu ,hu :at_wits_end::at_wits_end::at_wits_end:

    Xin chúc Sư vui, khỏe, trẻ mãi không già he he :votay::votay:
    Bài kg mất , nó vẫn còn trong máy ở trạng thái recover
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  17. #177

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nguoiconhukhong Xem Bài Gởi
    Một tia chớp từ thượng tầng không khí
    Soi sáng thiên hà...
    Lời triệu hiệu những vì sao
    Vũ trụ rùng mình ... tỉnh giấc chiêm bao
    Nghìn trùng gió ... chuyển tin đi muôn hướng
    Mấy lớp lớp tầng tầng qua khắp chốn
    Đêm hoang vu vợi vợi một tầng không
    Trăng thắp đèn xua bóng tối nghìn năm
    Vẫn thăm thẳm một màu đêm lồng lộng
    Một tia chớp... vạch trời cao ... soi núi thấm
    Lời sấm truyền rung chuyển cả trời quang
    Đá núi cao động vọng những huyền âm
    Và núi lỡ đá lăn lòng đất hẹp
    Vùng tĩnh thức cả trời người
    GIỜ CHUYỂN TIẾP
    Ngửa bàn tay đón ân sủng của thượng thiên
    Phép lành ban cho muôn chúng tín nhân
    Lần dấu pháp đợi chờ duyên xóa nghiệp
    Hoa thanh khí nở trên vùng uế trược
    Xóa hận thù mở rộng vòng tay
    Bao đau thương oan trái một kiếp người
    Cam lồ thủy rửa sạch đời trong muôn một
    Đóa sen trắng giữa bùn thêm tinh khiết
    Liên hoa đài đâu để dấu trần hoen
    Từ tầng cao về với cõi trầm luân
    MAI CHUYỂN KIẾP
    Lại trở về phụng lệnh.
    ...........................................
    HUỆ MINH CHẤP BÚT
    NGUOICONHUKHONG SUƯ TẦM
    Một mảnh vải y
    Một đôi hài cỏ khô
    Hai bàn tay trắng
    Nhưng có mọi phép màu
    Đơn giản bình dị
    Nhưng trang nghiêm thanh thoát
    Chúng sanh khó không
    Thiệt lòng kia chẳng sờn
    Tâm sự của người
    Chúng sanh mấy ai hiểu
    Ta bà địa ngục
    Vào ra không thấm mệt
    Hằng hà sa số
    Chẳng quán ngại trần gian

    .................. Chấp bút!
    (thuong_143 sưu tầm)

    Xin lỗi thầy CUUBAOLONG nghen! đi đâu cũng có .......... với ............!!!
    Mong mọi người luôn vui vẻ!!!
    Last edited by thuong_143; 27-03-2012 at 03:01 PM.
    Thành thật với bản thân sẽ nhận thấy đúng đắn... điều cần sửa nơi tâm! Che đậy vòng vo chỉ làm thêm khổ đau!

  18. #178

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi ynguoiloitoi Xem Bài Gởi
    cô..........ơi............bây giờ con muốn quên một người con gái giờ làm sao đây cô...........càng cố quên thì càng nhớ hu hu..............
    đã nói đừng có iu đơn phương tui nữa mà...violent105violent105violent105....ra 1 góc ngồi tự kỉ đi để tui nghe thầy giảng cái coi...suốt ngày cứ léo nhéo hoài violent105violent105 .....
    $$$191

  19. #179

    Mặc định

    NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.
    VẤN TÂM VÔ HẬN

  20. #180

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nhutri Xem Bài Gởi
    NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.
    cảm ơn bạn nhutri rất nhiều! :love_struck:

    -----------------
    mưa nhiều rồi! phải tạnh thôi!!!! :dont_tell_anyone:

    hug007

    Gửi lời thương đến tất cả mọi người!!!! Hạnh phúc thật!!!! Cảm ơn!!! hu hu hu!!! Đừng buồn nữa ....... nhé!!!! :icon_wink:
    Thành thật với bản thân sẽ nhận thấy đúng đắn... điều cần sửa nơi tâm! Che đậy vòng vo chỉ làm thêm khổ đau!

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 112
    Bài mới gởi: 21-05-2019, 08:28 AM
  2. Hành trình một linh hồn
    By TuTam in forum Thông thiên học
    Trả lời: 33
    Bài mới gởi: 18-10-2013, 02:27 PM
  3. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 30-09-2013, 07:34 AM
  4. Trả lời: 20
    Bài mới gởi: 06-04-2012, 11:22 PM
  5. Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 24-11-2011, 12:30 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •