Toi coppy duoc doan nay, moi bguoi tham khao:
" Sự thật thì bài thơ này không phải của ông Hồ, mà là của một người theo Việt Nam Quốc Dân Đảng người Hà Nam ở trong nhóm nhà văn Đào Trinh Nhất, Sở Cuồng Lê Dư (rất tiếc không còn nhớ rõ tên)…. Bài thơ được đăng ở báo Cải-Tạo năm 1948 ở Hà Nội. Không rõ nguyên bản như thế nào, nhưng có hai bản được chép đi chép lại như sau:
“Cũng tai, cũng mắt, cũng anh hùng
Tôi, bác cùng chung chí kiếm cung
Bác phá quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp lá cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
Bác có khôn thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mệnh đã thành công”.
Có bản khác viết rằng:
"Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng,
Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công."
Có hai lý lẽ sau đây chứng minh bài thơ này không phải của ông Hồ:
a)- Hai câu thơ: ”Tôi trừ giặc Pháp lá cờ Hồng" và câu "Rằng tôi cách mệnh đã thành công” là không đúng với thực tế lịch sử lúc đó, tức là năm 1948. Lúc đó ông đã trừ được Pháp đâu, ngược lại Pháp nó đánh cho chạy te tua, và cách mạng đã thành công đâu, vì Bảo Đại lại trở về đối đầu với ông. Mấy câu đó không đời nào ông Hồ lại viết ra ngược ngạo như thế?
b)- Tiểu sử của ông Hồ từ lúc sinh ra cho đến năm 1911 là lúc ông Hồ lấy tên Nguyễn Văn Ba đi làm bồi tầu cho Pháp chưa bao giờ ông ra xứ Bắc. Năm 1941 ông mới về Cao Bằng, 1942 sang Tầu bị Trương Phát Khuê bắt đến năm 1944 mới được trở về lại Cao Bằng. Đến ngày 26/08/1945 mới về tới Hà Nội ở nhà ông Trịnh Văn Bô viết tuyên ngôn Độc Lập. Ở tại Hà Nội để đối phó với quân Tưởng sang tiếp thu súng của quân đội Nhật. Ở Hà Nội tổ chức bầu cử Quốc hội. Đến 31/05/1946 đáp máy bay đi Pháp. Đến ngày 20/10/1946 trở về tới Hải Phòng đi thẳng về Hà Nội. Đến ngày 19/12/1946 là ngày toàn quốc kháng chiến bắt đầu đánh Pháp rút về an toàn khu. Đến năm 1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn may mắn cả Bộ Chỉ huy kháng chiến chạy thoát vào rừng. Từ đó Bộ Chỉ huy ở luôn trong rừng cho đến khi chiến thắng Điện Biên Phủ.
Năm 1948 quân Pháp đóng ở Đông Khê, ở Cao Bằng và khắp các thành phố miền Bắc. Ở Hải Dương nơi có Đền Kiếp Bạc, Pháp đóng 7 cái đồn bao phủ chung quanh Đền Kiếp Bạc để đối đầu với chiến khu Đông Triều của tướng Văn Tiến Dũng. Người Pháp kêu tên 7 cái đồn đó là 7 cái chùa (Sept Pagodes) bộ Chỉ huy đóng ở Phả Lại. Pháp đóng quân ở quanh Đền Kiếp Bạc đi hành quân lục soát gọi là đi càn (đi ruồng) thường xuyên trong vùng. Như vậy cho kẹo ông Hồ cũng không dám về thăm Đền Kiếp Bạc. Theo hồi ký của ông Vũ Kỳ, thư ký của ông Hồ thì năm 1965, Ông Hồ có về thăm Côn Lôn nơi Nguyễn Trãi cư trú lúc thôi làm quan. Như vậy cả đời ông Hồ chưa bao giờ đến Đền Kiếp Bạc thì không khi nào ông là tác giả bài thơ đó.
Thật ngạc nhiên, ông Hoàng Ngọc Hiến là nhà nghiên cứu lại không biết bài thơ này không phải của ông Hồ nhất là ông lại là nhà nghiên cứu ở ngoài Bắc.
(bai nay toi coppy tren sachhiem.net/THOISU_CT/ChuL/LeVanViet.php)
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks