TIỂU SỬ SƠ LƯỢC
CỐ TỲ KHEO THÍCH TUỆ TÂM
Cố Tỳ kheo Thích Tuệ Tâm, thế danh Phan Ngọc Thanh, khi còn là cư sĩ từng là 1 thương gia thành công trên thương trường từ trước ngày Giải phóng, vợ con hòa thuận, cuộc sống đầy đủ no ấm.Thầy phát tín tâm với Phật pháp từ rất sớm, ra sức tìm hiểu học đạo, nhưng do hoàn cảnh loạn lạc nước nhà mà hiếm có thầy giỏi sách hay.
Ban sơ, Thầy nghe lời khuyên của nhiều người học những giáo lý căn bản của đạo Phật và đặc biệt chuyên trì niệm một câu Lục tự Hồng danh Nam Mô A Di Đà Phật để nương đó tu hành. Thầy kiên trì tu học đến tận 20 năm, sau đó gặp 1 vị Thầy chỉ cách niệm Phật để dễ nhập Tam Muội (dùng tâm lắng nghe từng tiếng, không bỏ sót, thời thời thường duyên Phật hiệu) và cuối cùng chỉ sau 1 thời gian ngắn gắng sức tu học thêm, Thầy đã được niệm Phật Nhất tâm Bất loạn sau thời gian công phu 20 năm ròng. Thầy vì không rõ nên tìm các vị tăng mà hỏi là như vậy đã đạt gì chưa, thì các vị đó nói như vậy đã là đến nhà rồi, còn mong gì nữa? Dù Thầy lại không hài lòng với câu trả lời này.
Sau đó, Thầy do có chủng duyên sâu nặng với Thiền tông mà Thầy nghe tiếng Thầy Thích Thanh Từ đang giảng dạy Thiền tông, nhưng Thầy cũng chưa có duyên gì nhiều. Thầy lại đọc được Kinh Kim Cang, và chính trong lúc đọc Kinh này, Thầy đã hoát nhiên Đại ngộ, tất nhiên về sau Thầy vẫn nhiều lần khẳng định Thầy ngộ được do ở trong trạng thái Nhất Tâm Bất Loạn của niệm Phật làm nền tảng.Đang đọc Kinh, Thầy bỗng thấy trong đầu như nổ bùng 1 cái, toàn thể thân tâm trời đất vắng lặng trong sáng lạ thường. Thầy như người chết đã lâu nay bỗng sống lại, thân tâm an lạc kỳ lạ, như đã biến đổi thành 1 người hoàn toàn khác, thường thanh tịnh ngay cả trong lúc đi đứng nằm ngồi, nói nín động tịnh. Thầy thường gọi nó là “trạng thái tâm lặng trang”, và giảng rằng tâm vắng lặng không chút gợn nhỏ mà thường biết rõ ràng khắp cả. Trạng thái tâm kỳ lạ đó duy trì liên tục không mảy may thiếu sót trong suốt cả 7 ngày đêm liên tục, điều mà hiếm có người nào dù ngộ Thiền mà làm được, chứng được, sống được. Dù sau đó nó có tạm thời ngắt quãng nhưng sức tỉnh giác vẫn còn rất sâu dày.
Sau đó, Thầy có cơ duyên lên gặp và học đạo với Sư ông Thích Thanh Từ, người khôi phục và chấn hưng Thiền tông Đốn ngộ nói chung và dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam nói riêng. Thầy được Sư ông Thanh Từ ấn khả rằng đã ngộ nhập Tự tánh. Sư ông hỏi Thầy có còn vọng tưởng không thì Thầy nói hoàn toàn không, vì câu Phật hiệu tuôn chảy liên miên bất tận, không chút kẽ hở cho vọng niệm chen ngang, nhưng Sư ông Thanh Từ lại khuyên Thầy phải bỏ câu niệm Phật.
Nhưng, câu niệm Phật đã thành khối, Thầy ra sức dụng công nhưng không cách gì bỏ được suốt 1 thời gian dài. Mãi đến 1 đêm Thầy tham thiền nhập định, tâm tha thiết muốn bỏ câu Phật hiệu và kết quả là sau khi xuất định Thầy đã không còn câu Phật hiệu trong tâm như mong ước (dù đối với hành giả Tịnh độ thấy rõ là rất uổng!).
Thầy tha thiết mong xuất gia, nhưng Sư ông không cho vì hoàn cảnh đất nước lúc đó còn khó khăn loạn lạc, Thầy lại còn vợ con cần chăm sóc không thể rũ áo ra đi trong lúc đó, nên Thầy đành mang thân cư sĩ mà tiếp tục tu học.
Lại nữa, sau khi Đại ngộ, Thầy bỗng bộc phát Đại Từ Bi Tâm chan rải hết chúng sanh. Thầy rất thương chúng sanh trọn có Phật tánh mà không hay không biết, không có Thầy sáng Đạo hướng dẫn để ngộ Đạo, nên Thầy từng xin Sư Ông Thích Thanh Từ cho lập 1 “Đạo tràng” chuyên hoằng dương Thiền tông Đốn ngộ, và Sư ông đã đồng ý.Đây chính là mô hình Đạo tràng đầu tiên làm mẫu mực cho hàng loạt đạo tràng tu Thiền về sau ra đời ở khắp các nơi, mà Đạo tràng của Thầy đến giờ này vẫn được mệnh danh là Đạo tràng số một trong tất cả.
Mô hình đạo tràng này có đặc trưng là các hành giả nghe Thầy giảng pháp trực tiếp 1 thời lượng cố định mỗi lần sinh hoạt, thường là mỗi tuần 1 lần, và chuyên tâm tu tập ngồi Thiền. Nếu trong quá trình Thầy giảng mà có thắc mắc thì được tự do hỏi lại Thầy, rồi Thầy luôn dành thời gian vài giờ cho Đại chúng cùng trao đổi kiến thức giáo lý hay những thể nghiệm công phu qua hình thức đăt câu hỏi và giải đáp. Thầy khuyến khích đệ tử tự giải đáp với nhau, có sai thì Thầy sẽ chỉnh sửa hoặc bổ sung thêm.Do đó, “Đạo tràng” ở đây không chỉ là hình thức nơi chốn tu tập mà còn là hình thức “pháp đàm”, giải nghi trong tu học, cởi mở trao đổi với nhau, cốt yếu để người học sớm ngộ nhập được Tự tánh của mình và tu tiến không ngừng vậy.
Từ Đạo tràng này đã có rất nhiều Đạo hữu ngộ Đạo, được các vị Tôn túc trong Tông môn ấn chứng, làm rạng danh Chánh pháp Đại thừa và Thiền tông Đốn ngộ, trong đó có rất nhiều người đã xuất gia tại các Thiền viện khác nhau.Ban đầu Thầy chưa xuất gia nên ở trong Đạo tràng được gọi là “Huynh trưởng”, về sau Thầy xuất gia đồ chúng mới gọi là “Thầy”.
Sau nhiều năm lập Đạo tràng, Thầy thấy con cái đã vững chãi, chuyện nhà đã tạm yên, đạo tràng đã khá vững mạnh, Thầy liền xin Sư ông Thanh Từ cho xuất gia và đã được đồng ý nhanh chóng. Thầy xuất gia làm Tăng ở Thiền viện Chân Không, BRVT, là cái nôi của dòng Thiền của Sư ông Thanh Từ, nơi Sư ông ngộ Đạo.Thầy tuy xuất gia lúc đã rất lớn tuổi (hình như là trên 60) nhưng do kiến thức uyên thâm, thông hiểu Kinh điển, trực ngộ sâu vào Tự tánh, có công lớn trong việc hoằng pháp lợi sanh qua mô hình “Đạo tràng” nên Thầy nhanh chóng được tăng chúng kính trọng, trở thành một người có uy tín cao trong Tông môn.
Tuy ban đầu Thầy giao phó hết Đạo tràng cho đồ chúng để đi xuất gia, chuyên tâm nhất ý làm hạnh Sa môn nhưng về sau thấy đồ chúng không quản lý đúng đắn Đạo tràng nên Thầy buộc phải thường về quản lý, và cuối đời do bệnh khổ bức bách mà Thầy về hẳn trong nhà để điều hành Đạo tràng tại nhà cho thuận tiện.
Tổng cộng từ lúc Thầy lập Đạo tràng cho đến lúc thị tịch là 18 năm ròng, cả thời gian là cư sĩ lẫn sau khi xuất gia làm Tăng, giúp rất nhiều người nog6 Đạo, đồ chúng đông đảo, và là mầm nhân của các Đạo tràng khác về sau.
Tuy có những công đức lớn lao không kể xiết cho Chánh pháp như vậy, tâm từ rộng lớn như vậy nhưng cuối đời Thầy lại bị bệnh khổ bức bách rất nặng nề, gia đình lại có quan hệ không được tốt. Tất cả là do thời trẻ, khi mới nhập Đạo thì Thầy đã thệ nguyện mong trả nghiệp trong hiện kiếp nên nghiệp hoặc bủa vây không để Thầy an.
Thầy bị ung thư phổi, đã phải cắt bỏ 1/3 lá phổi, sức khỏe tiều tụy dần theo năm tháng. Lại do dùng thuốc quá nhiều mà sanh ra bệnh đau dạ dày rất thống khổ, còn mắc thêm bệnh loãng xương nặng do tuổi già.
Cơn đau hành hạ Thầy suốt quãng đời còn lại, nhưng nó không hề làm tổn giảm tâm từ bi vì Chánh pháp của Thầy. Tuy mang thân bệnh rất nặng, bác sĩ bảo phải tịnh dưỡng nhưng Thầy thường gắng sức nói Pháp, lo lắng trong ngoài công việc của Đạo tràng. Mỗi lần giảng pháp lâu là bệnh tình Thầy lại trầm trọng thêm sau thời gian. Mình và các Đạo hữu thấy vậy rất lo lắng và thương Thầy, nhất là mỗi lần nhìn Thầy trong giờ giải lao giữa các lần giảng phải ngồi xông thuốc liên tục mà lòng quặng thắt!
Dù chỉ mới gia nhập đạo tràng từ trước Tết Đinh Hợi chừng 1, 2 tháng, trong khi Thầy lại mất vào tháng 3 âm lịch, thời gian quá ngắn ngủi so với những Đạo hữu đã gắn bó với Thầy từ xưa, nhưng thật tình mình vô cùng cảm phục một vị Thầy có tâm từ bi tha thiết đến không ngờ như Thầy, thật là hiếm gặp trong thời mạt pháp này. Và quan trọng hơn cả là mình rất mừng khi thấy còn có những người thông hiểu Chánh pháp như trong Đạo tràng và đặc biệt là Thầy. Vì vậy mà ban đầu mình chỉ vào đạo tràng với quan niệm như đi tham quan cho biết, nhưng về sau lại gắn bó nơi đây.
Thầy là tấm gương sáng của 1 người, 1 Tăng sĩ nhiệt tâm vì Đạo, chân thật tu hành, giới hạnh tinh nghiêm, đức độ cao rộng. Chỗ sống chỗ trụ sâu dày khó đoán, từ tâm chan rải không thể đo lường.
Trong những năm tháng cuối đời, Thầy có duyên gặp mình cùng với người bạn cùng song tu Thiền Tịnh, thường khuyến hóa Thầy nương chủng nhân 20 năm niệm Phật mà quay trở về kiêm tu Tịnh độ Pháp môn. Bệnh khổ, nghiệp hoặc bức bách đã làm duyên cho Thầy sáng suốt nhận định, để trước khi lâm chung thị hiện tướng lành hạnh lạ, dù bình thời thường vì bệnh khổ mà mất Chánh niệm mà giây phút cuối lại an nhiên thị tịch, trong suốt 49 ngày lại thường từ bi hóa hiện thoại ứng chứng minh đã vang sanh Tịnh cảnh. Thật là duyên mầu hội đủ, Thắng nhân hiển bày mà kết thành Diệu quả, mà chứng thực Kinh Sách nói không mảy may sai lệch!
Mong người đọc tiếp thu và suy nghiệm kỹ về những điều viết sau đây, để không uổng phí cơ duyên Thầy đã từ bi ứng hiện và ta đã có duyên gặp như vầy!Thầy cùng chư Thánh chúng Tây Phương, cùng Từ phụ Di Đà vẫn đang thường ngóng trông chúng ta chuyển tâm nhất niệm tin tấn tu tập cầu sanh, để cùng hội ngộ chốn Bảo trì, cùng tu diệu pháp, cùng sớm độ chúng sanh, cùng sớm thành Phật đạo!
Mong Từ quang bủa khắp, chúng chúng chuyên tu, niệm niêm quy nhất, thẳng tiến Tây phương, quyết lên Giác ngạn!
Thientinh82
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks