kết quả từ 1 tới 20 trên 620

Ðề tài: TOPIC 02: Tôi Đang Tiếp Xúc "Những Người Trong Thế Giới Vô Hình"

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #11

    Mặc định

    Hoan Hỷ. Kính chào Huynh Workerbee!
    ________________________________________
    Kính chào Huynh Workerbee,

    Kinh, Luật và Vi Diệu Pháp tôi may mắn được rờ tới trang bìa thôi, thưa Huynh. Cám ơn thiện ngôn, thiện ý của Huynh.

    Tôi hoan hỷ trình bày những thiển ý của tôi về hai câu huynh nêu lên. Nhưng tôi xin thưa: Tôi không dừng lại lâu trên diễn đàn Thế Giới Vô Hình. Đăng ký thành viên vào TGVH.com mới có thể link vào một số trang hay tài liệu nơi khác, cho nên tôi phải đăng ký để có quyền thành viên. Khi nào xong những việc cần phải làm, tôi cũng ngừng tìm kiếm. Gặp quý Bạn, chư Huynh như thế này là tốt đẹp cho tôi lắm!

    Câu thứ nhất:

    “Trong câu hỏi số 10, Tác ý tạo nghiệp, huynh có nói rằng việc phóng sinh được thực hiện khẩn cấp trong 7 sát na đầu tiên thì quả sẽ trổ sanh ngay tại đời này và trong các ví dụ huynh đưa ra dường như điều đó là đúng. Nhưng thực tế, so với 1 tiến trình tâm thức dài 17 sát na, không có một hành động nào của con người chúng ta có thể ngắn được đến như vậy mà nó phải kéo dài ít nhất 1 s đồng hồ cho đến nhiều ngày, nhiều tháng hoặc nhiều năm. Vậy tôi không hiểu bằng cách nào mà hành động phóng sinh của các ví dụ huynh đưa ra có thể đưa tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na đầu tiên của 7 sát na đổng lực tâm được. Phải chăng do quá trình hành động phóng sinh kéo dài trong nhiều tiến trình tâm mà có tiến trình tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na đầu tiên của 7 sát na đổng lực, trong khi tiến trình khác thì tác ý tạo nghiệp lại rơi vào sát na thứ 7, và tiến trình khác nữa thì tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na thứ 2 đến thứ 6 trong 7 sát na đổng lực? Tức là quả dị thục sẽ trổ sinh ngay trong đời này, đời sau và vô định kiếp về sau?”

    1- Thưa Huynh, ví dụ tôi thả một con chim, chỉ trong 7 sátna đầu tiên, chỉ là một ví dụ.

    Các ví dụ khác tôi không tác ý nhấn mạnh vào 7 sátna đầu tiên của tiến trình tâm.

    Qua những ví dụ trên, tác ý của tôi là: “Nhân phóng sanh có trổ quả trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai”. Suy ra, theo tiến trình 17 sátna tâm, họ phải là những người đã làm những việc phóng sanh trong 7 sátna đầu tiên của cái tâm tạo nghiệp, cho nên quả trổ đến cho họ ngay trong kiếp sống (này) của họ.

    2- Tôi không hiểu sâu Vi Diệu Pháp. Và tôi chưa từng phân tích lộ trình tâm của tôi, từ khi gieo Nhân cho đến lúc gặt Quả như thế nào. Trong cuộc sống, tôi nhận ra rất rỏ, “làm nhanh” “thọ quả nhanh”, như vậy, theo Vi Diệu Pháp, tôi đã “làm nhanh” trong 7 sátna đầu tiên (của Tâm Đổng Tốc). Và, nghiệp tôi làm trong 7 sátna đó có cho quả gọi là Hiện Báo Nghiệp, cho nên tôi “thọ quả nhanh”. Chỉ có vậy thôi, thưa Huynh.

    Vì thế, tôi không dám trả lời câu thứ nhất của huynh. Muốn trả lời câu này, tôi phải đặt xuống mọi tình huống, mọi chi tiết trong các ví dụ vào từng “cái tên gọi” của mỗi sát-na tâm. Tôi không có khả năng phân tích như vậy.


    Lấy một ví dụ, tôi nói: “Huynh thông minh quá!”. Huynh cười đáp: “Cám ơn, huynh cũng thế”. Tôi nói: “Cám ơn huynh” và tôi cảm giác hân hoan.

    Chỉ nói qua lại ba câu thôi, thì đã có nhiều lộ trình tâm sanh diệt trong tôi rồi (trong hành động trò chuyện đó), nhiều sát-na tâm (của tôi) sanh diệt trong đó rồi, và tôi cũng đã tạo nhiều nghiệp Thân-Khẩu-Ý trong đó rồi. Tôi “thọ quả tức khắc” là những quả: nụ cười của huynh cho tôi vui; lời cám ơn của huynh cho tôi vui, cảm giác hân hoan là vui.

    Ba cái quả trổ sanh (cho tôi) - từ một lời thiện ngôn - là quả của Hiện Báo Nghiệp. Tại vì trong mỗi một lộ trình có 17 sát-na tâm đó, tôi may mắn ngay [nơi (9-15) Tâm Tổng Đốc –Javana] lại tạo Khẩu Thiện Nghiệp. Trong 7 sát-na đầu (9-15) tôi lại may mắn Tác Ý nói Thiện trong sát-na thứ nhất (9). [Và chắc chắn, trong Khẩu Thiện Nghiệp đó, tôi đã có Tác Ý trong những sát-na tâm thứ bảy (15) để trổ Sanh Báo Nghiệp, dù mang thân con người, hay thân con ngựa, tôi cũng sẽ được khen là “người thông minh”, “ngựa thông minh”. Và chắc chắn, tôi đã có Tác Ý trong những sát-na tâm thứ hai (10), sát-na tâm thứ ba (11), sát-na tâm thứ tư (12), sát-na tâm thứ năm (13), sát-na tâm thứ sáu (14) để trổ Hậu Báo Nghiệp. Nhiều nhiều kiếp tới, làm chúng sanh trong cảnh giới nào tôi sẽ luôn “được tiếng thông minh”.]


    Để tạ lỗi cùng Huynh, tôi xin kể một câu chuyện phóng sanh đã cho tôi Hiện Báo Nghiệp. Nếu hữu duyên gặp được Luận Sư, tôi cũng sẽ mang câu hỏi này (của Huynh) để mong chư vị giảng giải cho tôi, để tôi - đã hoan hỷ - càng thêm hoan hỷ trong việc phóng sanh.

    Trước hết, tôi xin kể hai ví dụ cũng về “làm nhanh trả quả nhanh”.

    Hành động tốt nào khi tôi làm xong, mà ngay tức khắc, hay trong ngày, trong tuần tôi đã thọ được kết quả lành, tôi hoan hỷ, cho đó là tại vì tôi đã làm “nhanh” theo lời Phật dạy về sát-na tâm. Cũng vậy, hành động xấu nào khi tôi làm xong, mà ngay tức khắc, hay trong ngày, trong tuần, tôi thọ quả ác, tôi tỉnh ngộ cho đó là tại vì tôi làm “nhanh” theo lời Phật dạy về sát-na tâm. Từ khi hiểu được “làm nhanh” thì “trả nhanh”, tôi rất sợ làm ác, và chỉ cố gắng làm lành.

    Ví dụ về một Nghiệp Thiện:

    Có một lần tôi theo đoàn hành hương đi đãnh lễ Phật Tích bên Ấn Độ. Vị Thầy trưởng đoàn đã nhắc nhở là không nên (với cá nhân) cho người ăn xin, tại vì rất nhiều trường hợp “bị bao vây” đáng lo ngại. Điển hình, một vị Hòa Thượng ở Hoa Kỳ qua Ấn Độ và trú tại một ngôi chùa của chư Tăng Việt Nam. Vị viện trưởng cũng lưu ý Hòa Thượng về việc bố thí cho người ăn xin. Hòa Thượng, không biết vì lý do gì, một hôm, một mình “chuẩn bị” bố thí ngay trước - ngoài cổng - chùa. HT cho một người, người thứ hai đến HT cho, người thứ ba đến HT cho, … cho, cho, cho,… Không lâu, HT đã bị bao vây bởi một nhóm đông người ăn xin. Lúc này HT mới … hoảng. Muốn tháo lui thì cổng chùa (không biết vì lý do gì) đã khóa chốt từ bên trong …Tôi dừng chuyện HT nơi đây.

    Ở tại Bồ Đề Đạo Tràng mấy ngày, tôi buồn vì không được …cho. Đến một buổi sáng sớm, trên đường từ BĐĐT trở lại khách sạn gần đó, tôi một mình đi bộ ngang qua những người bán hàng rong. Tiếng các cháu mời mua “bánh mì” Ấn Độ nghe ríu rít, xen lẫn tiếng Việt Nam, tiếng Mỹ, rồi còn A Di Đà Phật… Tôi quyết định mua giúp bánh mì cho các cháu. Đi dọc theo một dãy dài các “lò bánh mì”, tôi đưa tiền và xòe bàn tay ra dấu mua 10 cái. Mua 10 cái nhưng tôi trả tiền cho 20 cái. Các chủ lò tươi cười xách mấy bao nylon bánh mì chạy theo đưa cho tôi. Và dĩ nhiên, chung quanh tôi đã có vòng vây người líu ríu .Tôi đưa tay chỉ vào những người ăn xin và ra dấu: “Cho họ hết đi, giúp tôi cho họ ăn hết đi”. Lúc đầu các cháu ngơ ngác nhìn vì chưa hiểu ý của tôi. Rồi “lô xô”, rồi “lào xào”, quơ tay qua, quơ tay lại. Một cháu ra vẻ “đây nè, như vầy nè”, cháu rút bánh mì trong bao đưa cho một người ăn xin. Cả nhóm ùa như bầy ong vỡ tổ, rồi lăng xăng chạy đi rút bánh mì cho những người khác, bỏ tôi đứng “bơ vơ”. Náo loạn cả một dãy đường. Người qua, kẻ lại nhìn tôi cười. Chủ hàng, chủ quán nhìn tôi cười. Tôi cũng cười. Đi chầm chậm trở về, tôi thấy niềm hân hoan nhè nhẹ ở trong tâm.


    Thưa Huynh,

    Tôi “cho” người ăn xin là “Nhân của một việc thiện”. Suốt tiến trình từ khi “muốn cho”, “đang cho”, “sau khi cho” kéo dài khoảng 30 phút. “Quả lành trả” cho tôi là: “Tâm hân hoan”, “Ý nghĩ hân hoan: mình đã làm được một việc lành mà mình mong muốn”; những nụ cười thiện cảm, những ánh mắt nồng ấm, những âm thanh vui tươi; tôi an nhiên, thanh thản đi về. Tất cả quả lành - ngay tức khắc trổ sanh - đó là vì, theo tôi, “tôi quyết định cho, thực hiện hành động cho” tích tắc trong 7 sátna đầu tiên của tâm tạo nghiệp.


    Ví dụ về một Nghiệp Bất Thiện:

    Tôi xin lỗi vì tôi sẽ phải dùng ví dụ từ một người khác. Như tôi đã thưa với Huynh, tôi rất sợ làm điều ác, cho nên tôi thường kiểm soát ý nghĩ của mình. Nghĩ bất thiện thì tôi có nghĩ, nhưng ra khẩu và thân thì ít khi tôi làm. Tôi không dám. Bởi vì tôi thọ quả xấu cho hành động bất thiện của mình quá nhiều rồi, tôi không dám làm sai, làm xấu nữa.

    Tôi đặt tên giả cho những người trong chuyện thôi nhé!

    Một buổi sáng, tôi đang ở trong bếp của một ngôi chùa. Tôi nghe âm thanh tiếng nói lớn ở ngoài sân. Dừng tay rửa rau, tôi lắng nghe. Đó là tiếng của cô Thêu, một phật tử đến công quả. Cô Thêu đang lớn tiếng với sư cô Chăm Chỉ. Sự tình là như vầy: Cô Thêu có trách nhiệm nấu ăn cho vị Trụ Trì, cô cũng trông coi luôn nhà bếp. Hồi sáng này, sư cô Chăm Chỉ vào bếp lau chùi cái tủ lạnh. Cô Thêu đến chùa, vô bếp và mở tủ lạnh. Thấy tủ lạnh sạch sẽ, cô đi tìm sư cô để …la. Tôi không nghe tiếng sư cô, chỉ có tiếng cô Thêu.

    Vào buổi xế chiều, tôi đang ở trong Chánh Điện. Tôi nghe âm thanh tiếng nói lớn ở trước hiên nhà bếp. Lắng nghe. Đó là tiếng của Giấy, một người thanh niên định cư tại chùa. Giấy đang lớn tiếng với cô Thêu. Sự tình là như vầy: Cô Thêu ở trong nhà bếp. Giấy đang ngồi nơi dãy ghế ngoài hàng hiên. Từ trong đi ra, cô đóng cửa lại như thế nào, mà Giấy lớn tiếng chỉnh hành động “đóng cánh cửa” của cô Thêu. Tôi nghe rỏ câu: “… đàn bà không có ý, có tứ …”. Cô Thêu thì giả lả … Tôi lắc đầu, thầm nghĩ: “Cô Thêu làm cái việc la sư cô Chăm Chỉ “nhanh” quá cho nên cô “bị la” cũng nhanh, chưa hết nữa ngày “nhân” đã sanh “quả””.

    Như thế đó, cô Thêu “la” là “Nhân của một việc bất thiện”. Suốt tiến trình từ khi “muốn la”, “trong khi la”, “sau khi la” của cô Thêu kéo dài khoảng 20 phút. “Quả xấu trả” – ngay trong ngày - cho cô Thêu là: “tâm khó chịu” nên cô “hành động lúng túng”, “nói giả lả”, “nói chống chế” (khi cô bị Giấy la) là vì, theo tôi, cô Thêu “quyết định la”, “thực hiện hành động la”, chỉ tích tắc trong 7 sátna đầu tiên của cái tâm tạo nghiệp.


    Tiếp theo, tôi sẽ kể một việc phóng sanh đã cho quả trong đời hiện tại.

    Đoạn kinh “Lộ Trình Tâm”, trong quyển “Vi Diệu Pháp Giảng Giải”, của Tỳ Kheo Giác Chánh, Webmaster: binhanson, như sau:

    BÀI 18. LỘ TRÌNH TÂM CITTA-VĪTHI

    Là tiến trình sanh diệt của tâm. Tùy theo trường hợp sanh khởi lộ trình tâm được phân ra lộ dài, lộ ngắn, lộ lớn, lộ nhỏ. Tùy theo nơi chốn sanh khởi, lộ trình tâm được phân biệt làm hai loại: lộ trình qua ngũ môn và lộ trình qua ý môn. Ðơn vị đo lường trong lộ trình tâm được gọi là tâm Sát Na.

    A- Tâm Sát na của Lộ trình tâm.

    Trong trạng thái thụ động, khi tâm không bị kích thích bởi đối tượng, được gọi là tâm Hộ kiếp (Bhavaṅga). Khi bị kích thích bởi đối tượng thì một tâm sẽ khởi lên trên mặt tâm Hộ kiếp, rồi chìm xuống để một tâm khác khởi lên (thông thường chúng ta không thể giữ mãi một tâm không cho chìm vào tâm Hộ kiếp). Như vậy, đời sống của một tâm bao gồm 3 giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ(Ṭhiti) và Diệt (Bhaṅga). Ðời sống đó được gọi là tâm sát na (Cittakhana).

    I) Lộ trình qua ngũ môn.
    Là dòng tâm thức sinh khởi qua năm căn môn: Nhãn môn, Nhĩ môn, Tỷ môn, Thiệt môn và Thân môn. Lộ ngũ môn được phân thành hai loại:

    1) Lộ ngũ môn bình nhật.
    Lộ ngũ môn bình nhật là lộ trình tâm xuyên qua ngũ môn để tiếp thu và xử sự với cảnh trong đời sống hàng ngày. Lộ ngũ môn bình nhật được phân ra làm bốn loại.

    a. Lộ ngũ môn cảnh rất lớn
    Là lộ trình tâm được diễn tiến đầy đủ trong 17 tâm sát na.

    1- Khi một đối tượng vào trong phạm vi nhận thức của tâm thức, qua một trong năm cửa, một sát na của tâm Hộ kiếp được trôi qua. Sát na ấy được gọi là Quá khứ Hộ kiếp(Atītabhavaṅga). Tức là trạng thái tâm chủ quan sanh diệt đồng thời với cảnh sắp đến.

    2- Tâm Hộ kiếp bị kích thích và rung động trong một tâm sát na gọi là sự rung động của Hộ kiếp (Bhavaṅgacalana). Tức là trạng thái tâm chủ quan bị cảnh mới chi phối.

    3- Rồi tâm Hộ kiếp ngưng chuyển động trong một tâm sát na gọi là sự dừng đứng của Hộ kiếp (Bhavaṅgupaccheda). Tức là trạng thái tâm chủ quan chấm dứt, nhường chỗ cho những tâm khách quan khởi lên để tiếp thu và xử sự với cảnh mới. Khi đó các tâm sát na khác sẽ khởi lên và chìm xuống một cách mau lẹ như sau.

    4- Tâm Khán ngũ môn (Pañcadvāravajjana) tức là tâm khách quan khởi lên hướng về đối tượng (cảnh mới hiện đến) và chìm xuống trong một tâm sát na.

    5- Nhãn thức (Cakkhuviññāṇa) hay một trong bốn thức kia sẽ khởi lên trong một tâm sát na.

    6- Tâm Tiếp thu (Sampaṭicchana) là tâm khách quan khởi lên bắt lấy cảnh trong một tâm sát na.

    7- Tâm Quan sát (Santīrana) tức là tâm khách quan khởi lên xem xét cảnh (điều tra đối tượng) trong một tâm sát na.

    8- Tâm Phân Ðoán (Voṭṭhapana) tức tâm Xác định đối tượng là vật tốt hay xấu, sạch hay dơ... (đây chính là công tác của tâm Khán Ý môn) khởi lên trong một tâm sát na.

    9. – 15. Tâm Ðổng Tốc (Javana) tức là tâm xử sự với cảnh (còn gọi là tâm hưởng cảnh) khởi lên liên tiếp 7 tâm sát na. Chính đây là thời điểm quan trọng hơn cả trong toàn lộ trình vì các nghiệp thiện hoặc ác được tạo ra trong lúc này. Trong 7 sát na này, sát na thứ nhất tạo nghiệp, kết quả trong đời hiện tại, gọi là Hiện báo nghiệp; sát na thứ bảy, tạo nghiệp, kết quả trong đời sau, gọi là Sanh báo nghiệp; năm sát na còn lại, tạo nghiệp, kết quả từ đời kế tiếp cho tới lúc chứng Vô dư Niết-Bàn, gọi là Hậu báo nghiệp.
    16. – 17. Tâm Thập di (Tadālambana) là tâm hưởng cảnh dư của tâm Ðổng tốc nhưng không có khả năng tạo nghiệp (vì những tâm làm việc Thập Di hoàn toàn là tâm quả). Tâm này khởi lên để gìn giữ và ghi nhận cảnh vào trong tiềm thức. Tâm này lập đi lập lại trong hai sát na.
    .........


    Câu chuyện của tôi như sau:

    Việc này xảy ra vào khoảng năm 2004, khi tôi sinh hoạt tại một ngôi chùa. Hôm đó là ngày chủ nhật. Như thường lệ, tôi tham dự buổi lễ đại chúng của chùa. Khi lễ hoàn mãn, tôi đảnh lễ Đức Phật, đứng lên định đi ra, thì tôi trông thấy một người thiếu nữ đang khép nép đứng bên cửa chánh điện. Tôi dừng lại. Thiếu nữ tiến về phía tôi, rụt rè hỏi:

    - “Em vào lễ Phật có được không?”.

    Tôi gật đầu mỉm cười:

    - “Xin mời tự nhiên”.

    Cô nói: “Dạ, cám ơn”, rồi đi vào.

    Tôi đứng nhìn ra ngoài sân. Độ 10 phút sau, quay người nhìn trở lại, tôi thấy cô đang tần ngần đứng bên bàn thờ. Nhìn thấy 3 nén nhang, tôi biết cô đã lễ Phật xong rồi. Lúc này, tôi mới nhận ra cô khoảng 22, 23 tuổi và hình như đang mang thai. Nhìn nét mặt của cô, tôi hiểu cô có chuyện. Tôi tiến lên vài bước, dừng lại, cất tiếng:

    - “Cô có chuyện gì cần có phải không? Nếu được, cô nói đi, đừng ngại. Giúp gì được cho cô tôi sẽ cố gắng”.

    Thiếu phụ cúi đầu. Khi ngẩng lên, trên gương mặt đã tuôn hai hàng nước mắt.
    Tôi nhẹ nhàng nói:

    - “Hãy ngồi xuống. Nói cho tôi nghe, có chuyện gì vậy?

    Cô sụt sùi ngồi xuống.

    Tôi đến góc bàn lấy một hộp khăn giấy, rồi trở lại đưa cho cô. Tôi im lặng ngồi xuống. Lau nước mắt, cô bắt đầu tâm sự:

    - “Em có thai gần được bốn tháng. Từ lúc bắt đầu mang thai, em chăm sóc kỷ lưỡng lắm. Lần nào đi khám định kỳ, bác sĩ cũng nói là thai tốt. Ai dè, hôm kia em đi, bác sĩ báo tin thai nhi không có bao tử. Em sợ, khóc quá chừng”.

    Cô lại rưng rức. Tôi ôn tồn hỏi:

    - “Rồi bác sĩ nói sao nữa, có dặn cô phải làm sao không?”.

    Cô đáp:

    - “Dạ, bác sĩ nói khi sanh ra con em không có bao tử thì làm sao mà sống. Còn nếu như muốn bỏ thai thì phải làm trong lúc này vì thai nhi còn dưới 4 tháng. Sau 4 tháng thì không làm việc lấy thai nhi ra được nữa, phải để mà sanh”.

    Tôi ân cần hỏi:

    - “Vậy bây giờ cô tính thế nào?”.

    Cô lại mếu máo:

    - “Em chưa biết tính sao nữa. Chuyện này bất ngờ quá, em chưa biết phải làm sao”.

    Im lặng một giây, tôi nói:

    - “Tôi giúp cô chuyện này nhé!”.
    - “Dạ, xin giúp em”, cô vội nói.

    Tôi tiếp:

    - “Trước hết, tôi góp ý với cô là nên giữ lấy thai nhi. Nếu phải chết, thì trước cũng chết, sau cũng chết. Cô giữ lấy thai nhi cho đến lúc sanh ra. Con chết thì là con đi với nghiệp của con. Cô bỏ con bây giờ thì cô tạo nghiệp sát sanh. Cô sanh con ra rồi mà con có chết thì cô, dù có đau buồn, cũng chỉ có đau buồn thôi. Còn như cô bỏ con từ bây giờ thì cô vừa đau buồn vừa hối hận, rồi tâm hối hận có thể theo cô suốt cuộc đời… Cô nghĩ sao?”.

    Cô đáp:

    - “Dạ, em cũng có nghĩ qua chuyện giữ con lại, nhưng mà em cũng nghĩ đến chuyện có khả năng qua 4 tháng rồi lỡ thai chết trong bụng nữa…”.

    Tôi mỉm cười:

    - “Vậy bây giờ cô suy nghĩ và quyết định đi!”.

    Cô mím môi, rồi gật đầu:

    - “Em quyết định giữ lại. Sanh ra mà con có chết thì em chôn con. Mang con trong bụng cho có mẹ, có con. Em không bỏ con bây giờ đâu.”

    Tôi gật đầu:

    - “Vậy bây giờ tôi giúp cô một việc nhỏ này nhé!”

    Cô đáp:

    - “Dạ”

    Tôi đứng lên, đi đến bên bàn thờ lấy một chai nước lọc. Tôi bảo cô thắp nhang lạy Phật, phát nguyện giữ lấy thai nhi với tình thương của một người mẹ, và cầu xin những điều cô mong muốn cho con của cô. Tôi đứng chờ. Người thiếu phụ thành tâm khấn nguyện. Tôi bảo cô ngồi xuống rồi nói:

    - “Tôi đặt lời cầu xin của tôi vào chai nước này. Tôi cầu xin cho thai nhi sanh ra được đầy đủ cơ thể và sống bình thường, mạnh khỏe. Nếu như do nghiệp quá khứ của chính con đã tạo và con phải chết trong bụng mẹ, thì cầu xin cho con tái sanh về nhàn cảnh. Cầu xin cho tình thương con và quyết định giữ thai nhi lại của cô là phước lành cho thai nhi an toàn, khỏe mạnh. Bằng như con phải ra đi, cầu xin cho con tái sanh nơi nhàn cảnh”.

    Nói xong, tôi đưa chai nước bảo cô uống. Cô xoay nắp chai (còn nguyên chưa mở nắp). Tôi bảo cô uống từ từ trong lúc tôi niệm vài bài kinh An Lành (Theravada). Chừng 5 phút tôi dừng lại. Tôi bảo cô mang chai nước về nhà, mỗi khi uống hãy niệm “Araham - Đức Phật Trọn Lành”. Cô cúi đầu cám ơn tôi rồi ra về.


    Từ khoảng năm 2000 tôi bắt đầu có những triệu chứng của bịnh tim. Tây Y làm nhiều xét nghiệm mà chưa rỏ tôi bị bịnh gì. Tôi ra vào phòng cấp cứu hoài riết tôi cũng nản. Năm 2003, hữu duyên có người giới thiệu tôi đến một thầy Đông Y. Ngày đầu tiên bắt mạch cho tôi, thầy chỉ nói: “Uống thuốc nghe, không sao đâu”. Một tháng sau, người đệ tử của thầy nói nhỏ với tôi: “Hôm đó thầy nói “không gặp tui, thì một tuần nữa là ngã xuống rồi đó”. Ráng uống thuốc nghe”. Thầy hốt thuốc trị bịnh cho tôi không có lấy tiền. Lần lần, tôi hữu duyên gặp những bác sĩ tài giỏi về Đông Y ở Pháp, Mỹ, Việt Nam, bắt mạch, họ đều nói tôi mang bịnh tim bẩm sinh, bây giờ rất nặng, phải uống thuốc cho đàng hoàng mới mong thoát chết, chờ Tây Y tìm ra bịnh, thì tôi cũng mồ xanh cỏ rồi. Tôi ròng rả uống thuốc, ròng rả ra vào bịnh viện làm xét nghiệm, ròng rả vào ra phòng cấp cứu …


    Sau ngày gặp người thiếu phụ, tôi không có tin tức gì về cô nữa, cũng không biết tìm mẹ con cô ở nơi đâu. Ngày qua ngày tôi cũng dần quên chuyện mẹ con của cô. Phần tôi thì … hai lần tôi hấp hối rồi thoát chết.

    Một lần, đang ngồi ăn cơm, tôi bỗng lên cơn mệt, gục đầu xuống bàn. Đôi chân tôi yếu không đứng lên nổi nữa. Tôi gọi xin giúp. Có hai người đến xốc tôi lên và đưa tôi về phòng, đặt tôi nằm trên giường. Họ thăm hỏi rồi đi ra. Nói xon tiếng “Cám ơn” là tôi nằm im nhắm mắt, cảm nhận cái đau từng cơn nơi vùng ngực bên trái. Mệt thật mệt. Sức lực của tôi lúc đó chỉ còn 1 hay 2%. Tôi cảm thấy lạnh. Cảm cái lạnh từ đôi chân dần lên gối, lên bụng, lên hai cánh tay. Tôi chợt nhận ra: “Mình đang hấp hối đây. Lạnh lên đến trái tim là chết đó!”. Không hốt hoảng, tôi lướt tư tưởng sám hối và từ giả đến Thầy Tổ, cha mẹ, con trai, anh chị em, đồng đạo …Tôi để tâm vào mũi, cảm nhận hơi thở ra vào nơi mũi, chờ …chết. Đang theo dõi hơi thở thì tôi thấy … tôi đi ra! Tôi đi ra giữa hai hàng người quỳ ôm mặt khóc! Một “nàng tiên”, với xiêm y phất phới, từ trên cao hạ xuống đứng trước mặt tôi. Ngay lúc ấy, tôi mở mắt ra và tự nói: “Mình chưa chết, sẽ có người đến cứu”.

    Chưa đầy 10 phút sau, có tiếng gỏ cửa phòng. Tôi lên tiếng mời vào. Hai người quen đến thăm tôi. Trong đó có một cô nói rằng: “Tôi đang đi với con gái về hướng trên kia, bỗng nhiên tôi bảo con gái quay xe lại và nói mẹ muốn đến chùa”. Cô nhìn tôi chảy nước mắt. Cô bảo tôi ngồi dậy. Tôi ngồi, với tư thế ngồi lên đôi bàn chân, sát trên giường. Cô bỗng đổi sang nói bằng một ngôn ngữ lạ tai. Cô xoa tay vừa đập, vừa vuốt lên hai cánh tay và lưng của tôi. Chỉ trong vòng 5 phút, tôi cảm nhận một sức nóng từ nơi bụng phừng lên mặt tôi. Mặt tôi nóng ran. Thân tôi ấm lại. Cô dừng lại và nói: “Xem mặt đỏ rần rồi kìa. Hết chết rồi”. Sau vài lời dặn dò tôi giữ gìn sức khỏe, hai cô ra về. Tôi khỏe lại thật nhanh.


    Khoảng 6 tháng sau, tôi lại hấp hối lần thứ hai. Buổi tối hôm đó, đang đứng nói chuyện với vài người bạn, tôi thấy choáng, thoáng như một giây ngất đi vậy. Chào họ. Tôi chầm chậm vô phòng. Cảm nhận cái mệt và cái yếu dần dần lan trong toàn thân. Tôi đi tắm, thay đồ sạch để đi … chết. Lên giường nằm, hai bàn tay đặt lên nhau giữa ngực, tôi nói: “Con chuẩn bị đi đây”. Lúc đó vào khoảng 10 giờ tối. Chú tâm vào mũi, theo dõi hơi thở, tôi cảm nhận mình lịm dần, lịm dần … Mơ màng, tôi cảm giác có người lật tôi sang bên phải. Tôi hé mắt thấy đôi cánh tay của mình quơ lên trên theo tư thế bị lật qua. Tôi nói trong tâm: “Con chuẩn bị chết rồi mà”, rồi lại thiếp đi.

    Suốt đêm, thân người của tôi cứ “bị” lật qua trái, lật qua phải, hoàn toàn không do tôi chủ động. Tôi chỉ biết mỗi khi “bị” lật, tôi hé mắt thấy đôi cánh tay áo và bàn tay tôi quơ lên. Cho đến khi tôi đủ sức mở mắt ra, việc đầu tiên tôi biết là tôi chưa chết. Lúc đó gần 5 giờ sáng. Nằm im cảm nhận toàn thân, tôi thấy cái mệt biến đi rồi. Chống tay từ từ ngồi lên, tôi cảm nhận cái yếu cũng biến đi rồi. Thật lạ! Chấp tay, tôi thành tâm nói: “Con cám ơn Chư Thiên”.


    Từ hôm đó sức khỏe của tôi dần dần khá hơn. Khi có ai hỏi thăm bịnh tình của tôi, tôi cười vui rồi nói: “Nhìn lưỡi tôi dài ra rồi chưa?”. Tôi giả bộ thè lưỡi cho họ xem. Họ ngơ ngác không hiểu. Tôi nói: “Uống thuốc lè lưỡi rồi, phải hết bịnh chứ!”. Cùng nhau cười.


    Vào khoảng 14 tháng sau, tính từ ngày gặp “mẹ con” người thiếu phụ kia. Cho đến một hôm. Chiều hôm đó, tôi đứng dưới bóng cây, đón các em trong đoàn phật tử đi cắm trại trở về. Đứng nhìn các cháu nhỏ đầu bù, tóc rối, mắt nhắm, mắt mở, lê thê, lếch thếch như đoàn quân bại trận, mà tôi bật cười. Quay đầu sang bên trái, tôi nhìn thấy một người thiếu nữ đang đứng bên gốc cây. Đưa ánh mắt trở lại nơi các cháu, tôi chợt nhận ra cô ấy trông quen quen. Tôi quay nhìn thẳng vào mặt cô. Cô cũng nhìn thẳng vào tôi. Tôi lục lọi ký ức.

    Từ từ tiến về phía cô, tôi lên tiếng:

    - “Xin lỗi … có phải … cô là …”.

    Tôi chưa biết hỏi làm sao, thì cô trả lời:

    - “Dạ phải. Em sanh con rồi”, rồi cô im lặng.

    Tôi ngập ngừng:

    - “Vậy …”.

    Cô tiếp:

    - “Con em có bao tử bình thường”.

    Tôi cảm thấy hân hoan ngập trái tim:

    - “Bây giờ bé sao rồi cô?”

    Cô đáp:

    - “Dạ, em để ở nhà, con trai. Bé được gần 8 tháng rồi, khỏe mạnh, bình thường, dễ thương lắm ạ!”.

    Cô thấp giọng:

    - “Cám ơn ạ!”.

    Tôi chỉ cười …


    Tôi qua khỏi căn bịnh tim và hoàn toàn bình phục từ năm 2008. Thầy dặn tôi mỗi năm cần phải uống 10 thang thuốc bổ, nhưng tôi lắc đầu.


    Hôm nay, nhân đề tài phóng sanh, tôi tin chắc mạng sống của tôi, còn lại đến bây giờ, là do NHÂN từ lần “phóng sanh” cái sinh mệnh bé bỏng còn đang cuộn tròn, úp mặt trong bụng của mẹ kia!

    Bé thoát chết hai lần - Tôi thoát chết hai lần! Bé khỏe mạnh - Tôi khỏe mạnh! Một bài học Nhân Quả - theo tôi – là Hiện Báo Nghiệp!


    Nếu diễn tả, tôi chỉ có thể diễn tả cái “dòng tâm tạo Nghiệp” đó nó không xảy diễn nơi lục thức. Tác Ý tạo Nghiệp.

    Tác Ý không phải là một lời nói, một mệnh lệnh, sai khiến thân, khẩu, ý, cho dù nói là: “Khởi tác ý muốn đi” hay “Khởi tác ý muốn đứng”. Tác Ý như một luồng sức mạnh nâng sự hoạt động của thân và tâm, hay Thân-Khẩu-Ý. Sức mạnh đó dồn vào nơi nào, thì nơi đó “bộc phát” gieo xuống một cái nhân. Tiến trình “dòng tâm tạo Nghiệp” không xảy diễn nơi mắt tôi thấy, tai tôi nghe, mũi tôi ngửi, miệng tôi nếm, thân tôi xúc chạm, hay ý tôi suy nghĩ, mà là nơi “phản ứng tâm” (của tôi) đối với sự thấy, sự nghe, sự ngửi, sự nếm, sự đụng chạm, sự suy nghĩ. Phản ứng tâm đó (thành một) “trạng thái tâm”, hay còn gọi là “tâm xao động”, cái nơi mà tôi “cảm” được, một nơi ẩn sâu trong lồng ngực, một nơi như tận đáy trái tim.


    Tôi diễn tả, tiến trình - của một lộ trình có 17 sát-na tâm - xảy diễn trên tầng số “sức phản ứng của tâm”, hay trên “cái tâm đang xao động”.

    Khi lục căn tiếp XÚC với lục trần, nếu không kịp chánh niệm “chỉ là thấy, chỉ là nghe” … thì THỌ liền lập tức, để rồi, nếu không kịp chánh niệm “chỉ là thọ” thôi, phản ứng tâm - từ THỌ - mà bắt đầu rung động, hiện khởi một “trạng thái tâm” hay gọi là “tâm xao động”. Lúc này “Tưởng” cũng sẽ vào tham gia. Nếu “Tưởng” nêm vào lành, thiện thì trạng thái tâm xao động của tôi sẽ là trạng thái tâm thiện có hỷ, có lạc, có hân hoan, … Nếu “Tưởng” nêm vào xấu, ác thì trạng thái tâm xao động của tôi sẽ là trạng thái tâm bất thiện, có sầu, bi, khổ, ưu, não… Nếu Tưởng không làm gì hết, thì “tâm xao động” chỉ như một gợn nhẹ, cũng nhẹ nhàng lắng xuống. Một trạng thái tâm đi qua! Rồi thôi!

    Những sát-na tâm sanh diệt rà trên một trạng thái tâm, để rồi, đến cường độ rung động cao nhất, xao động nhất (của trạng thái tâm) ấy- chính những cái chổ nào mà hỷ, lạc, hân hoan, sầu, bi, khổ, ưu, não … “đang có mặt”, “đang lặn, hụp, nhô lên, chìm xuống” đó, mà Tác Ý bộc phác, gieo xuống một cái Nhân. Thời gian trụ của một trạng thái tâm xao động có dài, có ngắn. Tuy thời gian dài, ngắn khác nhau, mỗi một trạng thái tâm xao động đều có một chuỗi Nhân Quả Nhân Quả … Sanh Diệt Sanh Diệt… tương duyên, liên tục. Cường độ rung động (trong trạng thái tâm xao động) lại không lệ thuộc vào thời gian. Độ rung động cao nhất nơi nào thì Tác Ý gieo hạt nơi ấy, dài dài suốt thời gian trụ của trạng thái tâm xao động. Trạng thái tâm xao động chấm dứt vào lúc mà “cảm” hoàn toàn lắng xuống, mất hẳn, tâm bằng trở lại.

    Một trạng thái tâm xao động sanh rồi diệt, nhưng những lộ trình tâm (diễn tiến trên đó) sanh diệt, sanh diệt, đếm sao cho thành con số! Và cứ trên một lộ trình tâm thì Tác Ý gieo hạt. Hạt gieo vào hỷ ươm mầm hỷ. Hạt gieo vào lạc ươm mầm lạc. Hạt gieo vào bi ươm mầm bi. Hại gieo vào não ươm mầm não…

    Một lộ trình tâm đã là quá ngắn, còn nói gì đến 1 sát-na tâm. Khi tâm tôi bắt đầu xao động (vì hoàn cảnh của hai mẹ con kia) thì trong suốt thời gian 30 phút giao tiếp với cô, đã có bao nhiêu lộ trình tâm sanh diệt (trên tâm xao động của tôi rồi).

    Khi xao động bắt đầu rung chuyển (tôi gọi là cường độ) (HÀNH), thì Tưởng làm việc (TƯỞNG), từ từ bỏ vật liệu (theo từng ý nghĩ, lời nói, cử chỉ của tôi), trộn vô (XÚC) vào trạng thái tâm (đang xao động của tôi). Những vật liệu đó là: “Bác sĩ có nói cô phải làm sao không?”, “như vầy thì cô ấy khổ tâm lắm đây!”, “sao mà tội cho thai nhi vậy”, “bây giờ mà bỏ thai thì đau lòng người mẹ lắm!”, “đây có thể ví dụ về trường hợp bán trứng hột vịt lộn, trứng gà lộn, trứng cút lộn đây!”, “có nên giúp cô ấy không?”, “làm vậy lỡ như cho cô hy vọng rồi thất vọng thì sao?”, “thôi, còn nước, còn tát, giúp cho cô khỏi gieo nghiệp sát sanh!”, “Tôi giúp cô chuyện này nhé!”, “cô bỏ con bây giờ là cô tạo nghiệp sát sanh”, “tôi mỉm cười”, “tôi gật đầu”, “tôi cầm chai nước niệm kinh”, “tôi bảo cô khi uống nước hãy niệm Araham”… Và , những “vật liệu” đó có những “vị”: “trắc ẩn, xót xa, ưu, thương cảm, kinh sợ (điều ác), thương, sầu, não, xả, hân hoan, bi mẫn, hỷ, an, lạc”.

    Suốt, suốt, dài, dài như vậy, vật liệu nào nhiều thì ra vị (của vật liệu đó) nặng nhất, trội nhất. Đã là vị nặng thì khi nếm vào rất dễ nhận ra. Sức mạnh của Tác Ý “nhận ra” vị, rồi “dồn vào nơi” vị (THỌ). Ngay chổ cái “vị ưu”, “vị hỷ”, “vị xả” nào mà tôi lại “suy nghĩ” (HÀNH), tôi lại “nói” (HÀNH), tôi lại “làm” (HÀNH) là - ngay chổ ấy - Tác Ý gieo một Nhân Ý Nghiệp, một Nhân Khẩu Nghiệp, một Nhân Thân Nghiệp.

    Ví dụ:

    Toàn bộ trạng thái tâm xao động của tôi - từ khi sanh đến lúc diệt - có 10 lộ trình tâm. Mổi lộ trình tâm có 17 sát-na. Mỗi sát-na, ví dụ, là 1 giây. Như vậy có 170 sát-na. Tức là tôi có 2 phút 50 giây để tạo Nghiệp Thiện, Nghiệp Ác [hay không tạo Nghiệp (nếu XÚC chỉ là xúc thôi)].

    Chỉ tìm Hiện Báo Nghiệp thôi, cho nên tôi ghi số 9 cho những sát-na tâm thứ nhất, mà tôi Tác Ý Gieo Nghiệp Thân-Khẩu-Ý.

    1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17

    Như vậy, chỉ trong 2 phút 50 giây -trên thực tế - đủ thời gian cho tôi gieo 10 lần Thân Khẩu Ý nghiệp, bằng sát-na tâm thứ nhất trong Tâm Đổng Tốc (9-15), [còn nói gì tôi đã có đến 30 phút!]


    Câu hỏi thứ hai:

    “2. Huynh nói rằng phước báu giữ 5 giới sẽ ngăn việc tái sinh vào 4 khổ cảnh. Tôi cũng được học như vậy. Nhưng tôi vẫn có 1 thắc mắc rằng, trước khi 1 người thọ 5 giới và giữ giới tròn đủ, thì người đó đã từng gây ác nghiệp có thể rơi vào khổ cảnh, và tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na thứ 7 trong đổng lực tâm, tức là quả sẽ trổ sinh trong kiếp kế. Vậy nếu không bị đọa xuống khổ cảnh do phước báu giữ 5 giới, thì quả của ác nghiệp sẽ trổ sanh thế nào?”

    Thưa Huynh,

    Tôi kính gửi Huynh bài kinh dưới đây của Hòa Thượng Hộ Tông, Therava. Bài kinh này có nói nói đến 4 đọa xứ và có câu “Nghiệp theo chẳng kịp khi thăng Niết Bàn”. Tôi sẽ cùng huynh học tập về câu hỏi thứ hai.

    VÔ THƯỜNG - KHỔ NÃO - VÔ NGÃ
    Diễn ra Quốc âm:

    Biển trần khổ sóng bồng lai láng,
    Kiếp phù sanh đáng chán biết bao
    Tấm thân chìm đắm dạt dào.
    Mịt mờ chưa biết đời nào thoát ly,
    Cõi giả tạm ích gì sự thế.
    Uổng tâm tư tìm kế miên trường,
    Trần hoàn vạn vật vô thường,
    Khổ não, vô ngã đầy đường chông gai.
    Do báo nghiệp lưu lai từ trước,
    Các pháp hành, tạo được thân duyên,
    Pháp hành kế tục nhau liền,
    Diệt, sanh, sanh, diệt triền miên không ngừng.
    Người hay thú đồng chung số phận,
    Hễ có thân ngũ uẩn, không bền.
    Chịu điều biến đổi đảo điên,
    Sanh, già, đau, chết không yên lúc nào,
    Thể vật chất không sao giữ nổi,
    Sức vô thường phá mỗi sát na,
    Xét cùng đâu phải thân ta.
    Khó ngăn tóc bạc không cầm răng long.
    Lửa ái dục đốt lòng từ phút,
    Vấy ưu phiền, chẳng chút nào nguôi,
    Dễ chi đặng tạm an vui,
    Suy mòn vì nhuộm nặng mùi trần ai.
    Chừng thân chết nảy hơi hôi hám,
    Người, ai ai chẳng dám lại gần,
    Gớm ghê, dầu bậc chí thân,
    Ðều sợ xui, lụy, hương lân, cửa nhà.
    Chọn một chốn rừng già hoang vắng,
    Ðem thây thi, an táng cho xong,
    Ðịa táng, hỏa táng chẳng đồng,
    Tùy duyên, tùy lực, vẫn không quản gì.
    Ðưa xác chết, người đi đông đúc,
    Kẻ thân nhân uất ức, khóc than.
    Hình hài ba khúc rã tan,
    Thanh danh tiêu diệt họ hàng cách xa.
    Khổ tử biệt thiết tha nung nấu,
    Biệt gia tài, của báu, tình yêu,
    Tấm thân ngũ uẩn đã tiêu,
    Ðất, nước, gió, lửa, về nhiều căn nguyên.
    Thân đã chẳng, thiên diên ngày tháng.
    Buổi chia lìa ngao ngán đau thương.
    Chúng sanh ba cõi vô thường,
    Nên vun cội phước, tìm đường siêu sanh.
    Lựa các thứ nhân lành gieo giống,
    Quả kết trong kiếp sống về sau,
    Mở lòng bố thí dồi dào,
    Học kinh, trì giới, khá mau tu hành,
    Kẻo rồi phải điêu linh, sa đọa,
    Vào bốn đường ác đạo khó khăn
    Vô cùng khốn khổ thân tâm,
    Ðời đời kiếp kiếp trầm luân không về
    Thân khẩu ý giữ gìn trong sạch,
    Dẫn trên đường thanh bạch mà đi,
    Dầu cho chuyển kiếp đến kỳ,
    Cũng còn trông ngóng thoát ly khổ sầu,
    Rán hối quá quay đầu hướng thiện,
    Ác nghiệp trần đoạn tuyệt chớ gieo.
    Tâm đừng xu hướng, vui theo,
    Thiện duyên gầy dựng, trần lao dứt lần.
    Các phương pháp, yên tâm tịnh trí,
    Chúng sanh cần tìm kiếm học hành,
    Cho lòng chán nản phát sanh,
    Cội nguồn tội khổ hiểu rành sâu xa,
    Pháp chán nản dạy ta suy xét,
    Khổ cõi đời số cát sông Hằng,
    Tám điều khổ não ghi bằng,
    Ðây lần lượt giải, ngọn ngành như sau.
    Cõi trần thế ra vào há dễ,
    Luật tuần hoàn nào kể chi ai,
    Thân ta chẳng lựa gái trai,
    Cũng đều mắc phải đọa đày khổ sanh.
    Khi nghiệp đến pháp hành cấu tạo.
    Thác sanh vào lòng mẹ thành phôi,
    Nguyên tố nhỏ nhít vô hồi,
    Vốn là chất lỏng, giống dầu mà trong,
    Giọt dầu ấy dính lông con thú,
    Ta cầm lên rảy giũ bảy lần,
    Chỉ còn chút ít dính gần,
    Ðó nguyên chất khởi nên thân con người.
    Bảy ngày đầu còn tươi trong vắt.
    Rồi lan lần biến sắc đổi màu,
    Ðến tuần thứ bảy về sau,
    Biến thành một chất trông vào đáng ghê
    Ðỏ dợt dợt, mỡ pha lẫn máu,
    Bởi nguyên Hành cứ tạo thêm ra,
    Lại đến bảy bữa thứ ba,
    Hóa thành chất đặc, như là thịt dư,
    Trong bụng mẹ an cư một chỗ,
    Miếng thịt thừa tội lỗi xiết chi,
    Tuy hình hườn kết thế ni
    Nhưng mềm mại, như chì rã tan.
    Tưởng tượng đến trăm ngàn ghê sợ.
    Phôi bây giờ tương tợ trứng gà,
    Phôi này còn yếu chưa già,
    Tuần tự thay đổi, bảy ngày thứ tư.
    Bảy ngày nữa từ từ biến hóa
    Bắt đầu chia tất cả năm nhành,
    Tuy hình chưa hẳn thật thành
    Nhưng đã có dạng đầu, mình, chơn, tay.
    Pháp hành đã tạo hoài không dứt.
    Tuần thứ năm thất nhựt vừa qua,
    Nhỏ to hình dáng đẩy đà
    Ba lăm ngày ấy đã ra hình hài
    Ngoài ba tháng thành thai cứng các
    Thai loài người, nào khác thú đâu.
    Cũng đều khổ não âu sầu,
    Ở trong bụng mẹ co đầu, rút chơn,
    Ngồi lổm hổm còn hơn ràng buộc
    Trên đồ ăn vừa được tiêu tan,
    Hai tay nắm lại đỡ cằm,
    Mặt day lưng mẹ, tối tăm mịt mờ.
    Quanh mình vấy chất dơ, hôi thối
    Ðầu đội đồ, mẹ mới ăn vào,
    Vừa dơ, vừa ngộp xiết bao
    Nên hằng giẫy giụa thân nào đặng yên.
    Nếu mẹ chẳng cử kiêng ăn uống,
    Mặc đói no, nuốt bướng nhai càn,
    Nóng, cay, nguội, lạnh, không màng,
    Miển vừa khẩu dục ngó ngàng chi con,
    Vật thực trúng da non của trẻ,
    Nóng giật mình, lạnh sẽ phát run,
    Ðau thương khổ não khôn cùng.
    Như chim bị trận bão bùng mưa sa.
    Lại giống khỉ trải qua mưa gió,
    Nằm co ro, một xó rét run,
    Kinh hoàng sợ sệt hết lòng,
    Chẳng kham nỗi khổ, day tầm đôi bên.
    Hoặc kiếm ở phía trên, hay dưới,
    Hoặc là nơi mấy bụi gần đây
    Chừng nào tìm được bộng cây,
    Chui vào ẩn náu thân này mới an.
    Ðủ mười tháng vẹn toàn thân thể.
    Gần kỳ sanh lòng mẹ chẳng vui
    Lo âu dạ luống bùi ngùi
    Sợ sự tai hại trong hồi khai hoa,
    Mãn toan tính đắn đo, cân nhắc,
    Biển mênh mông chưa chắc đặng qua,
    Quanh quẩn công chuyện trong nhà,
    Dễ duôi nào dám đi xa bao giờ,
    Kịp đến lúc ngồi chờ hoa nở,
    Quyến thuộc vầy kẻ đỡ người nưng
    Chịu điều đau khổ từng cơn,
    Dầu kiên gan mấy, cũng sờn nỗi đau,
    Người cả thảy, không sao tránh thoát,
    Bỗng dường như, bão tạt vào thai
    Hài nhi, như chớp, đã day,
    Theo đường kinh huyết ra ngoài sản môn.
    May được lúc lâm bồn yên tịnh.
    Cả mẹ con khỏe mạnh vuông tròn,
    Ấy nhờ hồng phúc nhà còn,
    Chúng sanh kiếp trước gây nhiều thiện căn
    Nếu phước báu không bằng tội ác,
    Khi sanh ra chịu các khó khăn,
    Dẫu còn sống sót nữa chăng?
    Gật gờ dường phải đôi lần dứt hơi!
    Vì nhân ác đến hồi trả quả,
    Chúng sanh này, thảm họa chết non.
    Chết ngộp, hoặc chết mỏi mòn,
    Chết ngoài bụng mẹ, hoặc còn trong thai
    Ngán ngẫm, kiếp sanh lai tất tưởi!
    Từ thác sanh đến buổi lọt lòng,
    Mạng căn nào biết chắc không.
    Nhưng đều phải chịu trong vòng khổ lao
    Suy nghĩ chán xôn xao tất dạ,
    Xét khổ sanh buồn bã âu sầu,
    Ðây là hết khổ đặng đâu,
    Có thân còn phải lãnh thâu khổ già!
    Sự khổ già thân ta hằng chịu,
    Dầu gái trai tiều tụy như nhau.
    Ðổi thay chẳng trước thì sau,
    Suy mòn từ lúc tốn hao từ giờ!
    Buổi niên thiếu ngây thơ, đầy đặn,
    Sắc xinh tươi đủ vẹn mười phân
    Dáng điệu đẹp đẽ tốt lành,
    Dương dương đắc ý, tuổi xanh thường tình,
    Ðộ trẻ trung vóc hình tráng kiện,
    Hằng phô bày thể diện đáng yêu,
    Thế gian ai cũng ưa chìu,
    Gái trai đều có tự kiêu thuở này,
    Mê muội tưởng đẹp hoài không giảm,
    Quá lạc lầm quí mến thân ta,
    Sắm đồ trang sức, xa hoa,
    Ðiểm tô cho đặng, đẹp ra tuyệt trần.
    Dụng kính, lược, dự phần chải gỡ,
    Giồi phấn son, sặc sỡ thêm duyên,
    Chẳng vừa sở tạo tự nhiên.
    Lấp mùi hám trược, ướp liền nước thơm.
    Công trang điểm, sớm hôm không dứt,
    Dáng bên ngoài đến cực kỳ xinh,
    Ðủ các tư cách gợi nhìn,
    Thật ra nào khác như hình trái sung.
    Xác ô uế, đều cùng nam nữ,
    Túi đựng đầy những thứ đồ dơ,
    Lại còn biến đổi dường mơ,
    Chậm, mau, rồi cũng có ngày tiêu tan!
    Hữu tình đến vội vàng tuổi hạc,
    Mái tóc xanh trắng bạc như bông,
    Dầu cho cạn trí hết lòng.
    Cản ngăn nó cũng vẫn không nghe nào.
    Tay chơn thảy mòn hao, gầy yếu,
    Lần lần còn xương chịu lấy da,
    Thôi thời tráng kiện đã qua,
    Vô thường xô đuổi, tuổi già đến thay.
    Mắt sáng suốt những ngày rực rỡ.
    Chưa bao lâu đã trở nên lờ,
    Trông xa các vật tờ mờ
    Nhãn quan suy kém, có chờ cho đâu,
    Ðồng thời phát khổ sầu tai điếc,
    Lắng mà nghe chẳng thiệt tiếng tăm,
    Nghe lầm, ắt nói lại lầm,
    Nhĩ quan đã hẳn âm thầm hoại tiêu.
    Cuộc biến đổi rất nhiều cơ sở,
    Ðây trưng ra mấy cớ thật gần,
    Như răng, phải rụng lần lần,
    Ðó là triệu chứng tấm thân đã già.
    Tham luyến sống, cũng là phải chết,
    Thân hữu hình, chưa hết bao lâu,
    Thế rằng: "Sanh tử quan đầu".
    Ta nên lấy nó làm câu răn mình.
    Cũng có kẻ quá tin sức khỏe.
    Tâm trẻ con, thân thể đã già.
    Có ai kêu thử, ÔNG, BÀ.
    Dầu không oán giận, cũng là không vui
    Nghe tiếng gọi ngậm ngùi không dĩ,
    Trái lại kêu bằng CHỊ hay ANH,
    Tưởng mình đương độ xuân xanh,
    Vui mừng thỏa mãn, làm lành thêm lên,
    Hạng người thế không nên ái truất,
    Người chẳng thông kinh luật khuyên răn,
    Hạng này hay có làm xằng
    Ai thân cận lắm, ắt hằng nhơ lây,
    Nghĩ chín chắn thân này ắt hoại.
    Ðã nhớp nhơ mà lại không bền,
    Khổ, Già, đeo đuổi một bên,
    Khổ Ðau, liên tiếp cho thêm não nề,
    Ôi! Thảm khốc, nhắc về Bịnh khổ,
    Một cơn đau phát lộ đến ta,
    Do nhiều bịnh chứng hà sa,
    Toàn thân rũ riệt thiết tha lắm hồi.
    Bệnh suyễn, mệt, nói thôi không xiết,
    Bịnh ho, lao, bịnh kiết, ung thư,
    Ghẻ chốc, tê, bại cốt hư,
    Ðàn ông cũng phải chịu như đàn bà,
    Bịnh cùi, lác, thúi da, lầy lụa.
    Những lang ben ăn túa châu thân,
    Nhức đầu, xổ mũi, rút gân,
    Phù thủng sưng khắp tay chân, mặt mày,
    Lưng gối mỏi, thiên thời, gió rét,
    Bịnh đau răng, mũi ngẹt, trái ban,
    Sưng phổi, cạn mật, héo gan,
    Những bệnh hư thận nhiệt hàn cũng lo,
    Cử đôi bịnh, nghiệm cho ra lẽ,
    Dầu bịnh cơ nặng nhẹ khác nhau,
    Nhưng mà đã phải vương đau,
    Khổ thân chẳng biết tả sao cho cùng,
    Ðời hay nói: "Ðau chân hả miệng",
    Ngoài thuốc thang còn chuyện dị đoan
    Nhờ thầy bố trận, lập đàn,
    Ông này, bà nọ cầu an đêm ngày,
    Sợ có sự nạn tai dồn dập,
    Cầu hỏi cho đặng gặp cơ duyên,
    Hết lòng khấn vái chư Thiên,
    Hộ căn bịnh ấy, giảm thuyên từ rày,
    Vong cha mẹ trên mây, ngoài gió,
    Hoặc ông bà, mà có hiển linh,
    Xin về độ bịnh mạnh lành.
    Sửa sang tế vật, lòng thành dâng cho
    Bởi lầm lạc chẳng lo kinh kệ.
    Mãi chuyên cần, tế lễ cầu xin.
    Bịnh do nghiệp chướng của mình,
    Há vì cúng quảy bịnh tình thoát sao,
    Thân đã có, nguồn đau phải có,
    Mãi tối tăm chẳng rõ hiệp tan,
    Chúng sanh trong cõi thế gian,
    Nặng nhẹ đều phải vương mang bịnh trần
    Chỉ tránh khỏi có phần LA HÁN,
    Cảnh NIẾT BÀN dứt nạn khổ đau,

    Còn trong ba cõi trần lao.
    Những sự chết, sống ốm đau là thường
    Thấy bịnh hoạn cảm thương thân thế,
    Cũng toan lo, tìm kế giải sầu,
    Khổ đau càng thấm càng lâu,
    Rồi đến khổ CHẾT bắt đầu dấn theo.
    Khi khổ CHẾT đã gieo mầm dữ,
    Thân chúng sanh mất sự thăng bằng,
    Trẻ già đều phải hãi hùng,
    Nhưng gần đến chết thì lòng hay quên,
    Cơn hấp hối, run lên không dứt,
    Khắp thân mình, thịt giựt, gân thun,
    Tay chơn chuyển động vẫy vùng,
    Ruột, gan, dao cắt vô cùng đớn đau,
    Ngày tận số, lâu, mau đã tới,
    Cái THỨC THẦN lìa với xác dơ,
    Rồi thân ba khúc nằm trơ,
    Toàn thây lạnh buốt, cứng rờ như cây,
    Quyến thuộc vẫn trông thây than tiếc,
    Người chết rồi còn có biết chi,
    Thân kia đã gọi thây thi.
    Con người ấy gọi là đi qua đời.
    Khi đã chết không nhờ của cải,
    Cùng vợ chồng, con cái, mẹ cha,
    Anh em, quyến thuộc, gần xa,
    Khó trông dīu dắt, cõi ma, một mình,
    Thậm chí đến, đồng trinh cắc bạc,
    Ðể trong môi, người thác theo lề,
    Cũng không đem được dựa kề,
    Cõi trần để lại, ra về HỒN không!
    Quỹ VÔ THƯỜNG, vô song quyền thế
    Giết chúng sanh bất kể gái trai,
    Giết người chẳng lựa cho hay,
    Dầu CHƯ THIÊN cũng bị tay vày vò,
    Ðời sanh sống làm cho tiêu diệt,
    Sát sanh linh chẳng biết xót than!
    Chỉ trừ một cõi NIẾT BÀN
    VÔ THƯỜNG chẳng dám lộn hàng đến đây,

    Bởi chưng ở cảnh này tịch tịnh,
    Ðầy yên vui chẳng dính bụi trần,
    Phước báu to lớn muôn phần,
    Chẳng hư, chẳng hoại là thân vàng ròng,
    Tưởng chết sống, sanh lòng phiền não,
    Muốn khỏi thì rán tạo phước duyên,
    Cố công TRÌ GIỚI, THAM THIỀN,
    Ðặng có kết quả, về miền AN VUI
    Chớ hờ hững dễ duôi sự ác,
    Ðừng để cho lầm lạc càng tăng,
    Tỉnh liền, vun tưới thiện căn,
    Nghiệp theo chẳng kịp, khi thăng NIẾT BÀN
    Nếu lần lựa, muộn màng sanh hại,
    Cũng đừng nên ỷ lại vào ai,
    Bút thô (Buddho) một tiếng Tăng bày,
    Trong cơn hấp hối, niệm sai, lạc đường.
    Ta nên nhớ VÔ THƯỜNG, KHỔ NÃO,
    Ðừng đợi cho nghiệp báo đến nơi.
    Ðọa đày vừa lúc tắt hơi,
    Bốn đường ác đạo đời đời khó ra,

    Sự khổ chết, nguyên là nghiệp dữ,
    Luật luân hồi, tử tử, sanh sanh.
    Còn khổ quả báo sẵn dành,
    Chính ta gây kết đã thành từ lâu,
    Vô minh đã gieo sâu nhân ác,
    Nhân đến hồi kết các quả sầu,
    Do câu "THIỆN ÁC ÐÁO ÐẦU"
    Về sau phải chịu, vui rầu chẳng sai.
    Vì lầm lạc giữ hoài tâm ác,
    Cõi trần này giết thác sanh linh.
    Mà không một chút niệm tình,
    Cứ làm việc dữ, tự mình không lo,
    Vật có chủ, không cho cũng cắp,
    Vợ con người, mê hoặc tà dâm
    Tính toan mưu kế âm thầm
    Chẳng kiên luât pháp, tối tăm làm liều,
    Nói dối cũng một điều rất dữ,
    Lòng phát ra miệng cứ nói đùa
    Có người uống rượu say sưa,
    Dầu ai thức tỉnh, không chừa thói quen.
    Cõi hiện tại, nhúm nhen, ngũ nghiệp
    Tánh xấu xa chẳng kịp đổi thay,
    Chết rồi phải bị đọa đày,
    Xuống nơi ÐỊA NGỤC chịu hoài nạn tai,
    Các tội ác không sai một bước,
    Bóng theo hình, cái trước, cái sau,
    Nhân nào quả nấy, liền nhau
    Mình gây mình chịu, ai vào giúp ta,
    Bị quỷ sứ hành hà đánh đập,
    Kéo lôi bừa, bầm dập, chẳng thương,
    Lửa phiền thiêu đốt thịt xương.
    Chết sống, sống chết luôn luôn không ngừng.
    Sự khổ cực bởi thân ác báo,
    Gái hay trai, đã tạo phải mang,
    Cảnh này ác quả đã tan,
    Sanh làm NGẠ QUỈ nhẹ nhàng đôi phân.
    Giống ngạ quỉ toàn thân ghê tởm,
    Ðói khát khao, hôm sớm nhe nanh,
    Ăn ròng máu mủ hôi tanh.
    Hết kiếp ngạ quỉ tái sanh lên đời.
    Loài súc vật trên bờ dưới nước.
    Lớn nhỏ, vì từ trước dễ duôi,
    Ðành cam số phận hẩm hiu,
    Làm những vật thực để nuôi mạng người,
    Bắt giết hại mấy mươi chẳng tiếc,
    Tàn sát cho đáng nghiệp hồi xưa,
    Hành hình thảm khốc mới vừa,
    Ðó là QUẢ BÁO có chừa chi ai,
    Cũng có kẻ đầu thai THẦN QUỈ
    A TU LA, NGẠ QUỈ khác chi,
    Cũng đều đói khát nhiều khi,
    Chịu chẳng biết mấy TĂNG KỲ[*] kiếp lâu
    Kiếp quá khứ rất giàu tội khổ,
    Tội khổ này chẳng bỏ sót ai,
    Chúng sanh khắp hết bốn loài,
    Thấp hóa, không hạn. Noản thai chẳng trừ,
    Nhân ác đã gieo từ vô thỉ,
    Quả xấu xa trực chỉ gieo mình,
    Làm cho tất cả chúng sanh,
    Mỗi kiếp phải chịu khổ hình như trên.
    Cõi giả tạm dường tên thắm thoát,
    Kiếp này qua, kiếp khác đến thay,
    Rồi trong những kiếp vị lai.
    Cũng là khổ não bao vây liền sát,
    Khiến chúng sanh lầm lạc thêm hoài.
    Vì chưa thoát khỏi trần ai.
    Nên những nghiệp dữ không ngày nào xa.
    Ðây ta thử xét qua hiện tại.
    Chẳng khổ nào sánh lại khổ ăn,
    Vì nhân đói khát, khó khăn,
    Muốn cho no đủ, nên hằng phải lo,
    Nghèo sạch đất, giàu to cũng thế.
    Nhọc ưu tư, nào kể ngày đêm.
    Có rồi lại muốn có thêm,
    Bằng người chưa có cũng tìm cho ra,
    Nếu biếng nhác ở nhà thong thả,
    Ăn không lo, lỡ cả núi sông,
    Mối ăn nặng cánh bên lòng.
    Mãn nuôi mạng sống, dày công liệu lường,
    Già chí trẻ vẫn thường lam lụng,
    Làm kiếm ăn phải dụng tấm thân,
    Xác thịt lẫn với tinh thần,
    Khó khăn cũng chịu, nhọc nhằn cũng cam,
    Bịnh đói khát hằng ngày vất vả,
    Thuốc dầu hay, chẳng đã tật này,
    Không được ăn uống, ốm gầy,
    Càng lâu ắt phải bỏ thây cõi trần,
    Ăn hay gấp mấy lần diệu dược,
    Có ăn rồi, bịnh được giảm thuyên,
    Chúng sanh dầu biếng cũng siêng,
    Không sao tránh khỏi phải quyền sanh nhai.
    Có kẻ rán cấy cày, đào, cuốc,
    Luống chuyên cần, rẫy bái ruộng nương,
    Kẻ thì làm mướn, bán buôn.
    Biết bao khổ cực, luôn luôn một đời.
    Người giàu có, thảnh thơi đôi chút.
    Bởi từ xưa quả phúc vo tròn.
    Cõi trần, hái trái ngọt ngon
    Khỏe thân, nhưng cũng vẫn còn khổ tâm
    Những khổ não đã lần lượt giải
    Vắn tắt đây, đại khái tám điều
    Chúng ta lấy đó làm nêu,
    Gái trai cũng phải chịu điều khổ lao
    Biết rõ khổ, ta mau thức tỉnh
    Rán tu hành, Giới Ðịnh làm căn.
    Mong cầu giải thoát trói trăn
    Trần khổ xa tách nhẹ thăng Niết Bàn.



    Thiển ý của tôi:

    “Huynh nói rằng phước báu giữ 5 giới sẽ ngăn việc tái sinh vào 4 khổ cảnh. Tôi cũng được học như vậy. Nhưng tôi vẫn có 1 thắc mắc rằng, trước khi 1 người thọ 5 giới và giữ giới tròn đủ, thì người đó đã từng gây ác nghiệp có thể rơi vào khổ cảnh, và tác ý tạo nghiệp rơi vào sát na thứ 7 trong đổng lực tâm, tức là quả sẽ trổ sinh trong kiếp kế. Vậy nếu không bị đọa xuống khổ cảnh do phước báu giữ 5 giới, thì quả của ác nghiệp sẽ trổ sanh thế nào?”

    Câu “Nghiệp theo chẳng kịp khi thăng Niết Bàn” đã là lời khẳng định. Lúc Hữu Dư Niết Bàn thì thân tứ đại còn thọ quả của Nghiệp Thiện, Nghiệp Bất Thiện đã gieo nhân từ trước. Khi Vô Dư Niết Bàn thì tất cả rớt trở lại (không theo vị ấy nữa).

    Đức Phật Thích Ca (hữu dư Niết Bàn) có thọ quả thân bất thiện nghiệp, cho nên Ngài gặp những việc này:

    1- Đề Bà Đạt Đa oan trái, cố ý hãm hại Phật.
    2- Đề Bà Đạt Đa lăn đá làm bầm ngón chân của Phật.
    3- Lương Y Jivaka dùng dao mổ (lấy máu bầm) nơi ngón chân của Phật.
    4- Nàng Cinca vu khống Phật.
    5- Voi Nalagiri định xông đến với ác tâm sẽ chà đạp Phật.
    (Theo “Tám Sự Tích Phật Lực”, Tỳ Khưu Hộ Pháp, Webmaster: binhanson.com”

    Nhân sanh Quả là tất nhiên, nhưng cần có duyên thì Nhân mới có cơ hội trổ Quả.

    Mùa thu vừa qua tôi bỏ vào chậu đất một nhúm hột ớt. Một tuần sau thì thấy lú nhú nhiều mầm non. Tôi định sẽ mua chậu nhỏ, chiết cây ớt ra, nhưng bận nhiều việc nên quên. Tôi quên cả tưới nước. Chúng chỉ uống nước mưa từ ngoài hiên hắt vào. Trời se lạnh. Khi tôi nhớ đến thì tất cả những cây ớt ngủ luôn rồi. Tất cả hạt gieo vừa nhú lên, chưa cao đến một ngón tay, đã lụi tàn, không ra trái; tại vì thiếu Duyên: đất, phân bón, nắng, nước, và thời tiết.


    Thọ trì Ngũ Giới có 83 quả phúc:

    1- Không Sát Sanh có 23 quả phúc.

    2- Không Trộm Cắp có 11 quả phúc

    3- Không Tà Dâm có 20 quả phúc.

    4- Không Nói Dối có 14 quả phúc.

    5- Không Uống Rượu có 15 quả phúc.
    (Theo quyển: “Cư Sĩ Giới Pháp”, Tỳ Kheo Giác Giới, Theravada, Webmaster: binhanson.com)


    Như vậy, đối với người thọ trì Ngũ Giới cho được tròn đủ thì (bản thân của) NGŨ GIỚi là DUYÊN cho những Nhân Thiện trổ quả lành trước, như vậy, Nhân Bất Thiện THIẾU DUYÊN để trổ quả. Thêm vào đó, 83 quả phúc lành của Ngũ Giới cũng là DUYÊN “xóa mờ” lối vào 4 ác đạo và là DUYÊN đưa người giữ Ngũ Giới (được tròn đủ ấy) xa dần, xa dần lối vào 4 đường ác đạo. Nếu người ấy tu tập để “Giới năng sanh Định”, thì các tầng trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới lại là DUYÊN “ngăn sông, cách núi” lối vào 4 ác đạo. Nếu người ấy tu tập để “Định năng sanh Tuệ” và Giải Thoát, Giác Ngộ, Niết Bàn thì …chấm dứt tất cả DUYÊN (để Nhân nương vào sanh Quả).


    Như vậy, những Bất Thiện Nghiệp đã làm của một người trước khi giữ tròn Ngũ Giới đã nhờ Giới nâng đỡ, đã nhờ Giới làm DUYÊN , đã nhờ 83 quả phúc của Giới làm DUYÊN “đóng cửa” lối vào Atula, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục.

    Và như thế, không những chỉ có những tác ý tạo Ác Nghiệp rơi vào những sát-na tâm thứ 7 của Tâm Đống Tốc (9-15) thiếu duyên để trổ Sanh Báo Nghiệp, mà tất cả những tác ý tạo Ác Nghiệp rơi vào những sát-na tâm thứ 2 (10), sát-na tâm thứ 3 (11), sát-tâm thứ 4 (12), sát-na tâm thứ 5 (13), sát-na tâm thứ 6 (14) đều thiếu duyên để trổ Hậu Báo Nghiệp.


    Tôi đã trình bày xong thiển ý của tôi về hai câu hỏi của Huynh. Mong rằng, cho dù không hiểu đúng về Vi Diệu Pháp, Huynh và tôi vẫn an vui do bởi tác ý làm lành, lánh dữ. Mong Huynh hoan hỷ!


    Tôi kính gửi trích đoạn về Ngũ Giới - trong quyển “Cư Sĩ Giới Pháp” đến Huynh và đến những ai muốn tránh xa 4 đường ác đạo.

    “Ngũ giới là năm giới căn bản mà người cư sĩ phải giữ đến trọn đời nên ngũ giới cũng được gọi là Thường nhật giới (niccasīla), gồm năm điều là:

    1- Kiêng tránh sát sanh (pāṇātipātā veramaṇī), tức là tránh sự giết hại các sinh vật, loài có thức tánh. Gọi là giới sát sanh.

    2- Kiêng tránh trộm cướp (adinnādānā vera-maṇī), tức là tránh sự đoạt lấy tài sản sở hữu của người khác mà người đó chưa bằng lòng cho. Gọi là giới trộm cắp.

    3- Kiêng tránh tà hạnh dục lạc (kāmesu micchā-cārā), tức là tránh sự quan hệ tình dục bất chính với người khác ngoài vợ hoặc chồng của mình. Gọi là giới tà dâm.

    4- Kiêng tránh sự nói dối (musāvādā), tức là tránh nói lời không đúng sự thật, lừa dối người khác; thậm chí không nói dối để vui cười. Gọi là giới nói dối.

    5- Kiêng tránh sự uống rượu và chất say (surā-merayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī) tức là tránh sự say sưa rượu chè, không uống các loại chất say. Gọi là giới uống rượu.


    CHI CỦA GIỚI (Aṅga)

    Chi của giới, tức là những điều kiện để kết luận một hành động sai phạm mà chỉ là bất tịnh giới hay hư hoại giới. Một hành động sai phạm mà gọi là đứt giới phải hội đủ chi phần; nếu chưa hội đủ chi giới thì chỉ là bất tịnh thôi.
    Ở đây không nói riêng biệt chi của ngũ giới và chi của bát quan trai giới, mà chỉ nói chung những điều giới cần phải biết.

    * "Giới sát sanh" có 5 chi:

    1- Đối tượng bị hại là sinh vật có thức tánh (pāṇa).
    2- Kẻ giết biết rõ đối tượng là sinh vật (pāṇa-saññī).
    3- Có tâm sát hại (vadhakacitta)
    4- Hành động cố sát (upakkamo)
    5- Đối tượng bị chết vì sự cố sát ấy (tenama-raṇaṃ)
    Hội đủ 5 chi này mới gọi là phạm giới sát sanh.


    * "Giới trộm cắp" có 5 chi:

    1- Vật bị lấy là vật có chủ bảo quản (paraparig-gahitaṃ).
    2- Kẻ lấy biết rõ là vật có chủ (paraparigga-hitasaññī)
    3- Có tâm trộm cắp (theyyacittaṃ)
    4- Cố sức lấy trộm (upakkamo)
    5- Vật đã bị đem đi khỏi chỗ do sự trộm ấy (tena haranaṃ)
    Hội đủ 5 chi này mới gọi là phạm giới trộm cắp.


    * "Giới tà dâm" trong ngũ giới, có 4 chi:

    1- Đối tượng không nên đi đến (agamanīyat-thānaṃ), tức là người không hợp pháp cho quan hệ tình dục.
    2- Có tâm muốn hưởng dục với người ấy (tasmiṃ sevanācittaṃ)
    3- Cố gắng hành động (upakkamo)
    4- Đã hành động tình dục (maggena maggappa-ṭipādanaṃ)
    Hội đủ bốn chi này gọi là phạm giới tà dâm.


    * "Giới hành dâm" trong bát quan trai giới, có 4 chi:

    1- Có lỗ khiếu để hành dâm (bhedanavatthu), tức là trong thân có 3 khiếu, tính theo hạng người tổng cộng có 30 khiếu.
    2- Có tâm muốn hướng dục (sevanācittaṃ)
    3- Cố gắng hành động theo ý muốn (tajjovā-yāmo)
    4- Đã hành động tình dục (maggena maggappa-ṭipādanaṃ), là đã làm cho khiếu chạm khiếu.
    Hội đủ 4 chi ấy gọi là phạm giới hành dâm.


    * "Giới nói dối" có 4 chi:

    1- Chuyện không thật (atathaṃvatthu) tức là chuyện có nói không, chuyện không nói có.
    2- Có tâm muốn nói sai (visaṃvādanacittaṃ)
    3- Cố gắng nói sai (tajjo vāyāmo)
    4- Người nghe đã tin chắc lời nói đó (parassa tadatthavijānānaṃ)
    Hội đủ 4 chi này gọi là phạm giới nói dối.


    * "Giới uống rượu" có 4 chi ":

    1- Thức uống là chất say (majjanīyavatthu), tức là nước uống có nồng độ
    2- Có tâm muốn uống (Pātukamyatācittaṃ)
    3- Cố sức uống chất say ấy (tajjo vāyamo)
    4- Đã uống nước say ấy (tassa pānaṃ), tức là dù một giọt rượu nuốt khỏi cổ cũng gọi là uống rượu.
    Hội đủ 4 chi này gọi là phạm giới uống rượu.


    PHÁP HỔ TRỢ CHO GIỚI.

    Người cư sĩ cần phải tu tập năm pháp lành (kalyānadhamma), là pháp hỗ trợ cho sự giữ giới tốt đẹp (atthakathā):

    1) Từ bi (mettākaruṇā), tính hài hoà vô sân, có lòng trắc ẩn trước đau khổ của chúng sanh mọi loài. Khi người cư sĩ tu tập đức tính này thì sẽ không nỡ hại chúng sanh, không nỡ đoạt mạng sống các sinh vật. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ nhất (tránh sự sát sanh).

    2) Chánh mạng (sammā-ājiva), có sự tinh tấn trong việc nuôi mạng, quyết không nuôi mạng bằng nghiệp bất thiện. Khi người cư sĩ vui sống chánh mạng sẽ không nghĩ đến gian tham trộm cướp tài sản của kẻ khác. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ hai (tránh sự trộm cắp).

    3) Phòng hộ dục trần (kāmasaṃvara). Kềm giữ tâm không đam mê sắc dục, luôn thấy được sự nguy hiểm của ngũ trần. Khi người cư sĩ có sự thu thúc như vậy sẽ không khởi lên tà ý với vợ con người khác. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ ba (tránh sự tà dâm).

    4) Chân thật (sacca). Tính ngay thẳng trung thực, ưa thích sự thật, không thích dối trá. Khi người cư sĩ vui trong pháp chân thật sẽ khó chịu nếu nói dối. Đây là pháp hỗ trợ giới thứ tư (tránh sự nói dối).

    5) Chánh niệm tỉnh giác (satisampajañña). Sống kiểm soát và nhận thức, ghi nhớ và suy niệm. Khi người cư sĩ quen sống chánh niệm tỉnh giác sẽ không có sự dể duôi quên mình.

    Đó là pháp hỗ trợ giới thứ năm (tránh uống rượu).


    QUẢ PHÚC CỦA SỰ TRÌ GIỚI

    Sự trì giới có rất nhiều lợi ích. Trước hết là giữ giới có năm điều lợi ích thiết thực (Ud.86):

    1- Nhờ sự không dể duôi mà đạt được tài sản lớn.
    2- Có danh thơm tiếng tốt đồn xa.
    3- Đi đến hội chúng, tâm dạn dĩ ung dung
    4- Lúc chết không hôn mê
    5- Sau khi chết, được sanh vào nhàn cảnh thiên giới.

    Có lợi ích thiết thực khác nữa (A.V.1) như Đức Phật dạy cho tôn giả Ānanda rằng:

    "Này Ānanda, giới là thiện, giới có mục đích là bất hối, có lợi ích là bất hối".

    Khi người giữ giới không làm những điều lỗi lầm tội ác, do vậy, người ấy không bị ray rứt lương tâm, không sống trong trạng thái hối hận, tâm được an lạc tự tại.

    Người cư sĩ thọ trì chín chắn ngũ giới, nếu nói riêng mỗi điều giới thọ trì có quả phúc như sau:

    "Không sát sanh" có 23 quả phúc:

    1- Được trường thọ
    2- Thân không tàn tật
    3- Ít bệnh hoạn
    4- Thân hình vừa vặn
    5- Thân thể xinh tốt
    6- Tướng khoan thai cao ráo
    7- Cử chỉ linh hoạt
    8- Bước chân đi dáng đẹp
    9- Vẻ mặt tươi sáng
    10- Tính tình nhu hòa
    11- Tinh thần an vui
    12- Tâm dạn dĩ dũng cảm
    13- Có nhiều sức mạnh
    14- Nói năng bặt thiệp
    15- Không bị quần chúng bắt nạt
    16- Không có sự kinh hoàng sợ hãi
    17- Không bị kẻ thù hãm hại
    18- Không bị chết do người cố sát
    19- Không có chuyện bực mình
    20- Thân thể sạch sẽ
    21- Có đông tùy tùng
    22- Được mọi người thương mến
    23- Không gặp cảnh sanh ly tử biệt


    "Không trộm cắp" có 11 quả phúc:

    1- Có nhiều của cải
    2- Có thực phẩm đầy đủ
    3- Kiếm được thực phẩm dễ dàng
    4- Có được tài sản chưa có
    5- Tài sản có rồi được giữ vững
    6- Muốn gì được đó
    7- Tài sản không bị tiêu hao do thiên tai, hoả hoạn, trộm cướp, tịch biên hay do người thân.
    8- Có được tài sản không bị tranh đoạt.
    9- Không bị nghe và biết "sự không có".
    10- Ở đâu cũng được an vui.
    11- Dễ đạt được tài sản Siêu thế.


    "Không tà dâm" có 20 quả phúc:

    1- Không bị thù địch
    2- Không bị người ganh ghét
    3- Không bị tai nạn do người hại
    4- Ít bị xa lìa người thương
    5- Là chỗ thương yêu của mọi người
    6- Có nhiều thân hữu quí mến
    7- Tìm cái ăn, cái mặc, chỗ ở dễ dàng
    8- Ngủ nghỉ được an vui
    9- Thức giấc được an vui
    10- Nằm ngồi chỗ nào cũng an vui
    11- Sinh kế không khó khăn
    12- Không dễ bực mình
    13- Không sanh khổ cảnh
    14- Không sanh làm người bán nam bán nữ
    15- Tánh người nghiêm túc
    16- Làm việc minh bạch
    17- Tướng mạo uy nghi
    18- Ngũ quyền (mắt, tai ... ) đầy đủ
    19- Cổ không cúp, "Tức là có oai phong"
    20- Không gục mặt, "Tức là có uy quyền"


    "Không nói dối" có 14 quả phúc:

    1- Có ngũ quyền (mắt, tai ... ) được trong sáng
    2- Có lời nói thanh tao
    3- Có hàm răng khít khao đều đặn
    4- Không quá mập
    5- Không quá ốm
    6- Không quá cao
    7- Không quá lùn
    8- Được hưởng xúc lạc
    9- Miệng thơm như hoa sen
    10- Lưỡi mỏng đỏ như cánh sen
    11- Không câm ngọng
    12- Có được kẻ tùy tùng tín cẩn
    13- Lời nói được tín nhiệm
    14- Tâm trí không bị rối loạn


    "Không uống rượu", có 15 quả phúc:

    1- Làm người có trí nhớ tốt, không bị lẫn
    2- Không bị điên khùng, đờ đẫn
    3- Có sự hiểu biết mau lẹ
    4- Thành người đa trí
    5- Làm người tri thức
    6- Làm người hiểu biết điều lợi ích và điều không lợi ích.
    7- Làm người không hoảng hốt
    8- Làm người không có sự bực bội
    9- Không bị người vu khống
    10- Làm người nói năng nghiêm túc
    11- Làm người siêng năng chăm chỉ
    12- Làm người tính trung thực
    13- Làm người có liêm sỉ
    14- Luôn có sự an vui
    15- Luôn được người kính nể.

    Đó là những quả phúc của việc trì giới”


    Rất hoan hỷ được học tập cùng Huynh, Huynh Workerbee!

    Chúc Huynh an lành. Chúc tất cả thành viên an lành.

    Trân Trọng
    CUUBAOLONG
    Last edited by CUUBAOLONG; 26-03-2012 at 07:05 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 112
    Bài mới gởi: 21-05-2019, 08:28 AM
  2. Hành trình một linh hồn
    By TuTam in forum Thông thiên học
    Trả lời: 33
    Bài mới gởi: 18-10-2013, 02:27 PM
  3. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 30-09-2013, 07:34 AM
  4. Trả lời: 20
    Bài mới gởi: 06-04-2012, 11:22 PM
  5. Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 24-11-2011, 12:30 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •