Cảm ơn huynh Ductri
Ý kiến riêng của tôi về vấn đề nầy là:
Nhiều kinh sách cho là Thân - Khẩu -Ý đồng hành, đồng tác là tam mật tương ưng. Hay đưa ra những lý giải về Thân mật –khẩu mật- Ý mật
Lý nào là mật?
Thân khẩu ý đồng tác thiện, đồng niệm Phật là Ta đang làm thiện, ta đang niệm Phật, đó là việc mà ta đã biết một cách rõ ràng và người nào cũng biết như vậy, thì có phải là mật hay chăng? Chắc hẳn là không phải mật, vậy tam mật tương ưng là gì ?
Trích :
Trong phần giới thiệu Mật tông, Đại đức Thích Viên Giác đưa ra ý kiến về Tam mật tương ưng như sau
Link tham khảo: http://www.daophatngaynay.com/viet/t...attong.htmNhư đã nói,
Theo LT thì Tam mật đó chính là Phật Tánh – Tánh Không- Bồ đề Tâm, ai cũng biết mọi chúng sinh đều đồng sở hữu Phật tánh, nhưng có mấy ai đã kiến tánh !
Tam mật là thân mật, khẩu mật và ý mật. Theo Mật tông, để đạt được khả năng điều động năng lượng vũ trụ hay năng lượng tâm linh thì phải thực hành nghi thức đúng phép gồm cả ba lãnh vực của thân, khẩu, ý. Thân thể tác động qua điệu bộ, nhất là của hai bàn tay, được diễn theo lời thần chú sẽ tạo nên thái độ tâm linh phù hợp theo một điểm. Miệng đọc các mantra (thần chú), âm thanh biểu tượng, là hiện tượng thiêng liêng làm cho rung động nội tâm của hành giả. Tâm ý thì quán tưởng mandala, tạo thành một thể thống nhất để thể nhập Tam mật của Phật.
Tam mật của Như Lai bản thể bình đẳng, không giới hạn, có mặt khắp pháp giới, hay nói cách khác: mọi hình sắc đều là thân mật, mọi âm thanh đều là khẩu mật, mọi lý đều là ý mật. Như đã nói, thân Phật và thân vũ trụ là một nên quan điểm về thân mật trong Mật giáo lấy tư tưởng trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm làm cơ sở. Sự hiện hữu của thân không đơn giản là một hữu thể độc lập, mà có các mối quan hệ mật thiết với thế giới bên ngoài, hay nói cách khác là với cái không phải thân. Điều kiện mà thên tồn tạo gồm cả pháp giới, gọi là mọi hình sắc là thân. Tương tự trong Trung Bộ kinh, Phật dạy quán sắc uẩn bao gồm nội sắc, ngoại sắc, thô tế, liệt thắng, xa gần đều không hiện hữu (vô ngã). Sự mầu nhiệm hay bí mật của thân là cái mầu nhiệm của thân vô ngã.
Tương tự như thân, về ngữ mật thì mọi âm thanh đều là ngữ mật. Thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới được biểu hiện bằng ngôn ngữ, mọi thứ đều có tên gọi, mọi thứ đều được khái niệm hóa qua ký hiệu ngôn ngữ, mọi vật đều được nhận thức và giải thích qua mẫu tự và văn cú, ngôn ngữ diễn biến linh động để làm hiển lộ cái mầu nhiệm bên trong, đó chính là sức mạnh của âm thanh. Mật tông cho rằng thế giới được tạo ra bởi 14 nguyên âm và 33 phụ âm. Thể nhập thực tại qua ngôn ngữ âm thanh là một phương cách đặc biệt của Mật tông.
Ý mật là sự cảm nhận một cách trực tiếp của tâm. Đó là cái tâm thuần túy, không bị chi phối bởi các kiến thức, không phải cái tâm suy nghĩa có đối tượng, mà tâm ấy nguyên vẹn đơn sơ cảm nhận trực tiếp thực tại vô ngã, thực tại vô ngã ấy được cảm nhận qua nhiều khía cạnh khác nhau. Thế giới tâm là một, Duy thức học gọi là thế giới tánh cảnh. Tâm nhận thức trực tiếp những gì đang diễn ra như thường nói: "Đương thể tức không". Đó là thực tại được cảm nhận một cách tích cực.
Thực hành tantra (nghi thức) là tạo thế cân bằng hòa điệu của thân tâm, rồi tạo mối quan hệ hay sự nối tiếp thân khẩu ý các vị tương ứng với Tam mật của Phật, Phật cũng chính là vũ trụ thân. Đó là sự thể hiện hòa điệu giữa con người và vũ trụ. Sự gia trì Tam mật của Phật sẽ nhập vào Tam mật của ta. Đó gọi là Tam mật tương ưng hay Tam mật du già.
Đây chính là cái bí mật thứ nhất.
Ai cũng biết muốn kiến Tánh cần phải tu tập Tánh Không, nhưng vẫn còn chấp Có, và trạng thái của Tánh Không là gì , nhiều người còn chưa khế nhập được, đây là cái bí mật thứ hai
và nhất là Bồ đề Tâm , chưa ai rõ Bồ đề Tâm là gi? mà vẫn tự nhận mình đang phát Bồ đề Tâm , đây là cái bí mật thứ ba.
Cả ba : Phật Tánh – Tánh Không- Bồ đề Tâm đều có sự đồng hành lấy phương tiện làm cứu cánh là sự xả bỏ, đây chính là tam mật tương tác.
Làm thế nào để Tam Mật tương ưng?
Để thấy đươc Phật Tánh cần xả bỏ lục thức , xa rời ái dục, xả bỏ các sắc pháp, không trụ vào tác động qua lại của lục căn và lục thức , tu tập với lòng chơn thành , thanh lọc thân tâm, bình đẳng với mọi chúng sinh , từ bi giàn trải, và chỉ hành thiện nghiệp, xa rời ác nghiệp, như vậy để thấy được Phật tánh, hay còn gọi là Kiến Tánh đó! Đây cũng chính là đồng thời với tu tập Tánh Không.
Khi tu tập đến lúc nào nó, trí huệ của hành giả sẽ khai mở và thấy được con đường giúp chúng sinh đồng giác ngộ , biết được phước đức mà ta tạo ra trong hiện thế vẫn là phước đức hữu lậu, họ sẽ biết cách chuyển hoá nó thành công đức vô lậu (đây chính là chủng tử bồ đề) để phổ độ chúng sanh trong sáu đường đồng giác ngộ, từ đó bồ đề tâm mới từ từ hình thành và cho đến khi thân tâm đã hoàn toàn khế nhập được Tánh Không tức thì Phật Tánh dần dần hiển lộ, và cũng đồng lúc với sự hiện hữu của Bồ Đề tâm.Lúc nầy chính là lúc Tam mật tương ưng .
Sự hiển lộ Phật Tánh nầy cũng chưa phải toàn phần, hành giả còn phải đi qua ba cửa : cửa nhỏ, cửa trung và cửa đại, đến cửa đại là đồng với Nhất thiết Trí hay Bát nhã Trí, hay câu nói đầy đủ nhất vẫn là “ma ha bát nhã ba la mật đa”, Huệ Trí bát nhã rộng lớn không còn ngăn ngại, không còn bị che chắn.
Tánh Không tu tập đã dầy
Phật Tánh hiển lộ phơi bầy ra ngay
Công đức hồi hướng hằng ngày
Bồ đề Tâm đó bao trùm hư không
Trong hai câu kệ đối nầy gồm đủ cả
Xả ly tham chấp cầu Bát nhã
Tầm giác phá mê ngộ Bồ Đề
Thân
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks