Trang 2 trong 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
kết quả từ 21 tới 27 trên 27

Ðề tài: Tiếng chửi là vô ngã

  1. #21

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi boy93 Xem Bài Gởi
    Vô ngã nghĩa là sao mấy bác? Em nhớ hình như có dc nghe nghĩa của từ này rồi mà quên mất, là vô nghĩa à?
    Vô Ngã theo tôi hiểu là Không có tự tính riêng.
    Không phải là không có tự tính mà là không có tự tính riêng.
    Tức là tự tính trùng với tự tính của Đại Vũ trụ. tức là chỉ có tự tính chung mà thôi.

    Không có cái gì thể hiện là của riêng cho dù là: Sắc, Thọ, tưởng, hành, Thức!
    Không biết có đúng không?
    Xin các Thầy và bạn Đạo chỉ dạy thêm ạ.
    Cảm ơn nhiều!
    Dân ham sính lễ là điềm nguy xã tắc
    Khi nào dân Ngộ Đạo mới là điềm Thịnh của Quốc gia

  2. #22

    Mặc định

    Vô ngã là thế này này :

    1. Danh

    Đức vua Mi-lan-đà sau khi đảnh lễ Tăng chúng tám mươi ngàn vị cùng với đại đức Na-tiên, ngồi một nơi phải lẽ, đức vua khởi chuyện:

    - Bạch đại đức, Trẫm muốn đàm luận với ngài vài điều được chăng?

    Tỳ kheo Na-tiên đã quan sát vị vua hữu danh đã từng làm cho các tôn giáo điên đảo từ bấy lâu nay. Quả thật là không hư truyền, vì ngài chưa từng gặp một người có tướng mạo phi phàm như thế. Nhưng với thắng dũng, thắng trí và thắng tuệ, ngài cảm thấy không khó khăn gì khi nhiếp phục đức vua này.

    Khi nghe hỏi, Na-tiên tỳ kheo mỉm cười đáp:

    - Tâu đại vương, ngài cứ hỏi, bần tăng sẽ nghe.

    - Bạch đại đức, trẫm hỏi rồi, ngài hãy nghe đi.

    - Tâu đại vương, bần tăng nghe rồi, ngài hãy nói đi!

    - Bạch đại đức, Trẫm hỏi rồi.

    - Tâu đại vương, bần tăng đáp rồi.

    - Ngài đáp như thế nào?

    - Đại vương hỏi như thế nào?

    Chỉ vài câu vấn đáp khởi đầu, cử tọa thính chúng gồm tám mươi ngàn Tăng chúng, năm trăm tùy tùng của đức vua cùng với cận sự nam nữ đông đặc bên ngoài giảng đường... đều cảm thấy thú vị, họ cất tiếng hô "lành thay" vang rền như sấm dội.

    Đợi cho không khí yên lặng, nhà vua hỏi tiếp:

    - Bạch đại đức, ngài tên gì?

    - Tâu đại vương! Bần tăng tên là Na-tiên! Thầy tổ, huynh đệ, pháp hữu của bần tăng cũng gọi tên bần tăng như thế. Còn cha mẹ của bần tăng không những gọi tên bần tăng là Na-tiên, mà đôi khi kêu là Viranasena, Surasena hoặc Sihasena! Tuy nhiên, dù gọi tên gì đi nữa thì nó cũng chỉ là cái tên, cái tên suông, chẳng liên hệ gì đến bần tăng cả. Cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi, chẳng có gì là "tôi" là "của tôi" như ngã chấp và tà kiến thế gian thường nhận lầm, tâu đại vương được rõ!

    Đức vua Mi-lan-đà ngạc nhiên, đưa tay lên, phân bua với mọi người xung quanh:

    - Xin tất cả các vị hãy làm chứng cho trẫm. Đại đức Na-tiên vừa nói rằng, cái tên Na-tiên là tên do cha mẹ đặt, các vị đồng phạm hạnh cũng gọi như thế, nhưng chẳng có cái gì là Na-tiên ở đấy, chẳng có gì là "tôi" và "của tôi" cả. Mọi người nghe rõ rồi đấy chứ?

    Rồi quay sang tỳ kheo Na-tiên , đức vua phản vấn:

    - Bạch đại đức! Nếu không có cái gọi là "ta" và "của ta" thì những người bố thí cúng dường y bát, vật thực, thất liêu, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vật dụng v.v... thì ai là người thọ nhận tứ sự ấy? Ai trì giới? Ai tham thiền? Ai chứng ngộ đạo quả và Niết bàn? Từ đó suy ra, những tội ác như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói lời hư dối, uống rượu; cho chí những ngũ nghịch đại tội vô gián địa ngục, cũng chẳng có ai làm gì cả! Và như vậy thì nghiệp lành, nghiệp ác cũng không, chẳng có ai tạo tội cả, lành dữ đều không có quả báo. Nếu thế có kẻ giết chết đại đức họ cũng không phạm tội giết người. Và thầy tiếp dẫn, thầy giáo thọ, hòa thượng tế độ cho đại đức cũng không có. Các vị đồng phạm hạnh gọi tên đại đức Na-tiên là gì đó cũng không có luôn. Vậy cái gọi là Na-tiên đó là ai? Mong đại đức giảng giải cho trẫm. Đại đức nghe rõ rồi đấy chứ.

    - Tâu đại vương! Bần tăng nghe rõ rồi!

    - Người nghe đó có phải là Na-tiên chăng?

    - Tâu, không phải.

    - Chẳng có gì là Na-tiên cả sao?

    - Vâng, chính thế!

    - Tóc, lông, móng, răng da... kia là Na-tiên sao?

    - Tâu, đại vương, không phải.

    - Thịt, tủy, gân, xương là Na-tiên chăng?

    - Thưa, không phải!

    - Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na-tiên chăng?

    - Tâu, Đại vương, không phải.

    - Hay lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Na-tiên?

    - Tâu, không phải thế.

    - Vậy ngũ uẩn họp lại là Na-tiên?

    - Tâu, cũng chưa chắc là vậy.

    Đến ngang đây chợt đức vua Mi-lan-đà cất giọng nói lớn:

    - Bạch đại đức! Hồi nãy giờ trẫm đã cặn kẽ hỏi về ba mươi hai thể trược, lục căn, ngũ uẩn v.v... có phải là Na-tiên chăng, tất thảy đều bị đại đức phủ nhận. Và quả thật, trẫm cũng công nhận như thế. Vì khi quán tưởng một cách tận tường từng phần được nêu ra trong câu hỏi, thì chẳng có cái gì được gọi là Na-tiên cả. Thế tại sao, trước đây khi trẫm hỏi, đại đức bảo đại đức là Na-tiên? Té ra là đại đức nói dối! Này, năm trăm tùy tùng thân tín của trẫm và tám mươi ngàn Tăng chúng tỳ kheo, xin quý vị hãy làm chứng cho trẫm đấy nhé!

    Đại đức Na-tiên là một Thánh nhân A-la- hán đắc thần thông và đắc cả 4 tuệ phân tích: tuệ về nhân, tuệ về quả, tuệ văn tự, ngữ nghĩa, tuệ biện tài, biện luận. Tâm ngài như đỉnh núi chúa, trí ngài như mặt trời, mặt trăng, lòng từ của ngài bao la như biển lớn. Do vậy, ngài độ lượng với đức vua Mi-lan-đà như mẹ đối với con; với tâm nguyện là phải nhiếp phục đức vua, tế độ đức vua, đặt đức vua trong Chánh đạo; nên dù đức vua có nói gì ngài cũng chỉ ngồi làm thinh và mở rộng lòng từ.

    Để cho ngạo khí và sự xao động trong tâm trí đức vua yên lắng lại một chút, đại đức Na-tiên mới chậm rãi nói:

    - Tâu đại vương! Ngài là một bậc đế vương nhiều phước báu và nhiều an vui, tháng ngày sống trong hạnh phúc cao sang. Nhưng vì tâm cầu đạo, ngài chẳng quản đường xa, đến đây giữa cơn nắng nóng oi bức nên có lẽ ngọc thể cũng bất an. Lại nữa, từ hoàng cung đến đây mà sao đại vương không đi bằng xe mà lại đi bằng chân cho mệt?

    - Bạch đại đức! Trẫm đến chùa bằng xe chứ! Chỉ đi bộ từ cổng, nhưng vào giảng đường mới đi bằng chân không!

    - Thế ra đại vương tới đây bằng xe.

    - Vâng, trẫm đến bằng xe.

    Đại đức Na-tiên giờ cũng làm như cách của vua Mi-lan-đà , phân bua với mọi người:

    - Năm trăm tùy tùng quan chức, thị vệ của đức vua và tám mươi ngàn chư tỳ kheo đại chúng hãy xác nhận cho: đức vua đã nói rằng ngài đến đây bằng xe!

    Rồi quay sang đức vua, ngài Na-tiên hỏi lại:

    - Đại vương bảo rằng đạivương đến đây bằng xe, đấy là lời nói thật chứ?

    - Chắc chắn là thật.

    - Vậy đại vương hãy nói cho rõ về cái xe ấy! Cái gì gọi là xe? Cái gọng chăng?

    - Không phải.

    - Hay cái trục, cái bánh là xe?

    - Cũng không phải.

    - Cái thùng, cái mui là xe chăng?

    - Chẳng phải đâu.

    - Hoặc roi, dây cương là xe?

    - Chẳng phải.

    - Thế chắc cái ách, căm xe?

    - Không phải nốt.

    - Vậy cái gì là xe?

    Đức vua Mi-lan-đà im lặng.

    Đại đức Na-tiên cất giọng chậm rãi:

    - Tâu đại vương! Bần tăng đã đưa từng bộ phận một, và hỏi rằng cái gì là xe thì đều bị đại vương phủ nhận. Mà quả thật, bần tăng cũng thấy vậy, chẳng có cái gì được gọi là xe trong tất cả các bộ phận chi tiết ấy. Tuy nhiên, đại vương là vị hoàng đế cao cả, là đấng nhân chủ, là bậc anh minh cai quản một quốc độ mênh mông; quả thật là không thích đáng khi đạivương nói dối rằng, ngài đến đây bằng xe! Xin tất cả chư vị và Chư Tăng đại chúng ở đây hãy làm chứng cho!

    Mọi người không ngớt lời tán dương ca ngợi biện tài của đại đức Na-tiên . Riêng năm trăm người tùy tùng thì cung thỉnh đức vua tìm cách luận thắng đối phương.

    Sau một hồi làm thinh, đức vua Mi-lan-đà nói:

    - Đại đức biện luận hay lắm! Nhưng mà hãy nghe trẫm nói đây! Tất cả những bộ phận chi tiết như thùng, mui, căm, bánh, trục v.v... nếu nằm riêng lẻ thì không thể gọi là xe, nhưng chúng kết hợp toàn bộ lại thì giả danh gọi là xe, có phải thế chăng? Vậy trẫm bảo rằng, trẫm đến đây bằng xe đâu phải lời nói dối?

    - Tâu đại vương! Cũng thế, tất cả những cái gọi là tóc, lông, móng, răng, da, ngũ uẩn, lục căn... nếu chúng nằm riêng lẻ thì làm sao được gọi là Na-tiên? Nhưng nếu được kết hợp lại thì giả danh gọi là Na-tiên! Bần tăng nói rằng, bần tăng tên là Na-tiên thì đâu phải lời nói dối?

    Nghe đến đây, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thích thú, hết lòng tán thán đại đức Na-tiên:

    - Hay lắm! Hôm nay, lần đầu tiên trong đời cái lỗ tai của trẫm rất là hoan hỷ, đại đức có biết thế chăng?

    Cả đại giảng đường vang lên tiếng "lành thay, lành thay" làm chấn động cả kinh đô Sàgala.

  3. #23

    Mặc định

    Luyện tâm vô ÁI, bị chửi tỉnh như rưồi, bị đánh tỉnh như ruồi, bị sóng thần cũng tỉnh như ruồi. Nhà bên cạnh cháy , tỉnh như ruồi. Trong ngọn lửa có tiếng khóc, tỉnh như ruồi. Lao vào ngọn lửa cứu như con thiêu thân??? Bị bỏng chưa chết, tỉnh như ruồi? Đau đớn hành hạ, tỉnh như ruồi. BÁI PHỤC SÁT ĐẤT. Nhưng chỉ vài năm tu được vậy chăng?

  4. #24

    Mặc định

    Tỉnh như ruồi không phải là mục tiêu tu. Mục tiêu tu là chân lý, chân hạnh phúc, thắng trí, niết bàn. Cái được gọi là tỉnh như ruồi chỉ là một thành quả trong tiến trình. Khi nhìn thấy đường đi tới chân lý, chân hạnh phúc, thắng trí, niết bàn thì ngay hiện tại đây, trên từng bước đi đều cảm nhận được đều vui vẻ thoải mái cứ gì phải đến cái mức "tỉnh như ruồi" của bác.

  5. #25

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Tam_Minh_2003 Xem Bài Gởi
    Vô Ngã theo tôi hiểu là Không có tự tính riêng.
    Không phải là không có tự tính mà là không có tự tính riêng.
    Tức là tự tính trùng với tự tính của Đại Vũ trụ. tức là chỉ có tự tính chung mà thôi.

    Không có cái gì thể hiện là của riêng cho dù là: Sắc, Thọ, tưởng, hành, Thức!
    Không biết có đúng không?
    Xin các Thầy và bạn Đạo chỉ dạy thêm ạ.
    Cảm ơn nhiều!

    Bạn thân mến,

    Xin được đề cập tới điều mà chúng ta hay nghe nhiều nhất, "Lục căn là vô ngã, không có tự ngã."

    Ví dụ tai của ta là vô ngã chẳng hạn! Sao mà có thể vô ngã được, khi mà nghe một câu gì đó, nghe câu chê thì mình hay nói là khó lọt vào tai, có người thì nói, "tai nghe chịu không nổi..." hay là "nói gì mà nghe thật chói tai..."

    Thật ra tai của chúng ta chỉ thu nhận âm thanh đó thôi, đó là tính nghe, chứ không thể hiểu được những gì mình nghe. Còn hiểu được âm thanh đó là âm thanh gì, có ý nghĩa gì không phải lỗ tai mà là những dây thần kinh chạy từ tai trong, tức ốc tai dẫn đến não, chuyển những sóng âm thanh thành những tín hiệu lên các cấp cuống não, sau đó chuyển lên não.

    Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tất cả lục căn đều hoạt động như vậy. Chắc chắn chúng ta trong thời đại ngày nay ai ai cũng hiểu những điều đó.

    Cho nên tai không thể nào hiểu được, phân biệt được âm thanh hay ý nghĩa của âm thanh.

    Mắt không thể nhận thức được màu sắc, hình dạng của những gì mắt thu nhận được. Mắt ta cũng như một thấu kính, lens của máy chụp ảnh thu nhận hình ảnh khúc xạ qua mắt. Dĩ nhiên, con mắt hoàn toàn không hiểu, không biết đối tượng đó là đối tượng gì. Phân biệt hình ảnh thế nào, màu sắc ra sao là do những dây thần kinh thị giác nối tới não, rồi so sánh với những tập hợp quy ước về hình ảnh có trong não bộ.

    Lưỡi cũng vậy, biết vị, biết ngon biết dỡ thật ra cũng không phải do cái lưỡi.

    Do đó, bạn hay nghe câu "lục căn vốn thanh tịnh" là vậy. Vì lục căn chúng ta, chỉ là những cơ quan thu nhận, và chỉ thu nhận mà thôi, mà không hề diễn dịch, không hề gán cho các đối tượng một ý nghĩa gì, không thích, cũng không ghét, cũng không thể hiểu được biết được những đối tượng đó là đối tượng gì. Với kiến thức và khoa học ngày nay, chúng ta mới có thể hiểu và chứng minh được những điều này trong giáo lý của Đức Phật.

    Lục căn của chúng ta vốn không có tự tính là như thế, vốn thanh tịnh là như thế.

    Còn những từ ta gọi là thô tục có ý nghĩa không?

    Thật ra cũng là do cái tâm diễn dịch người nghe, người đọc, so sánh chúng với những tập hợp "thư viện" của những tính chất tương đối đã có trong chính người đó, rồi "gán" cho chúng ý nghĩa, tự bản tính những câu đó, những từ đó cũng chẳng có "tự tính," ý nghĩa gì cả.

    Ý nghĩa cũng chỉ là do quy ước tương đối theo ngôn ngữ quy ước của một dân tộc. Cũng cùng câu nói đó bằng tiếng Việt, nếu bạn nói với người Iran, Irak thì họ cũng chỉ nhìn bạn và mỉm cười mà thôi, vì qua cái tai của họ, trong bộ não của họ, những câu đó hoàn toàn chẳng diễn giải một ý nghĩa nào.

    Cả lưỡi cũng vậy, ngon hay dỡ không phải do đồ ăn, mà là sự diễn dịch của cái "tâm" nếm món ăn ấy. Đã có một chuyện làm cho tôi kinh nghiệm điều này.

    Có lần chúng tôi du lịch qua Canada, đến phố Tàu. Phố Tàu ở Canada nổi tiếng về những nhà hàng có nhiều món ngon bậc nhất. Trong đoàn du lịch ngoài người Việt và người Tàu ra, còn có Mỹ, và một số người đến từ Ấn Độ.

    Cô hướng dẫn viên dẫn đoàn vào ăn ở một nhà hàng Tàu khá nổi tiếng về đồ ăn Bắc Kinh. Người Việt chúng tôi, và một vài người Tàu lúc nào cũng chọn ngồi chung bàn. Món nào dọn ra, "xào" ngay món đó vì món nào cũng ngon, và rất hấp dẫn từ hương vị, vật liệu, trình bày, và cách nấu nướng đặc sắc của những bậc đầu bếp chuyên nghiệp từ Bắc Kinh.

    Chẳng mấy chốc bàn chúng tôi gần như sạch sẽ. Nhưng điều ngạc nhiên là khi nhìn qua bàn của những vị khách nước ngoài kia, hầu như món nào cũng gần như còn nguyên, chỉ có món cơm chiên là sạch dĩa. Mới đầu tôi còn nghĩ là vì lịch sự, họ còn nhường nhịn nhau, hay có lẻ họ không thật sự đói.

    Tôi bèn hỏi thử một ông Ấn Độ, đồ ăn ngon không. Bạn biết mấy người đó trả lời sao không, "They all are weird, we never like it."

    Nghe xong tôi chợt hiểu, cũng không buồn, không mích lòng. Vì nhiều người trong số họ trong đời chỉ ăn đồ ăn của xứ họ, chưa bao giờ nếm qua đồ ăn của dân tộc khác. Cũng như chúng ta, một số món ăn nước khác mà người nước đó cho là ngon, ta cũng không bao giờ thích cả.

    Trở lại vấn đề. "Sắc," tức tất cả những gì là đối tượng của tâm. "Danh," là một từ bao quát nói về tâm và tất cả những tâm khác nhau, bao gồm tâm nghe, tâm thấy, tâm cảm giác, tâm biết, tâm nếm đồ ăn, vv.

    Tất cả đều không thực sự có tính chất nhất định, chỉ là do những diễn dịch tương đối, "ta" gán cho chúng một ý nghĩa theo kinh nghiệm của bản thân mình.

    Cho nên suy cho cùng, danh và sắc cũng vốn là vô ngã, tức không có tự tánh. Với kiến thức trong cuộc sống ngày nay, ai ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được điều này, như trong ví dụ về quá trình nghe của tai chúng ta chẳng hạn.

    Âm thanh có tự ngã không, cũng vô ngã. Vì suy cho cùng, âm thanh cũng là một tiến trình. Ngày nay khi có đủ kiến thức, ta mới biết rằng âm thanh là tập hợp của những sóng âm, một bản nhạc của bạn trên máy computer chẳng hạn, có âm thanh nào trên đĩa từ trong máy không, chẳng có âm thanh nào cả, mà chỉ là một file với những chuỗi kết hợp của dãy 1, 0, 0, 1, on, off mà thôi.

    Chỉ là 1, 0, 0, 1, có, không, không, có, mà tạo ra tất cả. Bản chất của tất cả cũng chỉ là những chuỗi tập hợp của có và không. Chính bạn cũng đã nói không tức thị sắc mà, có phải không bạn?

    Nếu lùi lại chừng 1000 năm trước, bạn có thể có những giải thích "siêu việt" như thế, bạn đã là một nhà khoa học lỗi lạc rồi. Thậm chí, nếu lúc đó bạn vô phúc sống ở phương Tây, bạn có thể bị Giáo Hội đưa bạn lên giàn hỏa thiêu vì những lý luận "khoa học" như thế.

    Vậy mà Đức Phật là người đã từ hơn 2500 năm trước, chẳng có phòng thí nghiệm nào cả, chẳng mổ xẻ cơ thể con người để nghiên cứu hay dùng điện não đồ, trong cái thời mà mê tín còn bao trùm khắp mọi nơi, mọi tôn giáo, Ngài với trí tuệ siêu việt đã giảng giải tất cả những lý thuyết về vô ngã này, về tâm tương đối và những đối tượng tương đối của tâm, và biết bao nhiêu những giáo lý đầy tính minh triết khác, cộng với đường lối thực hành để kiểm nghiệm, để thực chứng những kinh nghiệm và lý thuyết đó, có một không hai.

    Nếu chúng ta tìm hiều về đạo Phật một cách đúng đắn, đạo Phật không hàm hồ, không mê tín dị đoan, không huyễn hoặc làm cho tín đồ mê muội tin tưởng một cách mù quáng, điều mà có lẻ ta không tìm thấy ở bất kỳ tôn giáo nào khác.

    Ngày nay, bạn sẽ thấy càng có nhiều người theo đạo Phật, đặc biệt càng ngày càng có rất nhiều người phương Tây tìm đến với đạo Phật, trong số họ là những nhà khoa học, nhiều người có học vị tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, đủ mọi ngành nghề. Bạn có biết vị sư người phương Tây đi theo thông dịch kế bên Đức Đạt Lai Lama XIV là ai không, ông ấy là một nhà khoa học về sinh vật học rất nổi tiếng ở Pháp. Con ông ấy cũng là một nhà khoa học và là một thiền sinh hành trì tinh tấn nhiều năm.

    Họ theo đạo Phật, thậm chí có nhiều vị xuất gia, không phải vì những hình thức lễ bái cúng kiến, những mê tín dị đoan đầy dẫy khắp nơi, mà vì họ đã bỏ thời gian tìm hiểu nghiên cứu nhiều năm, và nhận ra tính chân lý của đạo Phật.

    Khoa học càng tiến bộ, thì ta càng thấy Phật pháp bao gồm tất cả, giải thích tất cả những sự vật hiện tượng trong khoa học, trong cuộc sống.

    Sự kết hợp của nguyên tử tạo ra nguyên tố, sắt 2 (Fe II), sắt 3 (Fe III) trong bản phân loại tuần hoàn chẳng hạn. Ứng dụng của những nguyên tố kim loại này là những vật liệu dụng cụ trong cuộc sống của chúng ta. Dạng nguyên tử, dạng nguyên tố, và dạng ứng dụng chẳng phải là 3 dạng pháp thân, báo thân, và ứng thân đó sao?

    Kinh chúc quý ĐH và các bạn luôn tinh tấn, luôn được sự gia hộ của Tam Bảo.

    Thân kính.
    Last edited by giangvietson; 16-12-2011 at 12:06 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Mật tông vấn đáp
    By ductri16580 in forum Mật Tông
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 05-09-2014, 11:53 AM
  2. Đối thoại với thương đế
    By Itdepx in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 27-01-2012, 05:37 PM
  3. Thượng đế là ai ?
    By kiennguyen in forum Đạo Cao Đài
    Trả lời: 371
    Bài mới gởi: 09-01-2012, 09:31 PM
  4. TỬ BÌNH CHÂN THUYÊN
    By thaiduong162 in forum Tử Bình, Tướng, Số, Khác...
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 20-04-2011, 11:29 AM
  5. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •