Trang 6 trong 13 Đầu tiênĐầu tiên 123456789101112 ... Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 101 tới 120 trên 243

Ðề tài: TÂM VŨ TRỤ

  1. #101

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi doxuantho Xem Bài Gởi
    1/ Như đã biết trong việc trình bầy các khái niệm cơ bản đã trình bầy về khái niệm ĐỐI TƯỢNG (bạn xem lại nhé) .... Mỗi lần bạn CHẶT một đối tượng nào đó ra làm 2 phần thì các phần đó lập tức lại là đối tượng rồi và vì thế nó chứa TVT
    2/ Câu thắc mắc này Thọ đã trả lời rất kỹ trong trang Vật Lý Việt Nam, mục Tâm Vũ Trụ
    3/ Trên thực tế đố bạn tìm thấy một đối tượng nào không vận động đấy cho dù đối tượng đó bị CHẶT RA TRONG TƯ DUY CỦA BẠN.
    Rất cảm ơn bạn
    Bác trả lời lòng vóng quá, để dễ dàng thảo luận, bác nên trả lời {đúng, sai} cho từng câu hỏi đúng hay sai dưới đây:
    1. Bác nên nhớ không phải tôi mà chính bác mới là người “chặt” một đối tượng ra làm 2 phần bằng định nghĩa 1 về TVT của bác. Đúng hay sai?
    2. Theo trả lời của bác thì “miền không giao” của đối tượng cũng chứa tâm vũ trụ, như vậy cùng một thời điểm mà “miền giao” của các đối tượng là TVT đồng thời “miền không giao” của các đối tượng cũng có TVT, suy ra toàn bộ đối tượng đều là TVT. Đúng hay sai?
    3. Nếu toàn bộ đối tượng là TVT, suy ra toàn bộ vũ trụ là tâm vũ trụ. Đúng hay sai?
    4. Nếu toàn bộ vũ trụ là tâm vũ trụ thì tất cả các định nghĩa, định lý của bác liên quan đến TVT đều vô nghĩa. Một ví dụ nhỏ, định lý 7 nói “TVT chứa thời gian”, nhưng nếu đồng ý rằng “toàn bộ vũ trụ là TVT” thì làm gì có khái niệm thời gian nữa, bởi vì vũ trụ không có thời gian. Đúng hay sai?

  2. #102

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Thiện Ý Xem Bài Gởi
    Bác trả lời lòng vóng quá, để dễ dàng thảo luận, bác nên trả lời {đúng, sai} cho từng câu hỏi đúng hay sai dưới đây:
    1. Bác nên nhớ không phải tôi mà chính bác mới là người “chặt” một đối tượng ra làm 2 phần bằng định nghĩa 1 về TVT của bác. Đúng hay sai?
    2. Theo trả lời của bác thì “miền không giao” của đối tượng cũng chứa tâm vũ trụ, như vậy cùng một thời điểm mà “miền giao” của các đối tượng là TVT đồng thời “miền không giao” của các đối tượng cũng có TVT, suy ra toàn bộ đối tượng đều là TVT. Đúng hay sai?
    3. Nếu toàn bộ đối tượng là TVT, suy ra toàn bộ vũ trụ là tâm vũ trụ. Đúng hay sai?
    4. Nếu toàn bộ vũ trụ là tâm vũ trụ thì tất cả các định nghĩa, định lý của bác liên quan đến TVT đều vô nghĩa. Một ví dụ nhỏ, định lý 7 nói “TVT chứa thời gian”, nhưng nếu đồng ý rằng “toàn bộ vũ trụ là TVT” thì làm gì có khái niệm thời gian nữa, bởi vì vũ trụ không có thời gian. Đúng hay sai?
    1/ Sai ! vì không có phần nào của 1 đối tượng là không chứa TVT!!!
    2/ Sai ! Tại sao bạn không thấy một cách hiển nhiên là TVT chính là VẬN ĐỘNG à??? Có đối tượng nào không chứa nó bạn thử chỉ ra xem
    3/ Sai !!!Toàn bộ mọi đối tượng trong vũ trụ chỉ chứa TVT!!! Ngoài ra có thể nó chứa những cái khác ví dụ nước lửa v.v...
    4/ Sai! Vì Thời gian là thành thố tạo nên vận động mà vận động có ở TVT nên Thời gian có ở TVT

  3. #103

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi doxuantho Xem Bài Gởi
    1/ Sai ! vì không có phần nào của 1 đối tượng là không chứa TVT!!!

    Câu này nếu bác cho là SAI thì cũng có nghĩa là cái định nghĩa 1 của bác sai bét.

    Trích dẫn Nguyên văn bởi doxuantho Xem Bài Gởi
    2/ Sai ! Tại sao bạn không thấy một cách hiển nhiên là TVT chính là VẬN ĐỘNG à??? Có đối tượng nào không chứa nó bạn thử chỉ ra xem
    Nếu vậy thì bác định nghĩa lại “TVT chính là vận động” trong học thuyết của bác đi, rồi tôi sẽ phản biện theo cái định nghĩa mới này của bác.

    Có một đối tượng không vận động, đó là đối tượng "vũ trụ". Vũ trụ không vận động, bác có đồng ý không?

    Trích dẫn Nguyên văn bởi doxuantho Xem Bài Gởi
    3/ Sai !!!Toàn bộ mọi đối tượng trong vũ trụ chỉ chứa TVT!!! Ngoài ra có thể nó chứa những cái khác ví dụ nước lửa v.v...
    Bác lại tiếp tục mâu thuẩn với lý thuyết của bác, bác nói câu “đối tượng trong vũ trụ chứa TVT ngoài ra còn chứa các cái khác” là bác đã phân biệt TVT với “các cái khác”. Trong khi những “cái khác ví dụ nước, lửa v.v…” đó là gì, có phải cũng là đối tượng của vũ trụ hay không, nếu chúng là đối tượng thì chúng cũng chứa TVT.

    Bác thích dùng “toán học” để CM thì tôi sẽ dùng “toán học” CM cho bác dễ thấy cái sự vô nghĩa của câu đó:

    Gọi X là một đối tượng. T là tâm vũ trụ. N là nước, L là lửa.

    Theo lập luận của bác thì đối tượng X chứa T,N,L:

    X={T,L,N}

    Nhưng theo ĐL6 của bác thì:
    N là một đối tượng do đó nó chứa TVT và những “cái khác” biểu hiệu bằng dấu 3 chấm. N={T, ...}
    Lưu ý là mỗi cái chấm trong ngoặc trên cũng là một đối tượng do đó cũng chứa TVT, tiếp tục thay thế mỗi cái chấm bằng tập hợp {T,…} thì cuối cùng sẽ có: N={T}

    Lập luận tương tự như trên, ta cũng sẽ có: L={T}

    Thay thế N và L vào X={T,L,N}, ta sẽ có: X={T,T,T} hay X={T}

    Vậy có phải toàn bộ đối tượng X chỉ chứa TVT không?


    Trích dẫn Nguyên văn bởi doxuantho Xem Bài Gởi
    4/ Sai! Vì Thời gian là thành thố tạo nên vận động mà vận động có ở TVT nên Thời gian có ở TVT
    Vũ trụ là tập hợp của tất cả các đối tượng rong vũ trụ, nếu toàn bộ đối tượng là TVT, thì vũ trụ chính là TVT. Đúng không?

    Nếu vũ trụ là TVT thì TVT sẽ không có thời gian vì vũ trụ không có thời gian.

    Bác có đồng ý với tôi là vũ trụ không có thời gian không?

  4. #104

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Thiện Ý Xem Bài Gởi
    Câu này nếu bác cho là SAI thì cũng có nghĩa là cái định nghĩa 1 của bác sai bét.



    Nếu vậy thì bác định nghĩa lại “TVT chính là vận động” trong học thuyết của bác đi, rồi tôi sẽ phản biện theo cái định nghĩa mới này của bác.

    Có một đối tượng không vận động, đó là đối tượng "vũ trụ". Vũ trụ không vận động, bác có đồng ý không?



    Bác lại tiếp tục mâu thuẩn với lý thuyết của bác, bác nói câu “đối tượng trong vũ trụ chứa TVT ngoài ra còn chứa các cái khác” là bác đã phân biệt TVT với “các cái khác”. Trong khi những “cái khác ví dụ nước, lửa v.v…” đó là gì, có phải cũng là đối tượng của vũ trụ hay không, nếu chúng là đối tượng thì chúng cũng chứa TVT.

    Bác thích dùng “toán học” để CM thì tôi sẽ dùng “toán học” CM cho bác dễ thấy cái sự vô nghĩa của câu đó:

    Gọi X là một đối tượng. T là tâm vũ trụ. N là nước, L là lửa.

    Theo lập luận của bác thì đối tượng X chứa T,N,L:

    X={T,L,N}

    Nhưng theo ĐL6 của bác thì:
    N là một đối tượng do đó nó chứa TVT và những “cái khác” biểu hiệu bằng dấu 3 chấm. N={T, ...}
    Lưu ý là mỗi cái chấm trong ngoặc trên cũng là một đối tượng do đó cũng chứa TVT, tiếp tục thay thế mỗi cái chấm bằng tập hợp {T,…} thì cuối cùng sẽ có: N={T}

    Lập luận tương tự như trên, ta cũng sẽ có: L={T}

    Thay thế N và L vào X={T,L,N}, ta sẽ có: X={T,T,T} hay X={T}

    Vậy có phải toàn bộ đối tượng X chỉ chứa TVT không?




    Vũ trụ là tập hợp của tất cả các đối tượng rong vũ trụ, nếu toàn bộ đối tượng là TVT, thì vũ trụ chính là TVT. Đúng không?

    Nếu vũ trụ là TVT thì TVT sẽ không có thời gian vì vũ trụ không có thời gian.

    Bác có đồng ý với tôi là vũ trụ không có thời gian không?
    1/ Định nghĩa TVT là một trong những định nghĩa tôi nghĩ lâu nhất đây. Đừng vội phủ định. Đầu tiên tôi hỏi " miền giao của duy vật và duy tâm có khác trống không?" rồi miền giao của Hồ Chí Minh, Phật Tổ, Chúa Jêsu,Thánh Ala...v.v... Có khác trống không?" Cuối cùng mới đưa ra định nghĩa tổng quát đó. Bạn chưa hiểu vì bạn đã Thô Thiển Hóa phép Giao.
    Ngoài Vận Động TVT còn chứa các thành tố khác như Thời Gian, Thông Tin...
    Nếu bạn công nhận tiên đề 1 thì Vũ Trụ cũng luôn luôn vận động
    2/ Khi tôi nói ngoài TVT ra nó còn chứa những cái khác như ,nươc,lủa... Khi chưa tách chúng ra. Còn hiển nhiên cả nước và lửa đều vận động nên chứa TVT khi tách (trong Tư Duy) nước, lửa thành các đối tượng. Cố gắng hiểu nhé
    3/ Cách chứng minh "bằng Toán" sai lầm cơ bản ở chỗ trong khi phải coi các đối tượng CHỨA TVT thì bạn lại cho các thành phần BẰNG TVT:big_grin:
    4/ Theo định nghĩa vũ trụ là một lớp V các đối tượng x sao cho x=x:
    V={x|x=x, với x là đối tượng}
    Bạn bảo tất cả là TVT sao được!!! Chúng chỉ CHỨA TVT

  5. #105

    Mặc định

    Đệ nghĩ huynh ĐXT đã dùng chìa khóa Toán học để minh họa những vấn đề tồn tại khách quan của Vũ Trụ huyền vi khá đầy đủ những khái niệm chủ yếu mà những người Tu Nhân Học Phật thành tựu đã nhận thức được nhưng chưa có ai dùng Toán Học để minh họa. Mọi vấn đề huynh đề cập đã nói lên được các quan hệ hữu cơ của vạn vật. Tuy vậy đệ hiểu ĐẠI VŨ TRỤ thì duy nhất, ĐẠI VŨ TRỤ duy nhất chứa nhiều Vũ Trụ và Vũ Trụ ĐXT chứa Vũ Trụ Einstein. Nhưng huynh ĐXT nói Vũ Trụ duy nhất thì đệ nghĩ huynh xem lại cách đặt vấn đề này nó còn giới hạn. Vũ Trụ này ( ý nói Vũ trụ ta đang sống trong đó ) vẫn phải theo quy luật: Thành - Trụ - Hoại - Không. Vũ Trụ này ở chu kỳ này thì Vũ trụ khác lại ở chu kỳ khác trong 4 chu kỳ của quy luật trên. Dù ở Vũ Trụ nào thì các tương tác của Vũ Trụ vẫn như các vấn đề huynh đã đề cập.

    Huynh đưa vấn đề lên mọi phương tiện thông tin là tốt và sẽ nhận được các ý kiến phản biện khác nhau. Huynh Tinhkhithan và Tritue đã có nhưng bài thơ rất tâm đắc có chứa thông tin khen ngợi và khuyên nhủ. Huynh nên bình tĩnh trước mọi ý kiến để được sáng suốt để có trả lới phù hợp. Huynh nói là đã sửa lần 7 trước khi đăng ở diễn đàn này. Điều đó nói lên nó có thể được hoàn thiện hơn. Huynh nên biết lời thơ thông qua 2 huynh nói trên không phải của phàm nhân đâu. Đệ cũng cho rằng kiến thức huynh nhận được và viết ra cũng là kết quả của nhiều năm Thiền theo cách của mình. Minh Triết huynh nhận được chính của các Đấng ở các tầng năng lượng rất cao. Chính huynh đã phải sửa nhiều lần vì việc nhận thông tin của huynh vẫn có lúc chưa rõ nên huynh phải đọc bài khẩu quyết nhiều lần để đưa mình vào trạng thái Thiền sâu hơn để thông tin rõ hơn. Điều đó vẫn nói lên: Thông tin vẫn vậy nhưng đường truyền có vấn đề kỹ thuật. Tại sao vậy: Qua trả lời đệ thấy huynh chưa thật bình tĩnh đôi lúc. Thân thể ta nó trở thành máy thu tốt khi nó phải gần như siêu tinh khiết. Còn không bình tĩnh là nó còn "tạp chất". Các vị tu Phật hay gọi là nghiệp lực đó.
    Đệ rất tâm đắc với kết quả của huynh. Cảm ơn vì các kiến thức huynh đã thu nhận được và cung cấp đệ đọc. Đừng có buồn vì vấn đề mình đang nói có ít người hiểu hết. Ngay thời trước, Einstein nêu ra vấn đề của mình thì có mấy nhà vật lý hiểu ngay đâu.
    Phải có phản biện thì vấn đề của mình mới được sáng tỏ ngay cả người còn hiểu sai phản biện huynh.

    Chào huynh với lòng thành.

  6. #106

    Mặc định

    Đệ biết một người tu Nhân học Phật khi đi đăng ký xe máy cách đây mấy năm. Khi đó người ta dùng máy vi tính để chọn biển số. Trên màn hình hiện lên 14 tấm bảng số trong đó có 1 bảng số tổng 9 đuôi thần tài, có số âm số dương, đuôi 9. Người đó nói với người cùng đi là sẽ xin số này. Sau 3 câu cầu xin Đấng tối cao liền bấm chuột thì quả nhiến số kia hiện lên trên màn hình.

    Đó lần thứ nhất, còn lần thứ 2 sau hơn 2 năm lại đăng ký một xe khác. Lúc này trên màn hình chỉ hiện lên dòng chữ: Từ 0001 đến 9800 còn 90 số. Lúc này anh ta lại nói câu khác: cho con số đẹp, may mắn và vẫn 3 câu cầu xin ngắn gọn và liền bấm chuột. Kết quả bảng số vẫn tổng 9, có số âm, số dương và 2 số cuối của số máy, số sườn, bảng số trùng nhau.

    Lần thứ 3 anh ta hướng dẫn một người bạn đăng ký ô tô: và kết quả anh bạn có số bảng số tứ quý 3 (3333) người ta mua lại chênh lệch mấy ngàn USD mà không bán lại.

    Tôi tin thông tin truyền đi tức thời, nhận tức thời, xử lý tức thời, kết quả tức thời ( đúng là cầu được ước thấy)
    Last edited by Tuduong; 02-05-2011 at 04:26 PM.

  7. #107

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Tuduong Xem Bài Gởi
    Đệ nghĩ huynh ĐXT đã dùng chìa khóa Toán học để minh họa những vấn đề tồn tại khách quan của Vũ Trụ huyền vi khá đầy đủ những khái niệm chủ yếu mà những người Tu Nhân Học Phật thành tựu đã nhận thức được nhưng chưa có ai dùng Toán Học để minh họa. Mọi vấn đề huynh đề cập đã nói lên được các quan hệ hữu cơ của vạn vật. Tuy vậy đệ hiểu ĐẠI VŨ TRỤ thì duy nhất, ĐẠI VŨ TRỤ duy nhất chứa nhiều Vũ Trụ và Vũ Trụ ĐXT chứa Vũ Trụ Einstein. Nhưng huynh ĐXT nói Vũ Trụ duy nhất thì đệ nghĩ huynh xem lại cách đặt vấn đề này nó còn giới hạn. Vũ Trụ này ( ý nói Vũ trụ ta đang sống trong đó ) vẫn phải theo quy luật: Thành - Trụ - Hoại - Không. Vũ Trụ này ở chu kỳ này thì Vũ trụ khác lại ở chu kỳ khác trong 4 chu kỳ của quy luật trên. Dù ở Vũ Trụ nào thì các tương tác của Vũ Trụ vẫn như các vấn đề huynh đã đề cập.

    Huynh đưa vấn đề lên mọi phương tiện thông tin là tốt và sẽ nhận được các ý kiến phản biện khác nhau. Huynh Tinhkhithan và Tritue đã có nhưng bài thơ rất tâm đắc có chứa thông tin khen ngợi và khuyên nhủ. Huynh nên bình tĩnh trước mọi ý kiến để được sáng suốt để có trả lới phù hợp. Huynh nói là đã sửa lần 7 trước khi đăng ở diễn đàn này. Điều đó nói lên nó có thể được hoàn thiện hơn. Huynh nên biết lời thơ thông qua 2 huynh nói trên không phải của phàm nhân đâu. Đệ cũng cho rằng kiến thức huynh nhận được và viết ra cũng là kết quả của nhiều năm Thiền theo cách của mình. Minh Triết huynh nhận được chính của các Đấng ở các tầng năng lượng rất cao. Chính huynh đã phải sửa nhiều lần vì việc nhận thông tin của huynh vẫn có lúc chưa rõ nên huynh phải đọc bài khẩu quyết nhiều lần để đưa mình vào trạng thái Thiền sâu hơn để thông tin rõ hơn. Điều đó vẫn nói lên: Thông tin vẫn vậy nhưng đường truyền có vấn đề kỹ thuật. Tại sao vậy: Qua trả lời đệ thấy huynh chưa thật bình tĩnh đôi lúc. Thân thể ta nó trở thành máy thu tốt khi nó phải gần như siêu tinh khiết. Còn không bình tĩnh là nó còn "tạp chất". Các vị tu Phật hay gọi là nghiệp lực đó.
    Đệ rất tâm đắc với kết quả của huynh. Cảm ơn vì các kiến thức huynh đã thu nhận được và cung cấp đệ đọc. Đừng có buồn vì vấn đề mình đang nói có ít người hiểu hết. Ngay thời trước, Einstein nêu ra vấn đề của mình thì có mấy nhà vật lý hiểu ngay đâu.
    Phải có phản biện thì vấn đề của mình mới được sáng tỏ ngay cả người còn hiểu sai phản biện huynh.

    Chào huynh với lòng thành.
    Cảm ơn bạn. Những lời chia sẻ xuất phát từ tấm lòng thành của bạn là món quà cao quý.
    Đung là Thọ có những lúc nong tính và biết rằng như thế chẳng hay ho gì. Thọ sẽ sửa chữa cái tật này
    Thân ái

  8. #108

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Tuduong Xem Bài Gởi
    Đệ biết một người tu Nhân học Phật khi đi đăng ký xe máy cách đây mấy năm. Khi đó người ta dùng máy vi tính để chọn biển số. Trên màn hình hiện lên 14 tấm bảng số trong đó có 1 bảng số tổng 9 đuôi thần tài, có số âm số dương, đuôi 9. Người đó nói với người cùng đi là sẽ xin số này. Sau 3 câu cầu xin Đấng tối cao liền bấm chuột thì quả nhiến số kia hiện lên trên màn hình.

    Đó lần thứ nhất, còn lần thứ 2 sau hơn 2 năm lại đăng ký một xe khác. Lúc này trên màn hình chỉ hiện lên dòng chữ: Từ 0001 đến 9800 còn 90 số. Lúc này anh ta lại nói câu khác: cho con số đẹp, may mắn và vẫn 3 câu cầu xin ngắn gọn và liền bấm chuột. Kết quả bảng số vẫn tổng 9, có số âm, số dương và 2 số cuối của số máy, số sườn, bảng số trùng nhau.

    Lần thứ 3 anh ta hướng dẫn một người bạn đăng ký ô tô: và kết quả anh bạn có số bảng số tứ quý 3 (3333) người ta mua lại chênh lệch mấy ngàn USD mà không bán lại.

    Tôi tin thông tin truyền đi tức thời, nhận tức thời, xử lý tức thời, kết quả tức thời ( đúng là cầu được ước thấy)
    cầu được ước thấy tức thời có nghĩa là kết quả (được+thấy) đó tồn tại và xuất hiện ko phải vì nguyên nhân (cầu+ước). Như vậy kết quả đó tồn tại vì 1 nguyên nhân khác hoặc thế giới này, vũ trụ này hoàn toàn tất định. Nếu đúng 7h15p mà tôi với bác thọ cùng ngáp thì cũng là chuyện bình thường thôi, ko có lý do gì lại bảo thông tin truyền đi giữa tôi và bác là tức thời cả.Chúng ta sẽ bị nhầm lẫn về quy luật vũ trụ nếu cố gán ghép nguyên nhân và kết quả chỉ vì 1 sự trùng hợp.
    Last edited by hacbachvothuong; 14-05-2011 at 08:32 AM.
    www.tinhte.vn/f101/kinh-nghiem-mua-hang-tren-ebay-va-ship-ve-vn-65410/index3.html
    http://www.mediafire.com/?75vlyihajb1ze

  9. #109

    Mặc định

    Chào hacbachvothuong. Rất mừng vì bạn quay trở lại. Thọ vừa nghĩ ra một cái tuyệt vời cho VN

  10. #110

    Mặc định Mong tiến xĩ đđt chỉ giáo tiếp trên đất nhà bác

    HA HA HA
    Em đã đến được thế giới vô hình mà bác tiến xĩ đỗ đức thọ hằng mong muốn rồi đây
    Trước hết cho em cười tí hẵng vì những tưởng vào đây có nhiều con nhang đệ tử của bác khuếch trương học thuyết TT ai dè đọc mấy bài phản biện của anh HBVT thấy hay đã đành mà đọc trả lời của bác em thấy "Bỗng dưng muốn khóc". :not_listening: Tính em hay nói thẳng là em với mấy thằng bạn em ngồi cạnh cười tí vãi đái may có nhà vs bên cạnh nên không phải thay quần ke ke. Qua đây em thấy tiến xĩ mặc dù đang đứng trên đất của mình nhưng cách tranh luận của bác không khác gì trên các diễn đàn khác cả(vì tiến xĩ xông vào diễn đàn nào cũng bị admin kick và đuổi do hay tranh luận hơi không được lên lên xuống xuống mà cứ nằm theo chiều ngang mãi :cow: ke ke ke) Em cũng xin góp ý tý về việc tranh luận của anh HBVT và bác đ đ t là Người đuối lý và đang giã chày trên sóc Bombo là bác chớ không phải anh kia. Mong bác xem lại thật kỹ ạ không chụp mũ kiểu đó anh em khác vào đọc lại bùn cười giống em thì hỏng học thuyết của bác mất.

    Thôi! giờ coi như em đã đang đứng trên đất của bác rồi mong bác nhiệt tình giải thích và trả lời cho những thứ mà bác chưa trả lời được bên mấy diễn đàn kia nhá
    Xin nhắc lại câu hỏi của em về học thuyết TVT của bác để bác nhớ ra cái ko lại mất công toi em mò vào đây
    Nguồn từ http://www.vatlyvietnam.org/forum/sh...ad.php?p=67535
    Nội dung "
    Nào các bạn cãi nhau nhiều về mấy việc đó không có ích đâu.
    Mấy hôm rồi tôi bận nên tôi cũng không có thời gian lên đọc và phản hồi ý kiến cho bác ĐXT thức tỉnh đầu óc tí he he
    Hôm nay xin mạo muội đưa ra mấy câu hỏi bên ngoài lề cũng như trong học thuyết TVT vĩ đại của bác(mà chưa được nhà khoa học nào chứng nhận và đọc thuộc nổi 1 chương ngoài cá nhà hoang tưởng)
    Trước hết tôi khẳng định là học thuyết TVT của ĐXT không phải là một môn khoa học. Vì khoa học phải đi đôi với thực nghiệm. Nếu bác muốn học thuyết của bác được giảng dạy trong nước hay quốc tế thì bác phải chứng minh được lý thuyết của bác là đúng bằng các thí nghiệm. Nhưng hình như tôi chưa thấy bất kỳ một dẫn chứng nào trong học thuyết của bác là nó đã chứng minh được cái nọ cái chai...mà tôi chỉ nghe phong phanh đâu rằng bằng cách dùng sóng ý thức để hô phong hoán vũ bác đã khiến cho dân ta chẳng kịp trở tay với mấy cơn bão khi dám bắc loa kêu với dân chúng là sẽ tống cổ không cho nó vào Việt nam:
    - "Cuối tháng 10.2009, ông Thọ cho biết sẽ lái hướng di chuyển của cơn bão Lupit. Trong thư, ông Thọ viết: “Tóm lại, Thọ nhờ mọi người làm chứng cho Thọ: 1. Thọ sẽ làm cho cơn bão Lupit không đổ bộ vào VN. Đây là mục tiêu số một. 2. Thọ cố gắng lái cơn bão Lupit đổ bộ vào Trung Quốc”. Lúc này, theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn T.Ư, bão Lupit đang còn cách đảo Luzon của Philippines tới 1.200 km và chưa thể khẳng định có vào biển Đông hay không. Trên thực tế, bão Lupit đã không đổ bộ vào VN, cũng không đổ bộ vào Trung Quốc mà hướng tới... vùng biển đông bắc Nhật Bản. Sau khi bão tan, ông Thọ vẫn tự nhận: “Thí nghiệm đã thành công tới 60%”", nguồn trích từ http://chungta.com/Desktop.aspx/Chun...phong_hoan_vu/

    Qua việc này tôi đã thấy tiềm ẩn chứng hoang tưởng đầy ắp trong học thuyết của đồng chí ĐXT rồi. Còn nếu không Bác ĐXT giải thích bà con dùm vụ này cái nhá. Nhớ tránh đừng giải thích kiểu "Thánh còn sai nữa là con người hoặc tôi lấy nhầm quyền năng từ TVT hoặc trong lúc điều khiển có một nhân tố ABCD..cắt mạch SYT của tôi".... :rolleyes:

    Thôi không nói dài dòng làm gì trước hết đặt ra cho bác mấy câu hỏi. Nếu bác trả lời mà tôi thấy hợp lý tôi sẽ đi tiếp vào các định lý sau của bác, OK?
    Định nghĩa 1 mở màn của bác:
    "Vũ trụ là một lớp V tất cả các đối tượng x sao cho x=x: V= { x | x = x, với x là đối tượng }.
    Định nghĩa 1 nói lên quan niệm của chúng ta về vũ trụ, đó là một lớp các đối tượng sao cho « nó » là « nó » và ngược lại bất cứ một cái gì mà « nó » là « nó » thì nó sẽ thuộc vũ trụ V.
    Như sau này chúng ta sẽ thấy, các đối tượng trong Vũ trụ không phải chỉ là những đối tượng rời rạc nằm cạnh nhau mà giữa chúng có những mối liên hệ chằng chịt và chính những mối liên hệ này đã liên kết các đối tượng khác nhau, thậm chí tưởng chừng đối nghich nhau trong Vũ trụ để tạo nên một Vũ trụ hiện tồn.
    Cũng theo định nghĩa 1, ta thấy Vũ trụ của thiên văn học chỉ là một phần của Vũ trụ vừa được định nghĩa. Vũ trụ của thiên văn học không chứa hồn của một làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh (với tư cách là một đối tượng) chẳng hạn…"

    Nghe có vẻ hơi trừu tượng tí nhỉ :eek:, nhất là bác lại giải thích "Nó là một lớp các đối tượng sao cho « nó » là « nó » và ngược lại bất cứ một cái gì mà « nó » là « nó » thì nó sẽ thuộc vũ trụ V" Tôi xin mạo muội đặt ra vài thắc mắc.
    - Vậy tôi thấy vũ trụ cũng là một "Nó là nó" có được không bác?
    - Đối tượng bác định nghĩa là gì tôi chưa thấy? Liệu một lớp của bác có được coi là một đối tượng không? Đối tượng của bác có được phân loại không hay đồng nhất như nhau. Nếu phân loại nó gồm mấy loại? nếu đồng nhất thì đồng nhất về cái gì?....
    Tóm lại trước hết vài câu hỏi nhỏ đó mong bác dùng Sóng ý thức mà bác lấy được từ TVT của bác trả lời tôi. Trả lời ngon ăn mà bản thân tôi thấy hợp lý(cho dù với người khác không thấy hợp lý) tôi sẽ tiếp tục đi sâu vào các dòng kế tiếp trong học thuyết của bác để bác tiếp tục hoàn thiện ước mơ của mình

    Mong hồi âm
    "


    @anh HBVT: Thấy cách tiếp cận để tranh luận của anh và em khá trùng nhau. Hy vọng được anh chỉ cho em thêm nhiều chiêu hơn để chúng ta cùng giúp bác tiến xĩ này ngộ đạo và tẩy được phiền não do chứng hoang tưởng gây ra
    @ tiến xĩ đđt: Cho em hỏi nhỏ câu này ngoài lề cái: Năm nay bác có dự tính đuổi bão giúp bà con phát nào nữa không ạ. Em thấy bác bảo đã khai thông huyệt đạo cho 2 con của bác và thành công 75 % chắc giờ họ đang là siu pờ rô, siêu giáo sư hoặc siêu nhân rùi. Có gì mong gia đình bác hợp sức làm mưa thuận gió hòa cho nhân dân cấy lúa ngon lành phát bác nhé. Xin đa tạ trước.
    Hy vọng tại đất này bác trả lời sòng phẳng thẳng thắn mà không bị admin ...ĐUỔI he he he :praying:2

  11. #111

    Mặc định

    @VoLượng Kiếp: Nếu ông được Đảng phân công đánh tôi thì những lời lẽ chợ búa, vô luân của ông thật dễ hiểu. Đến tên của tác giả ông cũng đánh sai. Xin nhắc lại tôi là Đỗ Xuân Thọ!!!!
    Tôi sẽ cố gắng từ bi để tranh luận với ông.
    - Vũ Trụ cũng chính là một đối tương nên " nó" là "nó"
    - Bạn thích phân loại là tùy ý
    - Sáp tới tôi vẫn làm thí nghiệm lái bão

  12. #112

    Mặc định

    mô phật tui chả hiểu gì về học thuyết vũ trụ cả nhưng thiết nghĩ rằng vạn vật trên thế giới vũ trụ bao la này đều có chun trình nhất định của nó gọi là quy luật kể từ thứ bé nhất cho đến lớn nhất mà trí tuệ loài người có thể đủ thông minh để hiẻu

    nếu ta nhìn vào được trong ta hiểu rõ ta thì chính là NÓ
    Nhưng khi chưa kịp hiểu về Nó thì giống như loài khủng long bị.... chúng ta lại đợi sụ tiến hóa tiếp theo để được đi vào NÓ và sẽ làm chủ được NÓ
    Chúc các thầy nhanh chóng thành công
    TÔI LÀ NGƯỜI ĐI TÌM CHÍNH TÔI

    rose4 rose4 rose4

  13. #113

    Mặc định

    đêm lang thang ta đi tìm chỗ ....ghẹo
    Lấy RƯỢU-ĐỜI thưởng thú nồng say
    Lấy NHẮM-THIÊN NHIÊN vui thỏa tháng ngày
    Lấy NHÂN-ĐŨA trên tay ta gắp
    Thấy TÌNH-VỊ đủ mùi xông khắp
    Thấy ĐĨA-ĐỊA CẦU sạch nhẵn đâu hay
    Xỏ GIÀY-TRĂNG dạo ngót qua mây
    Lấy MŨ-MẶT TRỜI đội ngay che đầu hói
    TA đi đâu đâu là bến đợi
    Có mình ta ta biết hỏi ai đây???
    TÔI LÀ NGƯỜI ĐI TÌM CHÍNH TÔI

    rose4 rose4 rose4

  14. #114

    Talking

    Trích dẫn Nguyên văn bởi manbro Xem Bài Gởi
    đêm lang thang ta đi tìm chỗ ....ghẹo
    Lấy RƯỢU-ĐỜI thưởng thú nồng say
    Lấy NHẮM-THIÊN NHIÊN vui thỏa tháng ngày
    Lấy NHÂN-ĐŨA trên tay ta gắp
    Thấy TÌNH-VỊ đủ mùi xông khắp
    Thấy ĐĨA-ĐỊA CẦU sạch nhẵn đâu hay
    Xỏ GIÀY-TRĂNG dạo ngót qua mây
    Lấy MŨ-MẶT TRỜI đội ngay che đầu hói
    TA đi đâu đâu là bến đợi
    Có mình ta ta biết hỏi ai đây???
    Bài thơ hay lắm .Đầy khí phách

  15. #115

    Mặc định

    mấy bác GSTS này dừng tai dey sao tiếc quá tiếc quá
    TÔI LÀ NGƯỜI ĐI TÌM CHÍNH TÔI

    rose4 rose4 rose4

  16. #116

    Mặc định

    gửi bố thọ!
    con rất ưng phép thiền toán của bố. đã là tiên đề thì không thể chứng minh. bằng cảm nhận trực quan mà viết ra. tiên đề là nền tảng của học thuyết. nếu họ chứng minh được tiên đề của bố thì nó sẽ thành định lý chứ ko là tiên đề nữa.
    cái nữa là: trục tọa độ không gian 4 chiều gồm: ox - hoành, oy- tung, oz - cao, ot- cầu.
    hay còn gọi là hệ tọa độ cầu. bố tìm cái này ở vật lý lượng tử.
    còn nếu có 1 trục thứ 5 nữa là ok - thì đó là trục thời gian.
    trục này cần một phép toán khác mà khi bố thiền thì đã gặp. phép toán này các cụ đã nhắc đến trong cây tre 100 đốt: khắc nhập, khắc xuất. còn bốn phép toán kia chính là cộng, trừ, nhân, chia. con đang nghiên cứu cái phép thứ năm này. thành quả chưa có. mong được bố chợ giáo, gửi cho con cái phương pháp thiền của bố.
    con tin tưởng vào thiên tài của bố. có điều công cụ của bố có thể chưa đủ diễn đạt để người ta hiểu rõ. cần phải có cộng tác, để tử tiếp nối để phát triển thuyết của bố.
    kính bố sức khỏe. nhớ gởi cho con nhé

  17. #117

    Mặc định

    @khachonghg: Cảm ơn con rất nhiều. Lúc nào mời con đến nhà bố. Địa chỉ nhà bố:
    Số nhà 12 ngõ 1142 Đường La Thành Hà Nội
    Số điện thoại :0914119002

  18. #118

    Mặc định

    Tôi xin công bố thêm 3 chương mới và LỜI KẾT
    (Tiếc rằng các công thức Toán không hiện ra như mong muốn)

    LỜI TỰA LẦN THỨ HAI

    Thực ra, tôi không muốn đăng bốn chương 5, 6, 7 và 8 vì muốn dành riêng cho hai con trai của mình nhưng do lời khuyên của con trai trưởng của tôi khi về nước thăm nhà: "Bố không cần giấu lý thuyết của bố ! Một học sinh lớp 12/12 của bất cứ quốc gia nào đều có thể hiểu nguyên lý chế tạo bom nguyên tử nhưng không phải quốc gia nào cũng có thể chế tạo được vì đó là công nghệ ! Bố có thể giấu công nghệ điều khiển sóng ý thức (SYT) còn phần lý thuyết thì bố cứ công bố vì biết đâu có một đứa trẻ Việt Nam nào đó phát triển rất thành công lý thuyết của bố ".
    Trong lần sửa này, tác giả đã đưa vào 5 chương mới:Chương 0 : Những kiến thức chuẩn bị, chương 5: Tâm Vũ Trụ và Bản Số, chương 6: Sự phân loại âm dương của 7 thành tố có ở trong Tâm Vũ Trụ, chương 7: Lý thuyết huyệt đạo và chương 8: Phép thiền toán Việt Nam. Ngoài ra, tác giả đã đưa vào đầy đủ lý thuyết tập mờ và logic mờ của L.A.Zadeh trong phụ lục B để độc giả tiện tra cứu
    Độc giả chỉ cần đọc lướt qua chương 0, chương chuẩn bị rồi đi thẳng vào nội dung cuốn sách. Khi cần thiết, độc giả có thể quay lại với nó để tra cứu vì nó được biên soạn một các độc lập
    Chương 5 và chương 6 được viết hết sức ngắn gọ và, cô đọng
    Chương 7: Lý thuyết huyệt đạo được trình bày một cách hạn chế, vì lý do an ninh của dân tộc. Phần lớn các định lý trong chương này chỉ được nêu ra mà không chứng minh. Tuy nhiên, những định lý quan trọng nhất đã được chứng minh chặt chẽ.
    Trong chương 8, tác giả trình bày phép thiền toán Việt Nam. Đây là kết quả nghiên cứu của 20 năm của tác giả. Chính nhờ phép thiền toán Việt Nam mà tác giả đã xây dựng được quyển sách này. Nó đặc biệt hữu ích cho những học sinh, sinh viên tự học. Nó là phương pháp có thể nói là duy nhất để tìm đến chân lý tuyệt đối (Tâm Vũ Trụ).
    Từ chương 1 cho đến chương 4 (những lần công bố trước) đã được sửa chữa rất nhiều lần sau khi tác giả đăng và gửi công trình của mình trên các trang web, thư điện tử, sách in và nhận được nhiều phản biện từ các nhà khoa học (tự nhiên và xã hội) trong và ngoài nước. Nhiều ý kiến đã được tiếp thu và thay đổi trong quyển sách công bố lần này. Tác giả vô cùng cảm ơn GS.TSKH. Nguyễn Văn Khang, GS.TSKH. Nguyễn Xuân Hùng, TS. Lê Chí Thành, TS. Bùi Xuân Ngó, TS. Đỗ Đức Hạnh, GS.TS Tô Duy Hợp, GS.TS. Phạm Công Hà, PGS.TS. Trần Đức Trung, ThS. Bùi Phương Lan, ThS. Vũ Thị Hiên… trang web vatlyvietnam.org, trang web thegioivohinh.org, v.v… đã cho những phản biện quý giá. Tác giả cũng vô cùng cảm ơn sự tài trợ tiền in ấn và những lời khuyên quý giá của Luật sư Nguyễn Trần Bạt.
    Tác giả đã cố gắng sửa chữa, tuy nhiên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.
    Mọi góp ý, phê bình và phản biện xin gửi cho tác giả theo địa chỉ:
    Email : tsdoxuantho@gmail.com
    Điện thoại : 091 411 9002.
    Địa chỉ nhà riêng : 12 ngõ 1142 Đường La Thành, Hà Nội.
    Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2011
    Tác giả
    ĐỖ XUÂN THỌ



    CHƯƠNG 5
    TÂM VŨ TRỤ VÀ BẢN SỐ


    Như đã biết, từ chương 1 đến chương 4 chúng ta đã khám phá thấy 6 thành tố có trong Tâm Vũ Trụ đó là: Vận động, Thời gian, Thông tin, Năng lượng, Vật chất và Ý thức.
    Trong chương này ta sẽ thấy Tâm Vũ Trụ có thêm một thành tố nữa, thành tố thứ 7 đó là Bản Số (bản chất có số lượng của mọi đối tượng).
    Chúng ta, tại lúc này, phải đặc biệt chú ý rằng :
    1) Không có đối tượng nào trong Vũ trụ V của chúng ta trống rỗng hoàn toàn vì nó luôn chứa Tâm Vũ Trụ
    2) Nếu x không là tập hợp thì nó vẫn là đối tượng x
    3) Vì đối tượng x bất kỳ luôn thuộc Vũ trụ V nên theo định nghĩa 1 trong chương 0 chúng lại là tập hợp.
    Tất cả sự kỳ diệu này sẽ được giải thích bằng lý thuyết tập hợp mờ của Zadeh (Phụ lục B) nhưng ngay ở đây ta có thể giải thích sơ bộ thế này :
    Vì chúng ta chưa phải là Thượng Đế (Tâm Vũ Trụ), chưa hiểu được Chân Lý Tuyệt Đối (Tâm Vũ Trụ) v.v… nên đến ngay cả số 0 như nhiệt độ 0 tuyệt đối, gia tốc tuyệt đối bằng 0… hay tập hợp trống 0 như việc chúng ta loại bỏ tất cả các phần tử tư duy trong đầu ta….trên thực tế chúng ta chưa bao giờ đạt được mặc dù chúng ta sẽ đạt được ! Chúng ta chỉ có thể nói rằng 2 - 2 = 0 hoặc tập A\A= 0.v.v… với độ tin cậy =0.9999 (nếu coi 1 là đúng hoàn toàn và 0 là sai hoàn toàn)… ! Khi chúng ta hiểu được TVT thì phải chăng Tâm Vũ Trụ (TVT) là tập hợp trống 0 ????.... Điều đó lý giải vì sao đối tượng vừa là tập hợp vừa không phải tập hợp !
    Chúng ta tiếp tục mạch tư duy nhé
    Trong chương 6 ta sẽ xét đến việc tách 7 thành tố trên thành hai phần âm và phần dương đo đó về thực chất ta có 14 thành tố tạo nên Tâm Vũ Trụ.
    Như vậy, 14 cánh sao của mặt trống đồng Ngọc Lũ đã được khám phá đó là 14 thành tố tạo nên Tâm Vũ Trụ của người Việt, của các Vua Hùng…
    Việc phát hiện ra rằng mọi đối tượng trong vũ trụ đều có thể lượng hóa đã khiến chúng ta, về nguyên tắc có thể cân, đong, đo, đếm, cộng, trừ, nhân, chia, lấy tích phân và đạo hàm… mọi thứ trong vũ trụ. Hơn thế nữa, chúng ta có thể lập trình trên máy tính để mô phỏng và dự đoán các kết quả khủng khiếp….

    1. TÂM VŨ TRỤ VÀ BẢN SỐ
    Tự số của một đối tượng A là bản chất có số lượng của A.
    Bản số của một đối tượng A là tự số lớn nhất của A
    Trong phần này ta sẽ chứng minh rằng mọi đối tượng trong vũ trụ đều có bản số.
    Bản số đã được trình bầy chặt chẽ trong chương 0. Ở đây sẽ nhắc lại các tiên đề, định nghĩa và định lý quan trọng nhất liên quan đến khái niệm bản số để cho ta liền mạch tư duy. Cuối cùng ta sẽ phát biểu và chứng minh định lý khẳng định Tâm Vũ Trụ chứa Bản Số. Nếu cần nghiên cứu kỹ mong các bạn quay lại chương 0.
    Gọi V là Vũ Trụ, TVT là Tâm Vũ Trụ
    Định nghĩa 11:
    x là tập hợp khi và chỉ khi với một y nào đó ta có xy
    Định nghĩa 12:
    0= {x: x  x}

    Lớp 0 gọi là lớp trống hay là không
    Định lý 32:
    xV khi và chỉ khi x là tập hợp.

    Định lý 33:
     0 = V và  0 =0

    CM. z 0 tương đương với z là tập hợp và z thuộc mỗi một phần tử của lớp 0. Vì không tồn tại các phần tử của lớp 0, nên z tương đương với z là tập hợp. Theo định lý 32 suy ra  0 = V. Điều khẳng định thứ hai cũng chứng minh được dễ dàng.
    Định nghĩa 13:
    {x}={z: nếu x V thì z=x}
    .
    Lớp một phần tử của phần tử x là {x}
    Định nghĩa 14:
    {xy} = {x}  {y}

    Lớp {xy} là một cặp không sắp thứ tự
    Định nghĩa 15:
    (x, y) = {{x} {xy}}

    Lớp (x, y) gọi là cặp có sắp thứ tự.
    Định nghĩa 16:
    r là một quan hệ khi và chỉ khi với mỗi phần tử z của lớp r đều tồn tại x và y sao cho z = (x, y).

    Quan hệ là một lớp mà các phần tử là những cặp có sắp thứ tự.
    Định nghĩa 17:
    f là một hàm khi và chỉ khi f là một quan hệ và với mỗi một x, mỗi một y và mỗi một z, nếu (x, y)  f và (x, z)  f thì y = z.

    Tiên đề 2: Tiên đề thế : Nếu f là một hàm và miền xác định của f là một tập hợp thì miền giá trị của f cũng là một tập hợp.
    Tiên đề 3: Tiên đề liên kết: Nếu x là một tập hợp thì  x cũng là một tập hợp.

    Định lý 34:
    Nếu x (miền xác định của f) thì f(x) = V ; nếu x (miền xác định của f) thì f(x)  V .

    CM : Nếu x (miền xác định của f) thì {y : (x, y)f}=0 và f(x)=V (định lý 33). Nếu x (miền xác định của f) thì {y : (x, y) f}  0 và f(x) là một tập hợp và do đó f(x) thuộc V
    Định nghĩa 18:
    x  y = {(u, v) : u  x và v  y}

    Định lý 35:
    Nếu f là một hàm và miền xác định của f là một tập hợp thì f là một tập hợp.
    CM : Thực vậy f  (miền xác định của f)  (miền giá trị của f)
    Định nghĩa 19:
    xry khi và chỉ khi (x, y)  r.

    Nếu xry, ta nói x có quan hệ r với y hay x là r - đứng trước y.
    Định nghĩa 20:
    r liên thông x khi và chỉ khi từ u và v thuộc x suy ra hoặc urv hoặc vru
    Định nghĩa 21:
    z là r- phần tử thứ nhất của lớp x khi và chỉ khi zx và từ y  x với z  y thì yrz là sai
    Định nghĩa 22:
    r sắp tốt x khi và chỉ khi r liên thông x và từ y  x và y  0 suy ra trong lớp y có r- phần tử thứ nhất
    Định nghĩa 23:
    y là r – thiết diện của x khi và chỉ khi y x, r sắp tốt x và từ u x, v y và urv suy ra u y.

    Do đó tập hợp con y của lớp x được gọi là một r – thiết diện khi và chỉ khi r sắp tốt x và không có phần tử nào thuộc x\y lại r - đứng trước một phần tử của y.
    Định nghĩa 24:
    E = {(x, y) : x  y}
    .
    Lớp E được gọi là - quan hệ..
    Định nghĩa 25 :
    Lớp x là đầy khi và chỉ khi mỗi phần tử của lớp x đều là một tập hợp con của x.

    Nói cách khác, x là đầy khi và chỉ khi mỗi phần tử của một phần tử tùy ý của lớp x là một phần tử của lớp x. Một phát biểu tương đương khác: x là đầy khi và chỉ khi E là bắc cầu trong x.
    Định nghĩa 26:
    x là một tự số khi và chỉ khi E liên thông x và lớp x là đầy.

    Điều đó có nghĩa là hai phần tử bất kỳ của lớp x, một phần tử là phần tử của phần tử kia và mỗi phần tử của một phần tử tùy ý của lớp x đều thuộc x.
    Để hiểu khái niệm tự số ta xét ví dụ sau :
    Tự số thứ nhất là 0, tự số tiếp theo 1 = 0  {0}, tiếp theo 2 = 1  {1} và tiếp theo 3 = 2 {2}. Chú ý là 0 là phần tử duy nhất của lớp 1; 0 và 1 là các phần tử duy nhất của lớp 2 và 0, 1, 2 là các phần tử duy nhất của lớp 3. Mỗi một tự số đứng trước 3 không những là phần tử mà còn là một tập hợp con của lớp 3. Các tự số được xác định sao cho loại cấu trúc rất đặc biệt đó được bảo toàn
    Định lý 36:
    Nếu y là một r – thiết diện của lớp x và y x thì y = {u:ux và urv} với một v nào đó thuộc x.

    CM: Nếu y là mọt r – thiết diện của lớp x và y ≠x thì trong x\y có r – phần tử thứ nhất v. Nếu u x\y và có nghĩa u y. Do đó {u:ux và urv}  y. Mặt khác nếu u  y thì v  y và y là một r – thiết diện, vru là sai; có nghãi là urv. Từ đó suy ra đẳng thức phải chứng minh.
    Định lý 37:
    Nếu x là một tự số, y  x, y  x và lớp y là đầy thì y  x.

    CM. Nếu uEv và uEy thì uEy vì lớp y là đầy. Có nghĩa y là E- thiết diện của lớp x. Do đó theo định lý 36 trong x có tồn tại một phần tử v sao cho y = {u : u  x và uEv}. Vì mỗi một phần tử của lớp v là một phần tử của lớp x, nên y = {u, u  v} và y = v.
    Định lý 38:
    Nếu x là một tự số và y là một tự số thì x  y hay y  x.

    CM. Lớp x  y là đầy; theo định lý trên hoặc x  y = x hoặc x  y  x. Trong trường hợp thứ nhất x  y. Nếu x  y  x thì x  y y vì nếu không ta sẽ có x  y  x  y. Vì x  y  y nên theo định lý trên ta suy ra x  y = y. Có nghĩa là y  x.
    Định lý 39:
    Nếu x là một tự số và y là một tự só thì hoặc x  y hoặc y x hoặc x = y.
    Định lý 40:
    Nếu x là một tự số và y  x thì y là một tự số.

    CM. Rõ ràng là E liên thông y, vì x là đầy và E liên thông x. Quan hệ E là bắc cầu trên y vì E sắp tốt x và y  x. Do đó nếu uEp và vEy thì uEy và từ đó y là đầy.
    Định nghĩa 27:
    R = {x : x là một tự số}
    Định lý 41:
    R là một tự số và R không là một tập hợp.

    CM: Từ hai định lý sau cùng suy ra E liên thông R và lớp R là đầy. Có nghĩa R là một tự số. Nếu R là một tập hợp thì R  R, là điều không thể được.
    Theo định lý 39, R là tự số duy nhất không là một tập hợp.
    Định lý 42:
    Nếu f là một hàm thì f \ x là một hàm với miền xác định là x  (miền xác định của f) và (f \ x) (y) với mỗi y thuộc miền xác định của f \ x.

    Định lý kết thúc của mục về các tự số khẳng định rằng (một cách trực quan) có thể xác định một hàm trên một tự số sao cho giá trị của nó tại một phần tử bất kỳ thuộc miền xác định được cho trước bằng cách áp dụng một qui tắc đã xác định trước cho các giá trị đã có trước của hàm. Nói chính xác hơn với một hàm g cho trước bất kỳ đều tồn tại một hàm duy nhất f, cho trên một tự số, sao cho f (x) = g (f \ x) với mỗi một tự số x. Thành thử giá trị của f(x) hoàn toàn được xác định bởi hàm g và các giá trị của f tại các tự số đứng trước x.
    Việc áp dụng định lý này được gọi là việc xác định hàm theo qui nạp siêu hạn.

    Định lý 43:
    Giả sử f là một hàm, miền xác định của nó là một tự số nào đó, và f (u) = g(f \ u), với u  (miền xác định của f). Nếu h cũng là một hàm sao cho miền xác định của h là một tự số nào đó và h(u) = g(h \ u), với u  (miền xác định của h), thì h  f hoặc f  h.

    CM. Vì cả miền xác định của f lẫn miền xác định của h đều là các tự số nên có thể giả thiết rằng (miền xác định của f)  (miền xác định của h) (nếu không sẽ có bao hàm thức ngược lại theo định lý 38). Chỉ còn phải chứng minh rằng f(u)= h (u) với u  (miền xác định của f). Giả thiết ngược lại là giả sử u là E – phần tử thứ nhất thuộc miền xác định của f sao cho f(u)  h(u). Khi đó f (v) = h(v) với mỗi tự số v đứng trước u. Do đó f \ u = h\ u. Khi đó f(u) = g (f \ u) = h(u) là điều dẫn tới mâu thuẫn.
    Định lý 44:
    Với mỗi một g đều tồn tại một hàm duy nhất f sao cho miền xác định của f là một tự số và f (x) = g(f \ x) với mỗi một tự số x.

    CM. Giả sử f = {(u, v) : u  R và tồn tại một hàm h sao cho miền xác định của h là một tự số, h (z) = g (h\ z) với z  (miền xác định của h) và
    (u, v)  h}. Từ định lý trước suy ra f là một hàm. Rõ ràng miền xác định của f là một E – thiết diện của lớp R và từ đó là một tự số. Hơn nữa nếu h là một hàm trên một tự số sao cho h(z) = g(h \ z) với z thuộc (miền xác định của h) thì h  f, và nếu z  (miền xác định của f) thì f(z) = g(h \ z).
    Sau hết, giả sử x  R \ (miền xác định của f). Khi đó f (x) = V theo định lý 33 và vì miền xác định của f là một tập hợp, nên f là một tập hợp (định lý 35). Nếu g(f \ x) = g(f) = V thì suy ra đẳng thức f(x) = g(f \ x). Trong trường hợp ngược lại g(f) sẽ là một tập hợp (lại định lý 34). Khi đó nếu y và E – phần tử thứ nhất của lớp R \ (miền xác định của f) và h = f  {y, g (f))} thì miền xác định của h là một tự số và h (z) = g(h \ z ) với z  (miền xác định của h). Do đó h  f và y  (miền xác định của f), là điều mâu thuẫn. Do đó g(f) = V và định lý được chứng minh.
    Bây giờ ta phát biểu tiên đề cuối cùng và suy ra hai hệ quả mạnh.
    Định nghĩa 28:
    c là một hàm chọn khi và chỉ khi c là một hàm và c(x) x với mỗi phần tử x thuộc miền xác định của c.

    Một cách trực quan, hàm chọn thực hiện việc chọn theo từng phần tử trong mỗi tập hợp thuộc miền xác định của c.
    Điều kiện sau đó là dạng mạnh của bổ đề Zecmơlô hay tiên đề chọn.
    Tiên đề 4: Tiên đề chọn
    Có tồn tại một hàm chọn c, với miền xác định là V \ {0}

    Hàm c chọn một phần tử từ mỗi tập hợp khác trống.
    Định lý 45:
    Với mỗi một tập hợp x đều tồn tại một hàm một – một, miền giá trị của nó là x, và miền xác định của nó là một tự số.

    CM. Chứng minh bao gồm việc xây dựng hàm phải tìm theo qui nạp siêu hạn. Ký hiệu g là hàm sao cho g (h) = c(x \ (miền giá trị của h)) trong đó h là một tập hợp bất kỳ và c là hàm chọn, được mô tả trong tiên đề chọn. Theo định lý 44, có tồn tại một hàm f sao cho miền xác định của f là một tự số nào đó và f(u) = g(f\u) với mỗi một tự số u. Khi đó f(u)= c(x \ (miền giá trị của (f\u)), và nếu u  (miền xác định của f) thì f(u) x \ (miền giá trị của (f\u)), Nhưng f là một hàm một – một vì nếu f(v) = f(u) và u < v thì f(v)  (miền giá trị của (f\v)) và điều đó mâu thuẫn với f(v)  x \ (miền giá trị của (f\v)). Vì f là hàm một – một nên đẳng thức “(miền xác định của f) = R” là không thể có. Thực vậy f-1 là hàm, miền xác định của nó là một lớp con của lớp x và do đó là một tập hợp. Từ đó suy ra miền giá trị của f-1 là một tập hợp theo tiên đề thế và R không là tập hợp. Do đó (miền xác định của f)  R. Vì (miền xác định của f)  (miền xác định của f) nên f (miền xác định của f) = V và có nghĩa là c(x \ (miền giá trị của f)) = V . Vì miền xác định của c là V \{0} nên x \ (miền giá trị của f) = 0 Từ đó suy ra f là hàm phải tìm.
    Định nghĩa 30:
    x  y khi và chỉ khi có tồn tại một hàm một – một f sao cho (miền xác định của f) = x và (miền giá trị của f) = y.

    Nếu x  y, ta nói (lớp) x tương đương với (lớp) y hay x và y là cùng lực lượng.
    Định nghĩa 31:
    x là một Bản Số khi và chỉ khi x là một tự số và từ y  R và y thuộc x, suy ra x  y là sai.

    Do đó Bản Số là tự số lớn nhất của một đối tượng
    Định nghĩa 32:
    C = {x : x là bản số}

    Như vậy lớp C chứa toàn bộ các bản số của Vũ Trụ V
    Định nghĩa 33:
    P={(x,y) : x  y và y C }

    Lớp P gồm tất cả các cặp (x,y) trong đó x là đối tượng và y là một bản số tương đương với x. Bản số P(x) trong đó x là đối tượng bất kỳ được gọi là lực lượng của đối tượng x, hay bản số của đối tượng x
    Định lý 46:
    P là một hàm, (miền xác định của P) = V, và (miền giá trị của P)=C.

    CM: Trong chứng minh, định lý 45 đóng vai trò quyết định.
    Định lý này là cơ sở để chứng minh định lý 47, định lý trung tâm của chương này
    Định lý 47:
    Tâm Vũ Trụ chứa bản số

    CM: Giả sử V là Vũ Trụ và TVT là Tâm Vũ Trụ, theo định lý trên , P là một hàm, (miền xác định của P)=V và (miền giá trị của P) = C . Điều này có nghĩa là mọi đối tượng của vũ trụ V đều có bản số. Vì TVT= V nên TVT chứa bản số. Suy ra đ.p.c.m
    Như vậy ta đã chứng minh được một định lý vô cùng quan trọng khẳng định Tâm Vũ Trụ chứa thêm thành tố thứ 7 đó là Bản số
    Từ định lý 47 nay ta có một niềm tin vững chắc rằng chúng ta sẽ lượng hóa được tất cả các đối tượng trong vũ trụ kể cả các đối tượng hữu hình lẫn các đối tượng vô hình và dù đối tượng đó là một ý niệm trong đầu hoặc một sóng ý thức từ vũ trụ bao la bắn vào đầu ta…
    Cũng chính nhờ định lý 47 nên chúng ta hoàn toàn yên tâm khi kế thừa các thành quả tuyệt vời và vô cùng mạnh mẽ của Toán Học để khám phá vũ trụ .
    Bằng kinh nghiệm, và suy ngẫm trong hơn 20 năm Thiền Toán, tác giả có thể khẳng định:
    “Toán Học là công cụ duy nhất mà Thượng Đế (Tâm Vũ Trụ) ban cho loài người để loài người tiến tới Chân Lý Tuyệt Đối (Tâm Vũ Trụ) mà không bị lạc lối !”
    Cũng chính vì mọi đối tượng đều có bản số nên nếu coi các học thuyết về triết học, về văn học, về văn hóa… thậm chí các quyển kinh thánh của mọi tôn giáo trên trái đất bé bỏng và vô cùng yêu thương này chỉ là các đối tượng thì chúng đều có thể lượng hóa được.
    Tất cả các học thuyết đó, các tôn giáo đó đều sẽ được mô tả bởi các phương trình, các tiên đề , định lý… của toán học và kinh khủng nhất là có thể lập trình trên máy tính để mô phỏng và phán xét sự đúng sai của chúng được!!!
    Vì Bản Số cũng là một đối tượng trong Vũ Trụ nên, cho đến lúc này, nó chứa cả 7 thành tố có ở Tâm Vũ Trụ. Tức là Bản Số cũng vận động, Bản Số có thời gian, Bản Số có thông tin, Bản Số có năng lượng, Bản Số chứa vật chất, Bản Số chứa ý thức và Bản Số có thể lượng hóa chính Bản Số (lượng hóa của lượng hóa). Thật kỳ diệu!
    Vì Vũ Trụ là một đối tượng đặc biệt nên nó cũng có Bản Số . Bây giờ ta sẽ phát biểu và chứng minh một định lý nói về số lượng các đối tượng trong vũ trụ
    Định lý 48:
    Vũ trụ có vô hạn các đối tượng.

    CM: Ta sẽ chứng minh bằng phản chứng.
    Giả sử Vũ Trụ có hữu hạn các đối tượng, khi đó tồn tại một số x thuộc tập số thực R sao cho số lượng của các đối tượng trong vũ trụ đều nhỏ hơn x.
    Bây giờ ta chọn số y= x+1. Rõ ràng y>x và y là một đối tượng của vũ trụ vì y=y (theo định nghĩa vũ trụ)
    Điều vô lý này suy ra vũ trụ có vô hạn các đối tượng. (đ.p.c.m).
    Tiếp theo ta sẽ phát biểu và chứng minh một định lý để thấy mọi đối tượng đầy đủ trong vũ trụ đều mang “hình hài” của vũ trụ
    Định lý 49:
    Giả sử A là một đối tượng đầy đủ bất kỳ trong vũ trụ. Khi đó số các đối tượng con tạo nên A là vô hạn.

    CM:Vì A là một đối tượng bất kỳ trong vũ trụ nên đối với một đối tượng B nào đó trong vũ trụ thì theo định lý 1 về mối liên hệ phổ biến, giữa A và B tồn tại ít nhất một mối liên hệ. Theo định lý 48 Vũ trụ có vô hạn các đối tượng B như thế nên A có vô hạn các mối liên hệ giữa A và các đối tượng trong vũ trụ. Mặt khác, các mối liên hệ đó suy cho cùng cũng chỉ là các đối tượng. Vì A là đối tượng đầy đủ nên những đối tượng con đó là các đối tượng tạo nên A. Suy ra A có vô hạn các đối tượng con tạo nên A.(đ.p.c.m)

    2. KẾT LUẬN CỦA CHƯƠNG 5
    + Trong chương 5 chúng ta đã định nghĩa tự số, bản số và chứng minh được một định lý vô cùng quan trọng rằng Tâm Vũ Trụ chứa thêm một thành tố nữa, thành tố thứ 7 đó là Bản Số (tự số lớn nhất của một đối tượng bất kỳ). Chính vì điều này, chúng ta có thể lượng hóa được mọi đối tượng trong Vũ trụ kể cả các đối tượng vô hình như các sóng ý thức (SYT), các tư duy v.v…thành các con số và vững tâm sử dụng mọi thành quả vĩ đại của Toán học mà không sợ là khiên cưỡng.
    Ví dụ chúng ta có thể thác triển một sóng ý thức bằng một chuỗi Furie hoặc mô tả một quyển kinh thánh bằng một hệ phương trình vi phân đạo hàm riêng hoặc mô phỏng quá trình tư duy để phát minh ra thuyết tương đối của Einstein trên máy tính chẳng hạn…
    + Trong một chừng mực nào đó, chúng ta đã giải thích rõ sự giống nhau và khác nhau giữa hai khái niệm đối tượng và tập hợp thông qua lý thuyết tập hợp mờ (phụ lục B) mà lý do cốt lõi là chúng ta chưa hiểu được chân lý tuyệt đối (tức Tâm Vũ Trụ). Từ các lý luận đó chúng ta yên tâm sử dụng các phép toán của lý thuyết tập hợp vào đối tượng mà không sợ là “ râu ông nọ cắm cằm bà kia”
    + Mỗi con người đều mang hình hài của vũ trụ. Con người chính là một tiểu vũ trụ
    + Vì các mối liên hệ được đề cập trong phép chưng minh định lý 49 đều là thông tin nên suy ra : Mỗi con người đều có thông tin về mọi đối tượng trong vũ trụ.
    Do các quy luật phổ quát nhất của vũ trụ suy cho cùng cũng chỉ là các đối tượng nên bất kỳ con người nào, về nguyên tắc đều có thể khám phá được các quy luật đó. Điều này củng cố niềm tin cho chúng ta rằng: đến một lúc nào đó, chúng ta, những con người sẽ khám phá ra Chân lý Tuyệt đối- Tâm Vũ Trụ
    Các điều bí mật, dù điều bí mật đó được bảo mật nghiêm ngặt nhất, thậm chí được giấu ở trong một cái đầu của ai đó thì vì nó là đối tượng của vũ trụ nên thông tin về nó, mỗi con người trên trái đất này đều có và do vậy điều bí mật đó, về nguyên tắc sớm hay muộn cũng sẽ bị lộ ! Chúng ta đã được đọc câu truyện cổ tích tuyệt vời “Ông vua có đôi tai lừa” . Đó chính là một minh chứng cho kết luận này.
    Chúng ta không nên sống đạo đức giả ! Hãy sống thật lòng mình như những đứa trẻ ! Nếu bạn chỉ cần xuất hiện trên ti vi, thuyết trình một vấn đề không đúng lòng mình thì sẽ có một người nào đó trên trái đất này có khả năng đọc được ý nghĩ của bạn.
    +Tuy nhiên, một số câu hỏi chát chúa được đặt ra là:
    - Tại sao ai cũng có thông tin về quy luật Vạn Vật Hấp Dẫn mà chỉ có một mình Nưu-tơn là phát hiện ra?
    - Nếu lập luận như trên thì ai đánh sổ số cũng trúng à?
    ….
    Thực ra vì trong đầu chúng ta luôn luôn nhận được vô hạn các thông tin từ vô hạn các đối tượng trong vũ trụ nên để có các phát minh vạch thời đại hay đánh sổ số trúng thưởng… thì con người đó phải có một bộ lọc nhiễu để hướng sự quan tâm của mình vào các thông tin có ích…
    Ngoài ra khi đọc chương 6 , ta sẽ hiểu khái niệm “Thông tin âm” và “Ý thức âm” , khi đó ta biết rằng có những thông tin, những ý thức có ích bị bắn ra khỏi đầu ta bay vào vũ trụ. Chính vì thế các Bí mật của Thượng Đế hoặc các thông tin và ý thức khác chỉ tồn tại trong đầu ta trong vòng vài nano giây…

    CHƯƠNG 6
    SỰ PHÂN LOẠI ÂM, DƯƠNG CỦA BẨY THÀNH TỐ
    CÓ TRONG TÂM VŨ TRỤ


    Trong chương này ta sẽ phân loại âm, dương của 7 thành tố tạo nên Tâm Vũ Trụ và tạo thành 14 thành tố. Sự phân loại này là cần thiết vì nó phù hợp với các quy luật phổ quát nhất của Vũ Trụ. Nó là những mặt đối lập trong một thể thống nhất (Tâm Vũ Trụ) nói theo cách của Hêghen trong phép biện chứng. Nó phù hợp với Thuyết Âm Dương, Kinh Dịch và Phật Giáo…
    Mười bốn thành tố đó là:
    1 )Vận động âm ký hiệu là -VĐ
    2 )Vận động dương ký hiệu là +VĐ
    3 )Thời gian âm ký hiệu là -TG
    4 )Thời gian dương ký hiệu là +TG
    5 )Thông tin âm ký hiệu là -TT
    6 )Thông tin dương ký hiệu là +TT
    7 )Năng lượng âm ký hiệu là -NL
    8 )Năng lượng dương ký hiệu là +NL
    9 )Vật chất âm ký hiệu là -VC
    10)Vật chất dương ký hiệu là +VC
    11)Ý thức âm ký hiệu là -YT
    12)Ý thức dương ký hiệu là +YT
    13)Bản số âm ký hiệu là -BS
    14)Bản số dương ký hiệu là +BS
    Bây giờ ta sẽ định nghĩa 14 khái niệm mới này
    Định nghĩa 34:
    Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ.
    Vận động của A hướng về Tâm Vũ Trụ do bị TVT hút được gọi là Vận động dương và ký hiệu là +VĐ .
    Vận động của A hướng ra xa Tâm Vũ Trụ do bị TVT đẩy được gọi là Vận động âm và ký hiệu là -VĐ

    Đối với mỗi con người, nếu cái tâm (tư duy trong cái đầu của người đó) mà luôn hướng đến sự trong sáng, chân thành , hướng đến cái chân, thiện, mỹ thì có nghĩa sự vận động của cái tâm của người đó là +VĐ, vận động hướng tới TVT. Vì TVT chứa toàn bộ thông tin, ý thức … của cả vũ trụ nên cái tâm đó ngày càng sáng vì hiểu được các chân lý vỹ đại. Ngược lại nếu tâm của người đó vận động ra xa TVT tức là –VĐ thì con người đó càng ngày càng ngu si và chính vì thế nên số phận sẽ chẳng ra gì.
    Vì tâm của mỗi con người luôn có cả +VĐ và –VĐ nên việc rèn luyện đạo đức chính là việc triệt tiêu dần cái –VĐ và tăng cường cái +VĐ trong sự vận động tâm trí của mình.
    Định nghĩa 35:
    Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ.
    Thời gian trôi từ Tâm Vũ Trụ đến A được gọi là thời gian âm và ký hiệu là -TG.
    Ngược lại thời gian trôi từ A đến Tâm Vũ Trụ được gọi là thời gian dương và ký hiệu là +TG

    Như vậy +TG là thời gian của hiện tại và tương lai. –TG là thời gian của quá khứ.
    Trong mỗi con người hay một đối tượng bất kỳ trong vũ trụ luôn tồn tại cả cái quá khứ cả cái hiện tại và cả cái tương lai nên có cả +TG và –TG.
    Định nghĩa 36:
    Giả sử A là đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ.
    Thông tin có hướng đi từ Tâm Vũ Trụ đến A được gọi là thông tin dương và ký hiệu là +TT .
    Ngược lại thông tin có hướng đi từ A đến Tâm Vũ Trụ được gọi là thông tin âm và ký hiệu là –TT.

    Đối với mỗi con người, với tư cách là một đối tượng, theo định lý 1 nó có các mối liên hệ với mọi đối tượng trong Vũ Trụ . Theo định nghĩa khái niệm thông tin thì các mối lien hệ đó chính là các thông tin. Do đó về nguyên tắc, mọi con người đều có thể tìm ra các chân lý vĩ đại (với tư cách là các đối tượng) như A.Einstein …Nhưng vì thông tin bao gồm thông tin âm –TT và thông tin dương +TT (do mọi thông tin đều phải thông qua TVT) nên những thông tin của mọi đối tượng trong Vũ Trụ (trong đó có các chân lý vĩ đại) chỉ tồn tại trong đầu ta trong vòng 1 phần tỷ nano giây nếu chúng ta không “ Bẫy” được +TT của chân lý đó và “Thải” các –TT của các đối tượng mà chúng ta không quan tâm thì không thể tìm ra chúng….Trong chương 8 ta sẽ bàn về bộ lọc sóng ý thức.
    Định nghĩa 37:
    Giả sử A là đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ.
    Năng lượng gây ra vận động dương của A được gọi là năng lượng dương và ký hiệu là +NL
    Năng lượng gây ra vận động âm của A được gọi là năng lượng âm và ký hiệu là –NL

    Năng lượng dương +NL làm cho con người tiến tới Tâm Vũ Trụ.
    Năng lượng âm -NL là năng lượng làm cho con người rời xa Tâm Vũ Trụ.
    Một câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để tăng năng lượng dương +NL? Điều này chỉ có thể thực hiện được ở trong những buổi Thiền Toán. Chúng ta cố gắng để những chân lý đạt được trong buổi thiền đó là những chân lý hướng đến cái chân, những chân lý hướng đến cái thiện và những chân lý hướng tới một sự thẩm mỹ hoàn hảo…
    Nếu trong một buổi thiền mà không đạt được như thế thì đến ngày hôm sau rất khoát phải tiêu diệt cái chân lý mà ngày hôm trước không đạt được.
    Định nghĩa 38:
    Giả sử A là đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ.
    Vật chất của A vận động hướng về Tâm Vũ Trụ gọi là vật chất dương và ký hiệu là +VC .
    Vật chất của A vận động do Tâm Vũ Trụ đẩy ra xa gọi là Vật Chất âm và ký hiệu là -VC

    Rất nhiều người cho rằng: Vật chất âm -VC là tương lai của Vũ Trụ theo như A.Einstein vì sau quá trình dãn nở của Vú Trụ là thời kỳ co lại…
    Định nghĩa 39:
    Giả sử A là đối tượng bất kỳ trong Vũ Trụ.

    Thông tin dương vô hình của A được gọi là Ý Thức dương và ký hiệu là +YT
    Thông tin âm vô hình của A được gọi là Ý Thức âm và ký hiệu là -YT
    Ý thức âm -YT là ý thức bắn ra khỏi đầu ta
    Ý thức dương +YT là ý thức mà chúng ta nhận được từ Tâm Vũ Trụ.
    Cả hai đều cực kỳ cần thiết bởi những ý thức không cần thiết cần phải loại bỏ khỏi đầu ta (-YT). Còn những ý thức cần thiết (được định hưởng bởi lý tưởng của từng con người) cần phải giữ lại (+YT)…
    Định nghĩa 40:
    Giả sử A là một đối tượng bất kỳ trong vũ trụ.
    Nếu bản số của A thuộc tập số thực âm R- thì ta nói A có bản số âm và ký hiệu – BS

    Nếu bản số của A thuộc tập số thực không âm R+ thì ta nói A có bản số dương và ký hiệu + BS
    Có thể xem bản số âm -BS và bản số dương +BS là phần âm và phần dương của một trục số. Điều này rất tiện lợi khi ánh xạ các thành tố âm dương trong Tâm Vũ Trụ vào trục số này.
    Định lý 50:
    Mười bốn thành tố : +VĐ, -VĐ, +TG, -TG, +TT, -TT, +NL, -NL, +VC, -VC, +YT, -YT, +BS và –BS đều có ở Tâm Vũ Trụ.

    CM : Vì +VĐ hay –VĐ đều là vận động mà vận động có ở Tâm Vũ Trụ nên +VĐ hay –VĐ đều chứa trong Tâm Vũ Trụ.
    Chứng minh 12 thành tố còn lại tương tự nên định lý 36 đã được chứng minh.
    Ngôi sao ở trung tâm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ của người Việt cổ có 14 cánh . Bây giờ ta đặt tên 14 cánh sao đó bằng 14 thành tố có trong Tâm Vũ Trụ như hình vẽ
    Mười bốn cánh sao của ngôi sao nằm ở trung tâm
    mặt trống đồng Ngọc Lũ được gắn tên như sau:


    Như vậy, mọi đối tượng trong Vũ trụ đều vận động trong một "không gian" 14 chiều. Một sóng ý thức là một đối tượng nên có thể mô tả sự dao động của nó bằng một hàm điều hoà phụ thuộc vào ít nhất 14 tham số. Nếu khai triển thì có thể mô tả sóng ý thức bằng một hệ 14 phương trình vi phân đạo hàm riêng.



    KẾT LUẬN CỦA CHƯƠNG 6
    + Như vậy 14 cánh sao của ngôi sao trung tâm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ của Việt Nam chính là 14 thành tố có trong Tâm Vũ Trụ như đã kể trên. Phải chăng từ thời các Vua Hùng, Việt Nam đã có một minh triết?
    + Gọi +F là một trong 7 thành tố dương: Vận động dương, Thời gian dương, Thông tin dương, Năng lượng dương, Vật chất dương , Ý thức dương và Bản số dương và -F là một trong 7 thành tố âm tương ứng : Vận Động âm, Thời gian âm, Thông Tin âm, Năng Lượng âm, Vật Chất âm, Ý Thức âm và Bản số âm .
    Mọi đối tượng đều chứa cả +F lẫn - F. +F và -F như các cực đối lập có trong cùng một đối tượng tuy nhiên chúng vẫn thống nhất vì giao của chúng chứa Tâm Vũ Trụ .
    Giá trị tuyệt đối của +F và -F luôn luôn không bằng nhau nên đối tượng luôn luôn vận động.
    Giả sử A là một đối tượng bất kỳ có +F và -F. Nếu |+F| > | - F| thì ta nói A hướng Tâm Vũ Trụ.
    Lượng U(TVT)= | +F|-| -F| được gọi là lân cận tương đối của A .
    U(TVT) phản ánh độ hội tụ đến Tâm Vũ Trụ của A
    Nếu U(TVT) < 0 thì ta nói A đang rời xa Tâm Vũ Trụ
    Nếu U(TVT) > 0 thì ta nói A đang tiến tới Tâm Vũ Trụ
    + Việc lượng hóa số phận của chúng ta hoặc lượng hóa số phận của một dân tộc sẽ được bàn đến khi tác giả viết phần 2 của thuyết Tâm Vũ Trụ, phần nhân sinh quan


    CHƯƠNG 7
    LÝ THUYẾT HUYỆT ĐẠO


    Trong chương này tác giả sẽ trình bầy sơ lược lý thuyết huyệt đạo.
    Trước hết ta sẽ trình bầy các khái niệm cơ bản
    Tác động là một khái niệm cơ bản chỉ sự tương tác, va đập, một cú huých,v.v…Một thiên thạch va đập vào một hành tinh nào đó, một toán tử tác động vào một biến, một chất xúc tác gây ra sự thay đổi trong phản ứng hóa học, một lượng phân vi sinh tác động vào quá trình sinh trưởng của lúa, một sự gợi ý của thầy làm ta giải được bài toán v.v… là những ví dụ về tác động.
    Hệ thống là tập hợp các đối tượng có cùng chung một số tính chất nào đó
    Định nghĩa 41:
    Giả sử H là một hệ thống bất kỳ. v là một đối tượng thuộc H. Ta gọi v là huyệt đạo của H nếu với một tác động nhỏ t , tác động vào lân cận U(v) cực nhỏ của v thì sẽ biến H thành H' sao cho các phần bù
    H\H’ hoặc H’\H
    là một lượng cực lớn.

    Không nên hiểu huyệt đạo chỉ có tính tiêu diệt mà nó còn có tính phát triển.
    Một tác động cực nhỏ vào một huyệt đạo nào đó có thể biến một nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế hùng cường.
    Nếu tác dụng một lực có tần số trùng với tần số riêng của một cây câu thì cây cầu đó sẽ bị dao động cộng hưởng và sụp đổ
    Các mũi kim của GS Nguyễn Tài Thu châm cứu vào một loạt huyệt đạo sẽ làm một người bị liệt có thể đi lại được
    Lô-ba-xep-ky chỉ cần thay đổi nội dung của 1 tiên đề trong số các tiên đề của hình học Ơ-cơ-lit, (tiên đề đường thẳng song song) đã tạo ra một hình học "điên rồ" mới, hình học Lô-ba-xep-ky
    Một sóng ý thức, có tần số thích hợp, phóng vào tâm của một cơn bão thong qua Tâm Vũ Trụ có thể làm đổi hướng cơn bão đó
    Còn biết bao ví dụ mà không kể hết
    Như vậy, để cho một hệ thống phát triển hoặc bị tiêu diệt thì việc đầu tiên là phải tìm ra các huyệt đạo của hệ thống đó
    Để tìm ra tập hợp các huyệt đạo của một hệ thống bất kỳ thì việc đầu tiên là phải phân tích hệ thống. Những hệ thống đơn giản có thể tìm được ngay những huyệt đạo của nó nhưng với những hệ thống vô cùng phức tạp thì đòi hỏi phải có một chủ thuyết (công cụ ) để phân tích. Ví dụ như phép biện chứng, học thuyết Mác-Lênin, phương pháp tiệm cận, phương pháp phần tử hữu hạn, phương pháp số v.v…Đối với tác giả, tác giả thường dùng học thuyết Tâm Vũ Trụ của chính mình để tìm ra chúng
    Định nghĩa 42:
    Lý thuyết dùng học thuyết Tâm Vũ Trụ để tìm ra những huyệt đạo của một hệ thông bất kỳ gọi là “lý thuyết huyệt đạo Đỗ Xuân Thọ”.

    Bây giờ ta phát biểu và chứng minh một số định lý
    Định lý 51:
    Tâm Vũ Trụ là huyệt đạo của mọi hệ thống trong Vũ Trụ

    CM: Giả sử H là một hệ thống bất kỳ trong Vũ Trụ, h là một huyệt đạo bất kỳ của H tức là tồn tại một tác động nhỏ t sao cho khi t tác động vào một lân cận nhỏ U(h) của h sẽ làm H biến thành H’ và phần bù : H’\H hoặc H\H’ là một lượng cực lớn. Nhưng vì h là một đối tượng nên theo định lý 5 trong thuyết Tâm Vũ Trụ suy ra h chứa Tâm Vũ Trụ TVT.Vì H cung là đối tượng nên TVT thuộc H, do đó lân cận U(h) cũng chính là lân cận U(TVT) của Tâm Vũ Trụ, tác động t cũng chính là tác động cần tim. Theo định nghĩa Huyệt đạo suy ra TVT là huyệt đạo của H, suy ra đ.p.c.m
    Qua chưng minh trên suy ra đối với một hệ thống H bất kỳ, Tâm Vũ Trụ (TVT) là huyệt đạo quan trọng nhất
    Vì mọi huyệt đạo của hệ thống đều chứa TVT nên để tìm huyệt đạo bất kỳ của một hệ thống H bất kỳ, ta chỉ cần biết TVT nằm ở những hệ thống con nào của H.
    Tiếp theo, dễ dàng chứng minh một định lý tuyệt vời nhất
    Định lý 52:
    Tâm Vũ Trụ TVT là huyệt đạo của Vũ Trụ V

    CM: Vì vũ trụ V cũng là một hệ thống nên theo định lý 51 suy ra TVT là huyệt đạo của V suy ra đ.p.c.m.
    Như vậy ta đã chứng minh được một định lý vô cùng quan trọng.
    Nếu ta gọi tập hợp đếm được Ui(TVT) các lân cận của Tâm Vũ Trụ (đánh số từ trong ra ngoài) thì các một sóng ý thức (SYT) của một con người tác động vào U8(TVT) trở vào cũng đủ làm rung chuyển Vũ Trụ V
    Tiếp theo,dễ dàng chứng minh một loạt các định lý sau đây
    Định lý 53:
    Tâm Trái Đất là huyệt đạo của Trái Đất
    Định lý 54:
    Tâm Mặt Trời là huyệt đạo của Mặt Trời
    Định lý 55:
    Niềm tin vào Tâm vũ trụ là huyệt đạo của mỗi con người.
    Bây giờ ta xét tới một định nghĩa
    Định nghĩa 43:
    Giả sử S là một hệ thống bất kỳ trong Vũ Trụ. Ta gọi tập hợp tất cả các huyệt đạo của S là hệ thống huyệt đạo của S và ký hiệu là HĐ(S)

    Dễ dàng chứng minh được định lý
    Định lý 56:
    Giả sử QGyt là hệ thống bao gồm mọi ý thức của một quốc gia nào đó. Khi đó HĐ(QGyt) là các trí thức hàng đầu của quốc gia đó.

    Ta gọi HĐ(QGyt) là các tâm ý thức của quốc gia đó.
    Vì thế khi truyền bá một học thuyết nào đó chỉ cần truyền bá vào đầu của các tâm ý thức của quốc gia đó là đủ

    KẾT LUẬN CHƯƠNG 7
    Thực ra lý thuyết Huyệt đạo sẽ phải nói sâu sắc hơn nhưng vì an ninh của quốc gia cho nên không thể nói dài hơn được nữa.
    1. Những đứa trẻ của Việt Nam, đặc biệt là những đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ hoặc chưa đi học lớp một sẽ được cảm thụ hệ giáo dục của một nền văn minh Omega nào đó mạnh hơn một tỷ lần Trái Đất thông qua bộ lọc sóng ý thức sẽ là chủ nhân của một quốc gia mạnh nhất hành tinh này!!! Vì sao như thế? Vì tác giả sẽ nắm được tần số riêng sóng ý thức của toàn bộ dân tộc Kinh và điều khiển được sự tác động của nền văn minh Omega vào quần tụ ý thức của những đứa trẻ đó thông qua Tâm Vũ Trụ.
    2. Dải tần số riêng SYT của một dân tộc là hệ thống huyệt đạo của dân tộc đó!!! Tác động để dân tộc đó phát triển hay diệt vong đều phải tác động vào hệ thống huyệt đạo đó.





    CHƯƠNG 8
    PHÉP THIỀN-TOÁN VIỆT NAM


    Đạo Phật dạy các phật tử của mình cách ngồi Thiền rất hình thức, rất khó hiểu và khó thực hiện. Hoặc là các hòa thượng đó giấu kín các bí kíp để họ tu riêng cho mình hoặc họ chả hiểu gì về Thiền. Sau nhiều năm nghiền ngẫm tác giả đã tự mình xây dựng chặt chẽ phương pháp Thiền của riêng mình. Tác giả đã luyện tập theo phương pháp đó và ứng dụng nó vào đời sống rất hiệu quả. Tác giả tạm gọi là phép THIỀN-TOÁN VIỆT NAM viết tắt là TTVN.

    1.THIỀN LÀ GÌ ?
    Thiền là trạng thái tĩnh lặng, cân bằng và vô cùng hạnh phúc của tư duy khi đạt đến lân cận Ut(TVT) rất gần Tâm Vũ Trụ (tức Chân Lý Tối Thượng, Chúa Trời, Thượng Đế, Tạo Hóa, Trời, Tự Nhiên, Cõi Niết Bàn….).Trạng thái tĩnh lặng này là kết quả của một dao động tuần hoàn, cân bằng và có tần số cực, cực lớn của tư duy (Để dễ hiểu, ta hãy quan sát một con quay cân bằng và có tốc độ quay cực, cực lớn. Khi nó đạt tới tốc độ tối đa, ta thấy con quay như bất động, đứng im…) Khi đạt đến trạng thái Thiền, con người ta có nhưng khả năng phi thường về trí tuệ và thể chất. Lân cận Ut(TVT) càng nhỏ tức là càng gần Tâm Vũ Trụ thì khả năng kỳ diệu đó càng khủng khiếp như có thể chữa các bệnh nan y, có các phát minh vạch thời đại, có thể lái được một cơn bão, gây ra động đất thậm trí làm nổ tung Trái Đất...bằng chính sóng ý thức của mình….

    2. TẠI SAO ĐẠT ĐẾN MỨC THIỀN, CON NGƯỜI LẠI CÓ KHẢ NĂNG PHI THƯỜNG NHƯ THẾ ?
    Ta đã biết, Tâm Vũ Trụ chính là Thượng Đế, Chúa Trời, Chân Lý Tối Thượng …. và do đó Tâm Vũ Trụ có thể làm được mọi chuyện kể cả những việc siêu phàm, kinh khủng…. ngoài sự tưởng tượng của loài người. Tâm Vũ Trụ làm được như thế vì nó chứa toàn bộ Năng Lượng, Thông Tin, Ý Thức… của toàn bộ Vũ Trụ. Tuy nhiên Tâm Vũ Trụ chẳng qua là một chiếc máy tính chủ vĩ đại điều khiển toàn bộ Vũ Trụ….Khi đạt đến mức Thiền, thực chất là chúng ta đã đạt tới trình độ của các hacker, những người am hiểu sâu sắc Tâm Vũ Trụ, có khả năng truy nhập vào chiếc Máy Chủ Tâm Vũ Trụ Vĩ Đại đó để nắm một phần quyền điều hành trong vài tíc tắc…Trong vài tíc tắc đó hacker này có thể làm được những việc phi thường nhất như Thượng Đế có thể làm !
    Khi đạt đến mức Thiền, chúng ta có thể cảm thông đến chẩy nước mắt trước một nhành cây bị gẫy...lúc đó là lúc tâm trí ta tan hòa với Vũ Trụ.... bởi Tâm Vũ Trụ có trong mọi đối tượng... nhưng cũng chỉ trong một nano giây sau, tư duy của chúng ta lại tụ lại, nhọn hoắt như một mũi chủy có khả năng xuyên thủng mọi bức tường dù được xây bằng thép của Thượng Đế,... bởi Tâm Vũ Trụ là miền giao của mọi đối tượng....Cứ như thế, tư duy của chúng ta khi đạt đến mức Thiền là một dao động tuần hoàn có tần số cực, cực lớn...Lúc thì tụ lại nhọn hoắt ở lân cận Tâm Vũ Trụ, lúc thì hòa nhập đến tận cùng với từng đối tượng, dù đối tượng đó tầm thường nhất của Vũ Trụ...tức là lúc thì tụ lại tĩnh lặng ở Nội Hàm lúc thì tung hoành khắp nơi ở Ngoại Diên... Khi đạt đến mức Thiền, một người ngu xi nhất cũng trở thành một nhà bác học...Một kẻ giết người trước đây cũng trở thành Bồ Tát trong trạng thái Thiền...Trạng thái Thiền còn tác động đến gien di truyền của một con người và do đó Thiền làm thay đổi về chất của nòi giống....
    Tuy nhiên trạng thái Thiền kéo dài lâu hay chóng là tùy thuộc vào phương pháp tu luyện và bản năng gốc của người tu, nhưng bất kỳ ai có dòng máu Việt cũng có thể rèn luyện để đạt tới THIỀN theo phương pháp của tác giả được trình bầy dưới đây.
    Sở dĩ chỉ hạn chế ở con Lạc cháu Hồng vì Sóng ý thức (SYT) của Việt Nam chỉ bảo vệ được những người có tần số riêng của SYT phù hợp với người Kinh và 83 dân tộc trên đất nước Việt Nam.
    Bởi thế, tác giả không dám đảm bảo rằng những người không phải con Lạc cháu Hồng luyện theo TTVN là không bị điên hoặc đứt mạch máu não.
    3.LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐẠT TỚI MỨC THIỀN ? PHÉP THIỀN-TOÁN VIỆT NAM

    Thực chất của phép Thiền-Toán VN là tự mình đặt câu hỏi (bài toán) một cách hết sức tự do cho chính mình rồi bằng phép suy luận của Toán Học tự trả lời, lý giải hoặc chứng minh câu hỏi (bài toán) đó… rồi lại tiếp tục đặt câu hỏi cho chính câu trả lời vừa nhận được… rồi cố gắng trả lời…Cứ như thế cho đến kiệt cùng, đến lúc không thể hỏi hoặc trả lời được nữa…Khi đó đầu của chúng ta tĩnh lặng bởi chữ KHÔNG, lòng tràn ngập hạnh phúc của người khám phá, của nhà phát minh…chúng ta như những đứa trẻ vừa tự vẽ được một tác phẩm tuyệt vời cho chính mình….Đó là lúc chúng ta đã đạt tới một lân cận Un(TVT) nào đó của Tâm Vũ Trụ….Dù còn rất xa Tâm Vũ Trụ ….Hai điều tiên quyết ở đây là:
    1) Trả lời và đặt câu hỏi cần phải dựa chắc chắn vào logic Toán, một công cụ mà từ khi ra đời cho đến nay dã 21 nghìn năm mà chưa bao giờ bị đổ vỡ . (Nên nhớ rất khoát không dung logic biện chứng vì đây là liều thuốc giảm đau gây nghiện. Nó làm tê liệt dũng khí tiến tới CHÂN LÝ TUYỆT ĐỐI ) Điều này khiến chúng ta không bị lạc lối vì trong quá trình tự hỏi và trả lời đó có rất nhiều phương án, rất nhiều lối rẽ
    2) Chỉ tập Thiền khi lòng yêu nước Việt Nam (tức lòng yêu bố, mẹ, ông, bà, tổ tiên, lòng yêu những anh hùng liệt sỹ xả thân cho đất Việt, lòng yêu các Vua Hùng, lòng yêu núi sông của Tổ quốc….) làm chúng ta xúc động…Điều này sẽ giữ tư duy của chúng ta vững chắc khi kết thúc thời gian Thiền trở về thực tế mà không bị điên
    Ngày hôm sau, vào buổi Thiền chúng ta lại bắt đầu từ lân cận Un(TVT) của ngày hôm trước. Chúng ta sẽ dùng mọi khả năng có thể để tiêu diệt chân lý cuối cùng mà ngày hôm trước đạt được. Những gì còn lại mới là chân lý ở lân cận Un(TVT)…Cứ làm lại như thế để đạt tới lân cận Un-1(TVT) của Tâm Vũ Trụ… Sau một khoảng thời gian, cái dãy lân cận Un(TVT), Un-1(TVT), Un-2(TVT)…. đó sẽ hội tụ tới Tâm Vũ Trụ….
    Trong các buổi Thiền, trước hay sau chúng ta cũng sẽ động chạm tới Triết Học, Vũ Trụ Quan bởi thế để rút ngắn thời gian, chúng ta cố gắng đọc quyển Tâm Vũ Trụ của tác giả. Tác phẩm này là kết quả của hàng chục năm Thiền của tác giả và nó là những nguyên lý cho phép Thiền-Toán… Các bạn không được tin ai, tin bất cứ điều gì cho dù người ta bảo là lời của Chúa nếu chưa chứng minh được một cách chặt chẽ bằng Toán Học, công cụ duy nhất mà Thượng Đế ban tặng cho loài người để họ tìm thấy con đường đến với CHÂN LÝ TUYỆT ĐỐI mà không lạc lôi… Khẩu quyết của chúng ta trong giai đoạn đầu là:
    "Hướng Tâm Vũ Trụ tìm Chân Lý
    Mẹ Việt Nam luôn ở trong Tim
    Bằng logic Toán quyết tìm
    Trong Sóng Ý Thức niềm tin Vĩnh hằng"


    VÍ DỤ
    Đầu tiên các bạn đặt một câu hỏi rất bình thường:
    - Tại sao ta phải ăn?
    - Vì đói
    - Tại sao con người thấy đói?
    - Vì con người cần năng lượng
    - Năng lượng là gì?
    Cứ như thế đến một lúc nào đó các bạn không trả lời được nữa…khi đó bạn sẽ thấy đầu óc tĩnh lặng và lòng tràn ngập hạnh phúc… Đây cũng là phương pháp rèn luyện sự tập trung tư tưởng. Khi đạt tới lân cận rất gần Tâm Vũ Trụ, mỗi phút Thiền lúc đó bằng một ngày miệt mài học tập…bằng hàng trăm thang thuốc bổ…bằng cả một tháng tập thể dục… Chúng ta không cần chọn một địa điểm lý tưởng như một sơn động yên tĩnh, gần thác nước v.v…và cũng không cần ngồi theo tư thế thiền của đạo Phật. Các bạn có thể tập Thiền ở giữa chợ, các bạn có thể vừa đi vừa Thiền v.v…Cái đầu tự vấn đáp là quan trọng nhất
    Chúng ta phải cực kỳ TỰ TIN và TỰ DO…Chúng ta không được xem mình kém hơn A.Einstein, Hồ Chí Minh …. nhưng cũng không được xem mình giỏi hơn một bà quét rác!!!
    Chúng ta phải dũng cảm xét lại ngay cả các truyền thống đạo đức mà loài người coi là khuôn vàng thước ngọc xưa nay.
    Dám đánh đổ các thần tượng, phá tan các hệ trục tọa độ trong không gian Ý thức của loài người để vươn tới CHÂN LÝ TUYỆT ĐỐI (Tâm Vũ Trụ ) là mục đích của các buổi tập Thiền Toán Việt Nam
    *
    * *
    Ngoài thức ăn, nước uống, khí trời ra, mọi sinh vật sống được còn nhờ sóng ý thức (SYT) phát ra từ mọi đối tượng trong Vũ Trụ thông qua Tâm Vũ Trụ (chương 4). Chúng ta có thể nhịn thở được 3 phút nhưng không thể thiếu SYT trong 3 nano giây.
    Khi đạt trạng thái Thiền, đầu ta trống không. Đó chính là điều kiện để những SYT từ các nền Văn Minh ngoài Trái Đất mạnh tương đương hoặc mạnh hơn so với chân lý cuối cùng mà ta đạt được trong buổi Thiền tràn vào lấp đầy đầu ta….Đây là nguyên nhân gây ra niềm hạnh phúc, cảm nhận thây bản thân đầy sức mạnh và sẽ tác động đến gien di truyền của chúng ta Trong trạng thái Thiền chúng ta được giáo dục bởi các nền Văn minh mạnh hơn Trái Đất 10,100, 1000 thậm trí hàng tỷ lần.

    4. SƠ ĐỒ KHỐI CỦA PHÉP THIỀN TOÁN VIỆT NAM







    LỜI KẾT

    1
    Theo một lôgic, từ chương 1 đến chương 8 chúng ta đã lần lượt khẳng định: Tâm Vũ trụ chứa vận động, Tâm Vũ trụ chứa thời gian, Tâm Vũ trụ chứa thông tin, Tâm Vũ trụ chứa năng lượng và Tâm Vũ Trụ chứa Ý Thức, Tâm Vũ trụ chứa Vật Chất và Tâm Vũ trụ chứa Bản số. Chúng ta đã tách 7 thành tố trên thành 14 thành tố âm dương tương ứng với 14 cánh của ngôi sao trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Chúng ta đã bàn sơ bộ về lý thuyết huyệt đạo Đỗ Xuân Thọ, một lý thuyết có rất nhiều ứng dụng trong khoa học và đời sống .Bằng việc phát biểu 4 tiên đề, chứng minh hơn 50 định lý và một loạt các kết luận, bức tranh Vũ trụ hiện tồn của chúng ta đã được vẽ lên. Trong bức tranh đó, Tâm Vũ Trụ là tâm điểm của sự xem xét. Tâm Vũ Trụ là tồn tại và duy nhất, lung linh, huyền ảo. Nó chứa toàn bộ sức mạnh của Vũ trụ. Nó mang đến sự vận động, thông tin, năng lượng và ý thức cho mọi đối tượng trong Vũ Trụ một cách tức thời khiến cho ta tưởng rằng chúng là thuộc tính, cái “tự có” của các đối tượng trong Vũ Trụ.
    2
    Vì chúng ta, những con người trên trái đất, tại mọi thời khắc đều nhận được các sóng ý thức (SYT) từ vô vàn các nền văn minh ngoài trái đất và vì có các nền văn minh yếu hơn trái đất, có nền văn minh mạnh hơn trái đất nên trong mỗi chúng ta có cả cái ác và cái thiện, có cả sự ngu si và thông thái, có cả cái hèn đớn và sự cao thượng, có cả tình yêu và lòng căm thù v.v... Muốn hướng đến cái thiện, cái thông tuệ, cái cao thượng tình yêu và lòng vị tha v.v... thì phải hướng tới Tâm Vũ Trụ. Nơi đó hội tụ tất cả các chân lý vĩ đại, hội tụ tất cả trí tuệ của các nền văn minh! Nơi đó chứa toàn bộ thông tin, ý thức, năng lượng và có thể lượng hoá mọi đối tượng của Vũ Trụ!
    3
    Không nên sợ rằng chúng ta phát hiện ra nhiều thành tố tạo nên Tâm Vũ trụ sẽ mâu thuẫn với hai định lý Tâm Vũ trụ tồn tại và duy nhất. Đến một cấp độ nào đó, chúng ta lại lấy miền giao của các thành tố đó để tiến đến một lân cận gần Tâm Vũ trụ hơn.
    4
    Khát vọng cháy bỏng của chúng ta là mô phỏng số phận của dân tộc Việt Nam và cao hơn nữa là mô phỏng sự “làm việc” của Tâm Vũ Trụ bằng một chương trình máy tính để phục vụ cho việc dự báo với độ tin cậy cao…
    5
    Đối với bất cứ một học thuyết nào bao giờ cũng tồn tại một số hữu hạn các tiên đề. Hệ thống các tiên đề hữu hạn đó là hệ thống huyệt đạo của học thuyết đó. Để tiêu diệt một học thuyết hoặc phát triển nó thì cần tác động vào các tiên đề.
    6
    Những đứa trẻ của Việt Nam, đặc biệt là những đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ hoặc chưa đi học lớp một sẽ được cảm thụ hệ giáo dục của một nền văn minh  nào đó mạnh hơn rất rất nhiều lần Trái Đất. Bộ lọc sóng ý thức nhất định sẽ được “chế tạo” và những đứa trẻ Việt Nam sẽ là chủ nhân của một quốc gia hùng mạnh của hành tinh này!
    7
    Lung linh, huyền ảo và thiêng liêng như thế nhưng Tâm Vũ Trụ có trong mọi đối tượng nói chung và có trong mọi con người, mọi sinh linh nói riêng. Tâm Vũ Trụ ở ngay trong lòng ta, trong tâm trí ta và trong những thứ giản dị nhất.
    8
    Đối với Việt Nam, nếu “chế tạo” thành công bộ lọc SYT để lọc những sóng tức thời từ những nền văn minh mạnh hơn Trái Đất rất rất nhiều lần thì có nghĩa “biên giới” của Việt Nam là vô cùng vô tận.
    9
    Dải tần số riêng của sóng ý thức đối với một dân tộc là hệ thống huyệt đạo S của dân tộc đó! Tác động nào đó để dân tộc này phát triển hay diệt vong đều phải tác động vào hệ thống huyệt đạo S thông qua Tâm Vũ Trụ.
    Để một dân tộc bị diệt vong chỉ cần chặn SYT của quần tụ ý thức dân tộc đó tới Tâm Vũ Trụ trong vòng 4 nano giây.
    Để một dân tộc phát triển chỉ cần hướng SYT của Tâm Vũ Trụ khi nhận được SYT từ một nền văn minh mạnh hơn rất rất nhiều lần Trái đất vào hệ thống tần số riêng SYT của dân tộc đó và chặn các SYT từ các nền văn minh man rợ hơn trái đất rất nhiều lần...
    10
    Không có một cái gì giấu được Tâm Vũ Trụ dù điều bí mật đó có được chôn sâu trong lòng hay được giấu trong một két sắt chống bom nguyên tử ! Vì Tâm Vũ Trụ có trong mọi đối tượng nên về nguyên tắc tất cả những người dân tộc Kinh đều có thể khám phá những bí mật đó. Chúng ta không được sống đạo đức giả. Hãy sống như những đứa trẻ…
    11
    Về nguyên tắc tất cả chúng ta đều có thể trở thành A.Einstein, Ngô Bảo Châu, Gớt,v.v…Vì lý thuyết Tương Đối, các bài toán khó nhất của loài người, những vần thơ tuyệt vời trong Vũ Trụ đều có ít nhất một mối liên hệ với từng con người…
    12
    Những cái đầu thông minh nhất của loài người cũng mới chỉ tiếp cận được đến một lân cận nào đó của Tâm Vũ Trụ. Hiểu được Tâm Vũ Trụ là hiểu được cả Vũ Trụ. Nếu chúng ta nắm được quyền điều khiển của Tâm Vũ Trụ trong vài tích tắc thì trong vài tích tắc đó ta đã là Thượng Đế
    13
    Tại Tâm Vũ Trụ không có cái gì là ngẫu nhiên, may dủi, không có cái gì là tương đối v.v… Tất cả là chính xác hoàn toàn, tất cả là tuyệt đối đúng, tuyệt đối sai…Không có “đất” cho phép Biện Chứng, không có “đất” cho các học thuyết Tương Đối…Mọi cái đều được diễn đạt chính xác bằng chân lý Tuyệt Đối (Tâm Vũ Trụ)
    14
    Sự khác nhau căn bản giữa học thuyết Tâm Vũ Trụ của tác giả với các học thuyết còn lại của loài người trên Trái Đất là ở chỗ sau đây:
    Tác giả đã chứng minh chặt chẽ bằng toán học rằng có vô hạn các nền Văn minh ngoài Trái Đất; có vô hạn các nền văn minh man rợ hơn Trái Đất nhưng cũng có vô hạn các nền văn minh tiến bộ hơn Trái Đất. Hàng ngày, hàng giờ, hàng nano giây những nền văn minh đó vẫn lien hệ với nhau bằng sóng ý thức (SYT) một cách tức thời. Chúng ta có thể nhịn ăn được 1 tháng, nhịn uống được 3 ngày, nhịn thở được 3 phút nhưng không thể thiếu SYT trong vòng 3 nano giây!
    Nếu SYT của một người nào đó bắn vào được lân cận U8(TVT) thì đã làm rung chuyển cả vũ trụ V.
    Last edited by doxuantho; 26-12-2011 at 05:10 AM.

  19. #119

    Mặc định

    THƯ CỦA PGS.TS. PHẠM CÔNG HÀ NHẬN XÉT VỀ TÂM VŨ TRỤ

    Thân gửi chú Đỗ Xuân Thọ
    Tác giả “Tâm Vũ Trụ”!


    Có lẽ chú thấy buồn cười, vì thời đại tin học này mà vẫn có người viết trên giấy, vẫn có người chỉ hút thuốc lá Du lịch, chỉ thích uống dăm ba chén rượu trắng, xa lạ với đặc sản, “chân dài” và nhiều miền văn minh thời thượng. Anh thuộc lớp các đối tượng lạc hậu. Biết vậy, nhưng già rồi, chẳng theo làm gì cho mệt. Có một bài thơ khuyết danh mà anh đồng cảm, mượn nó để chia sẻ cùng chú:

    Trời buồn làm gì trời rầu rầu
    Anh yêu em xong anh đi đâu?
    Lắng tiếng gió suối thấy tiếng khóc
    Một bụng một dạ một nặng nhọc
    Ảo tưởng chỉ để khổ để tủi
    Nghĩ mãi gỡ mãi lỗi vẫn lỗi
    Thương thay cho em căm thay anh
    Tình hoài càng ngày càng tày đình.


    Bình thường thì tâm hồn anh phẳng lặng, cái đầu của anh chỉ chứa những tập trống. Nhưng khi có những thông tin mới thổi vào thì tất cả bừng tỉnh. Và nếu đó là những thông tin gây xốc thì tư duy của anh dễ bị xáo trộn. Những lúc đó nếu gõ vào bàn phím thì mười kí tự sẽ sai bốn, còn nếu viết bằng bút bi thì trang giấy sẽ bị toe toét vì các nét gạch xoá. Bởi vậy anh hay viết bằng bút chì. Tay phải cầm bút, tay trái cầm tẩy. Đọc lại mấy câu vừa viết, thấy từ nào hung hăng quá thì tẩy đi, thay từ khác nhẹ nhàng hơn. Cứ như thế, tâm hồn sẽ dần lắng xuống, cái đầu sẽ bớt nóng đi, cho đến khi ta cảm thấy hoàn toàn thanh thản, hoàn toàn tỉnh táo để có thể dẫn dắt nội dung tư duy của mình bằng những ngôn ngữ giản dị nhất, khiêm nhường nhất. Viết bằng bút chì âu cũng là một lối thiền mà anh đã chọn.
    Với bức thư này thì càng cần phải viết bằng bút chì bởi “Tâm Vũ Trụ” đã phủ lên anh một cơn bão. Trong khi đọc và ngay cả sau khi đọc, cơn bão lòng vẫn chưa lắng xuống. “Tâm Vũ Trụ” là một sự phá cách, một cuộc nổi loạn thật sự, một sự thách thức với lương tri truyền thống, khiến cho những cái đầu nền nã, mực thước phải hốt hoảng. Mấy hôm nay, anh không hiểu là mình điên hay tác giả Đỗ Xuân Thọ điên. Cõ lẽ cả hai cùng điên. Người nào đọc “Tâm Vũ Trụ” một cách nghiêm túc cũng sẽ thành điên.
    Với 22 khái niệm được trình bày dưới dạng định nghĩa, tác giả đã tung ra 42 “chưởng” - Định lý làm cho tạo hoá cũng phải quay cuồng. Thế rồi tất cả đều hướng vào một điểm sâu thẳm ở cõi hư vô: Tâm Vũ Trụ.
    Chú muốn anh có ý kiến phản biện cho công trình này, song điều đó vượt quá khả năng của anh. Một công trình khoa học công phu và nghiêm túc, được xây dựng và gọt rũa qua nhiều năm và đã đạt đến mức thâm hậu như “Tâm Vũ Trụ” thì những ý kiến hời hợt của anh không thể gọi là phản biện được. Hãy coi đây là những lời tâm sự của bạn đọc với Tác giả, như vậy sẽ đỡ cho anh trách nhiệm nặng nề.
    Nói đến Vũ trụ, người ta thường hình dung ngay đến Vũ Trụ vật lý thiên văn mà ở đó vật chất vận động theo các quy luật của vật lí cổ điển, cơ học lượng tử và thuyết tương đối của Enstein. Sự sống cũng được hình thành theo các quy luật vận động đó để tạo nên các phần tử xoắn AND mang các gen di truyền giúp cho nòi giống được kế tục. Người ta cũng đưa cả Ý thức vào vũ trụ này, song nó được mô tả một cách khiên cưỡng, mơ hồ, thiếu sức thuyết phục. Còn đối tượng Tâm linh thì tất cả các lí thuyết hiện tại đều bó tay. Ấy vậy mà Tác giả Đỗ Xuân Thọ đã thâu tóm toàn bộ các đối tượng (đã được quan sát và chưa hề được quan sát) vào cái túi càn khôn “Tâm Vũ Trụ” bằng một định nghĩa hiển nhiên đến bất ngờ:
    Tâm Vũ Trụ là miền giao của mọi đối tượng vũ trụ V - mà vũ trụ V là vô cùng theo mọi phương.
    Nói một cách khác: Trên đời chỉ có 7 cô gái, cả 7 cô này đều vòng tay quanh cổ anh Thọ. Lúc này cổ anh Thọ là miền giao của 7 cô gái, và đó cũng chính là Tâm Vũ Trụ.
    Ví von như vậy cho vui thôi, và cũng để dịu bớt đi sự cứng nhắc đến nghiêt ngã về cách trình bày trong cuốn sách, sự diễn đạt tối giản, dù là chặt chẽ, không phải lúc nào cũng có ích. Đối với máy tính, một thuật toán được thực hiện bởi một câu lệnh thì đương nhiên là tốt hơn trường hợp phải dùng nhiều câu lệnh. Song đối với con người (bạn đọc) thì lại là chuyện khác. Có một căn bệnh thông thường, các giáo sư cố gắng giải thích cho bệnh nhân một cách chính xác, khoa học, rằng đây là vấn đề chuyển hoá enzime, có liên quan đến hoóc môn tăng trưởng, rằng cần phải tiến hành xét nghiệm, phi lâm sàng hoặc cận lâm sàng, sau đó sử dụng lược đồ điều trị theo phương pháp bao vây… Dĩ nhiên là bệnh nhân khâm phục sự uyên bác của giáo sư, nhưng vấn đề là ở chỗ: không hiểu gì hết.
    Trở lại với “Tâm Vũ Trụ”. Nếu đây là một báo cáo khoa học, được trình bày trong một hội nghị chuyên đề thì hoàn toàn chấp nhận được. Còn nếu gọi đây là một cuốn sách khoa học thì chưa ổn. Mỗi khái niệm, mỗi ý tưởng trong công trình này là một vấn đề khổng lồ, vậy mà chú chỉ dành có vài dòng để diễn tả chúng. Dửng dưng, lạnh lùng, trần trụi, không trang điểm, không dẫn dắt… đâu phải là cách diễn đạt hay của một cuốn sách. Cụ Vichto Huygô không vội vàng lao ngay vào sự kiện chính. Cụ dẫn độc giả qua 3 chương thâm nhập vào thế giới của các chàng sinh viên, 5 chương vào thế giới của các tu sĩ bí ẩn, 7 chương vào trận đồ bát quái của thế giới cống ngầm Paris. Cứ như vậy Cụ dẫn độc giả vào tận cùng của thế giới cảm xúc. Vậy thì, chú hãy để cho các ý tưởng của “Tâm Vũ Trụ” tung hoành trong vài trăm trang giấy, may ra mới mô tả được một cách thuyết phục.
    Chú nói rằng, chú luôn kính trọng Enstein. Song có câu cung kính chẳng bằng phụng mệnh. Định lý 14 và 25 của chú đã không phụng mệnh Enstein, mà tôi thì rất tâm đắc với hai định lý này. Nếu đọc mạng thì chú sẽ biết: Cách đây vài tuần, trung tâm hạt nhân Genive đã công bố kết quả thí nghiệm mới nhất, đó là họ đã đo được vận tốc của hạt neutrino - vận tốc này lớn hơn vận tốc ánh sáng trong chân không. Mặc dù thí nghiệm này còn phải được lặp lại vài lần nữa, sau đó là hồi chuông báo hiệu sự sụp đổ của hệ thống lí thuyết vật lí hiện đại. Giới khoa học đang rất hoang mang, nhưng có sao đâu, không vì thế mà tôi bỗng nhiên trẻ ra và chú lập tức già đi. Các đối tượng vẫn vận động theo quy luật của chúng, không thể bắt chúng vận động theo các định luật của con người đặt ra (còn lâu các Định luật đó mới đạt tới màu xanh của cây đời).
    Trong công trình khoa học này, chú đã chỉ ra rằng, Tâm Vũ Trụ chứa 7 thành tố với hai miền âm và dương của mỗi thành tố. Điều này rất có đạo lí, bởi ngay thế giới vật chất cũng có phản vật chất, trong đó phản electron đã được tìm thấy từ lâu. Song với 14 thành tố đó liệu đã bao toàn bộ các đối tượng chưa? Anh nghĩ là chưa. Dứt khoát là còn một thành tố nữa, đó là: “và những thành tố khác”.
    Vài năm trước, có lần đang làm việc thì hết thuốc lá. Anh đưa tiền bảo thằng con ra quán cô Hậu mua cho bố bao Du lịch. Một lúc sau nó mang tiền về và bảo bố rằng quán cô Hậu không có thuốc Du lịch. Anh quát lên, rằng sao không sang quán chú Bình bên cạnh mà mua. Nó cuống lên lao ra cửa, rồi bỗng dừng lại, hỏi: Thế nếu quán chú Bình không có thì sao?Anh ngớ người ra, và lúc này mới thấy mình ngu. Đã ngu thì phải sửa, anh liền bảo nó: “Nếu quán chú Bình không có thì con đi quanh mấy quán trong xóm. Nếu mấy quán trong xóm không có… thì thôi”. Đành phải kể ra tập đầy đủ các khả năng, nếu không có nó sẽ đi khắp Hà Nội, khắp Việt Nam để tìm cho ra bao Du lịch - mà chắc gì đã tìm thấy.
    Khi lập trình cho máy tính (thứ máy ngu nhất trong các loại máy) cũng thường gặp những trường hợp như vậy: có muôn vàn khả năng có thể xảy ra mà ta không biết được tường tận các khả năng đó, trong khi ta chỉ quan tâm đến khả năng A và khả năng B. Lúc này ta phải dạy cho máy: Nếu gặp khả năng A thì phải quyết thế này, gặp khả năng B thì xử lí thế kia, còn nếu gặp các khả năng khác A và B thì bỏ qua. Chính cái mệnh đề sau cùng đã cho thấy người lập trình ít ngu hơn máy tính, thậm chí là thầy của máy tính. Tôi nghĩ, chú nên bổ sung thêm một thành tố nữa - thành tố phần bù của 14 thành tố đã chỉ ra, có như vậy mới thấu tình, đạt lí. Đạo Cơ đốc có một câu rất hay, nó bao toàn bộ các đối tượng trên đời (nếu hiểu kĩ): “Cha và Con và Thánh thần”. Cha và Con thì rõ rồi, có thể kể mãi về các mối quan hệ của hai đối tượng này, kể cả ngày không hết. Nhưng đến cụm từ “và Thánh Thần” thì khỏi phải kể nữa, bởi vì đó là tất cả những gì còn lại mà chưa nói đến. Cả câu đó chứa đựng tập đầy đủ các biến cố. Vậy chú đừng cứng nhắc với 14 thành tố, nếu nghĩ ra thì bổ sung tiếp, nếu thấy không cần thiết thì khoá nó lại bằng một phần bù.
    Chú coi Toán học như một vật mang tin, một phương tiện chuyên chở tư tưởng triết học của chú, điều đó rất hay. Song cách diễn đạt trong “Tâm Vũ Trụ” thì không hẳn như vậy. Tác giả đã coi toán học là cái gương thần để phản ánh toàn cảnh vũ trụ. Ngay cả quy luật phổ quát nhất của Vũ Trụ là tính không ngừng vận động cũng được Tác giả phát biểu dưới dạng Tiên đề. Tại sao lại là Tiên đề. Đã có ai quan sát được một đối tượng ở trạng thái Dừng chưa, vận động là muôn thuở, là chân lí tối thượng. Gọi Nó là định luật thì đã là một sự khinh suất, còn gọi Nó là Tiên đề thì quả là một sự bỡn cợt. Tôi hiểu ý chú, rằng chú muốn phát biểu một cách chặt chẽ theo khuôn mẫu và ngôn ngữ toán học. Phải, Toán học là một công cụ thông minh, chặt chẽ, mực thước. Nhưng đừng quên rằng Toán học nghiên cứu các đối tượng đã được tuyệt đối hoá trên cơ sở suy ra từ một hữu hạn các đối tượng mơ hồ. Tất cả các khái niệm đều phải được Định nghĩa một cách chặt chẽ bằng cách sử dụng các khái niệm đã được định nghĩa trước đó. Thế nhưng các khái niệm sơ cấp như điểm - đường thẳng - mặt phẳng - số 1… thì không định nghĩa (chỉ mô tả thôi)! Đặc biệt, nền móng của Toán học là những Tiên đề - đó là những mối liên hệ không bao giờ kiểm chứng được. Bởi vậy mới có tình trạng tồn tại 2-3 tiên đề khác nhau mô tả cùng một đối tượng các Tiên đề khác nhau thì đặt nền móng cho các luật chơi khác nhau. Cái khôn ngoan, uyển chuyển của Toán học là thế.
    Vận động là một thuộc tính của tất cả mọi đối tượng, cần gì phải phát biểu dưới dạng Tiên đề. Nếu coi thuộc tính đó như nội dung của Tiên đề thì đã hạ thấp giá trị cao cả của “Tâm Vũ Trụ”.
    Nhân thể anh cũng muốn dãi bày tâm sự với chú một tí. Để mô tả một hiện tượng nào đó, con người sử dụng rất nhiều công cụ (ngôn ngữ), trong đó Toán học chỉ là một. Vật lí học nhìn nhận cơn mưa Xuân theo một kiểu, hội hoạ và âm nhạc lại đánh giá nó theo một cách khác, các nhà thơ diễn đạt hiện tượng này lại theo nhiều ý tưởng khác nữa. Tất cả các công cụ đó (và những công cụ khác nữa) cũng chỉ tái tạo một phần hiện tượng khách quan, chỉ có điều càng sử dụng nhiều công cụ thì chúng ta càng tiến gần hơn đến chân lí.
    Đọc “Tâm Vũ Trụ”, anh liên tục tự tranh luận với chính bản thân mình. Nhưng với chú, anh chỉ tâm sự thôi.
    Điều anh trăn trở nhất là: “Tâm Vũ Trụ” hơi bị cực đoa, cực đoan đến mức không còn các hiện tượng vận động có thời gian. Tất cả đều thông qua Tâm Vũ Trụ với vận tốc vô hạn. Chú đã chỉ ra rằng, Tâm Vũ Trụ là miền giao của mọi đối tượng, nhất trí. Nhưng điều đó chứng tỏ là chú công nhận các đối tượng đều có phần bù của chúng. Vậy tại sao chú lại bác bỏ mối liên hệ trực tiếp giữa các phần bù với nhau? Đây là mối liên hệ phổ biến mà trong thực tiễn chúng ta luôn chứng kiến, và chỉ mới đạt đến trình độ chứng kiến được mối liên hệ này. Miền giao giữa tôi và cốc bia ở đâu thì không biết, nhưng rõ ràng là phần bù của tôi đang uống phần bù của cốc bia với thời gian vài phút. Sự tương tác này là có thật, thời gian tương tác là có thật. Ấy nên tôi cứ tự băn khoăn mãi. Nhưng không sao, anh sẽ hồi tâm, sẽ từ từ đọc lại tác phẩm của chú, có lẽ rồi sẽ ngộ ra.
    Thiền, phải rồi, cần phải thiền. Đây là một ý tưởng của chú mà anh rất tâm đắc. Mọi thông tin được nén lại thành một điểm cực nhỏ, não bộ thành một tập trống. Giai đoạn kết thúc là các thông tin nở ra lấp đầy các ô nhớ, nhưng các thông tin lúc này mang một sinh khí mới, một trật tự mới, khiến cho não bộ xử lý nó theo chiều hướng tỉnh táo hơn trước khi thiền. Anh nghĩ rằng một cái đầu rỗng tuếch mà thiền thì chẳng có ý nghĩa gì. Ngược lại, thiền với một cái đầu đầy ắp thông tin thì tác dụng rất lớn.
    Lại có một bài thơ khuyết danh mà người ta gán cho nhân vật trong bài thơ này là kẻ an phận thủ thường, mũ ni che tai. Nhưng đọc kĩ thì anh thấy không phải như vậy, đây chỉ là một cách thiền đơn giản nhất. Ngủ theo bản năng sinh lí thì không phải là thiền, sang ngủ cưỡng bức để tạm dẹp sang một bên những nỗi niềm đang ngổn ngang bừa bộn thì đó là thiền. Chú xem có phải không nhé:

    Tai nghe gà gáy tẻ tè te
    Bóng Ác vừa lên hé hẻ he
    Non một chồng cao von vót vót
    Hoa năm sắc nở loé loè loe.
    Chim tình bầu bạn kia kìa kỉa
    Ơn nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè
    Danh lợi mặc người ti tị tí
    Ngủ trưa chửa dậy khoẻ khoè khoe.

    Những âm thanh và cảnh sắc ban mai tươi đẹp, những hẹn hò, mặc cả, ganh tị nhí nhố của cuộc đời… anh chàng này biết cả, nhưng anh ta biết xua chúng ra khỏi bộ nhớ để chìm vào giấc ngủ muộn. Chắc chắn sau khi ngủ dậy, anh ta sẽ cảm nhận lại những thông tin đó một cách thấm đượm hơn. Tôi không thiền được theo những cách cao siêu, nhưng thiền kiểu đó thì làm được.
    Muốn viết nữa cho chú nhưng tư duy đã bắt đầu tản mạn. Nói chuyện với khách, nghe điện thoại, tưới cây, tắt bếp để nồi canh khỏi trào và trăm thứ lặt vặt khác luôn ngắt dòng suy nghĩ. Hồi còn trẻ, anh vớ được một cuốn sách gồm các bức thư mẫu với nhiều thể loại khác nhau. Muốn gửi thư cho ai đó về một lĩnh vực nào đó thì chọn bức thư mẫu tương ứng mà chép sang. Nhờ vậy mà tiết kiệm được rất nhiều thời gian, công sức và đặc biệt là che dấu sự kém cỏi của mình về môn văn. Trước khi viết bức thư này cho chú, anh cũng lục tìm xem có bản mẫu nào dùng được không, nhưng không có, đành tự nghĩ ra vậy. Tuy nhiên, anh vẫn còn nhớ một đoạn mẫu khi kết thúc bức thư (phần kết thúc không dễ đâu), anh mượn nó để khoá bức thư này lại:
    {* Viết đến đây thì mực đã cạn, bút đã mòn mà lòng anh vẫn tràn trề lai láng. Anh đành nhờ gió chuyển đến em lời thầm thì: “Anh yêu em!”*}.
    Chúc chú vạn sự may mắn. Chúc “Tâm Vũ Trụ” tiếp tục được hoàn thiện và sớm ra mắt bạn đọc.
    Chào thân ái!
    Hà Nội ngày 17 tháng 12 năm 2011


    Phạm Công Hà (đã ký)

  20. #120

    Mặc định

    Tôi xin đăng tại đây nhận xét của TS. Đỗ Đức Hạnh về quyển Tâm Vũ Trụ của tôi

    Nhận xét kết quả nghiên cứu
    ĐỘC GIẢ DẤU TÊN.

    Trong cuốn Tâm Vũ Trụ, có các kết quả chính sau:
    Chương 1
    Định lý 1: Vấn đề là mối liên hệ như thế nào, vì nói giữa hai đối tượng có ít nhất là liên h ệ
    “thuộc cùng vũ trụ” thì hoàn to n vô nghĩa. Định lý này không th c sự có ý nghĩa.
    Sau khi khẳng định “Từ nay, khi nói đến một đối tượng ta phải hiểu nó cùng với tập hợp các mối liên hệ của nó với các đối tượng khác.
    Đôi khi để nhấn mạnh ta sẽ gọi là đối tượng đầy đủ.“ thì trong tất cả những đ cập sau cần phải ghi rõ, nếu kh ông
    người đọc sẽ hiểu đối tượng là đối tượng KHÔNG đầy đủ. [1]
    Định Lý 2: tác giả đã nhầm lẫn nghiêm trọng khi cho rằng, tồn tạ i một hệ tọa độ cũng như sai
    lầm cho rằng, khi tồn tại một h tọa độ thì vũ trụ sẽ trở th ành vô hạn. Đồng thời tác giả n hầm
    lẫn nghiêm trọng về khái niệm “v ô hạn”, vì sẽ hoàn toàn là vô nghĩa khi nói về vô hạn mà không
    đề cập đến khái niệm metric.
    Ví dụ: xét đường tròn bán kính 1 ,
    Ta có thể dễ dàng xây dựng đượ c phép nhúng đường thẳng thực R v ào vòng tròn này, cái tạo
    thành một hệ tọa độ địa phươn g như tác giả đã chứng minh.
    Ví dụ 2: trong không gian của cơ h c lượng tử, KHÔNG bao giờ tồn t ại một hệ tọa độ địa
    phương và các trục Ox.. Tác giả ng hiễm nhiên giả sử sự tồn tại n ày, đồng nghĩa với việc bác bỏ
    hoàn toàn tất cả các kết quả c a cơ học lượng tử đã được ki ểm định thực tế.
    Một lý thuyết bất kỳ trước hết phải phù hợp với thực tế trư c khi được công nhận.
    Định lý 3:hiển nhiên.
    Định nghĩa 2: kết quả này hoàn to àn không rõ rang, khi không đề cập đối tượng ở đây là đầy đủ
    hay đối tượng không đầy đủ. Xem [1].
    Nếu như là đối tượng không đầy đủ, thì két quả này sai hoàn to n. Nếu là đối tượng đầy đủ thì
    toàn bộ phải được viết lại đ bảo đảm tính thống nhất.
    Định lý 5, 6: hiển nhiên.
    Kể cả như vậy, Định Lý 4,5,6 n ày có thể tóm gọn bằng 1 câu: tồn tại một quy luật bao hàm sự
    vận động của mọi vật trong Vũ t rụ”, một kết quả đã biết cách đây 2000 năm, gọi là Đạo. Quy
    luật đó được nghiên cứu trong Kin h Dịch đã từ lâu, Dịch có nghĩa là biến động.

    Định nghĩa của tác giả về thời gian rất không rõ rang, sai về bản chất. Có thể hiểu, tác giả đề cập
    đến thời gian như một dạng tiên đề KHÔNG chứng minh mà chỉ có th mô tả nó thông qua
    “trình tự, độ dài sự kiện”… Tuy nhiên, đây là định nghĩa kiểu vòng tròn “con gà là cái nở ra quả
    trứng, quả trứng sinh ra con gà”.
    Kể cả khi tạm thời bỏ qua định nghĩa này, thì cũng chỉ suy ra đư ợc “tồn tại một quy luật bao
    hàm sự vận động của mọi vật t rong Vũ trụ, nhưng không thể gọi t ên nên tạm gọi là Đạo”, vì
    vận động thì phải có thời gian t hì khái niệm vận động mới có ý nghĩa.
    Định lý 8: Hiển nhiên. Nó chỉ là một dạng của “mọi sự việc, h iện tượng trên đời đều có sinh có
    diệt, diệt rồi lại sinh”.
    Định lý 9: Đây là cái kết quả đã biết trong tu đạo.
    Tổng kết lại, toàn bộ chương 1 c hỉ cần nói một câu duy nhất: “t ồn tại một quy luật bao hàm sự
    vận động của mọi vật trong Vũ t rụ, nhưng không thể gọi tên đượ c gọi là Đạo”. Cái này trùng
    với kết quả của Lão Tử:
    http://nhantu.net/TonGiao/DaoDucKinh/DaoDucKinh.htm
    1. Đạo chính là Tuyệt đối, là Bản thể thường hằng cửu vũ trụ. Vì Tuyệt đối, nên Đạo khó bàn cãi, khó xưng danh.
    2. Đạo chính là nguồn gốc sinh xuất vũ trụ quần sinh. 3. Đạo có thể ở vào một trong hai trạng thái: tĩnh và động. Tĩnh là
    trạng thái chưa hiển dương. Động là trạng thái đã hiển dương. Chưa hiển dương thời minh linh, ảo diệu, không biết đâu
    là bến bờ. Đã hiển dương, thời mới thấy công trình vân vi, giới hạn. 4. Nhưng hiển dương hay không hiển dương, vẫn
    chỉ là một đạo thể siêu vi. Danh hiệu tuy khác nhau nhưng tựu trung vẫn là một thực thể. Đạo thể siêu vi ấy là cửa
    thiêng sinh xuất ra mọi điều huyền vi ảo diệu. 5. Quan niệm của các nhà bình giải về chữ Đạo: Các nhà bình giải và các
    dịch giả Âu châu thường hiểu Đạo là Nguyên lý vũ trụ. Wieger dịch Đạo là Principe (Nguyên lý). A. Rémusat dịch Đạo là
    Logos (Thần ngôn). Stanislas Julien dịch Đạo là La Voie (Đường). P. B. Blakney dịch Đạo là The Way (Đường). Các
    dịch giả người Đức dịch Đạo là Weg (Đường), Vernunft (Lý), Wort (Logos, Thần ngôn), Wahrheit (Chân lý). A. W. Watts
    dịch Đạo là Réalité ultime (Thực thể tối hậu). Trong bản dịch Đạo Đức Kinh đầu tiên ra tiếng Latinh chữ Đạo đã được
    dịch là: Lý; Nguyên lý; Tạo hóa. [3] A. Rémusat, giáo sư Hoa ngữ ở Đại học Paris, dịch giả Đạo đức kinh, cho rằng chỉ
    có thể dịch chữ Đạo bằng chữ Logos với nghĩa là Nguyên thể, Nguyên lý, Nguyên âm. [4] Hardwick, giáo sư đại học
    Cambridge, cho rằng chữ Đạo phải được hiểu là Nguyên nhân trừu tượng, là Nguyên lý, Nguyên sinh vô hình, vô tượng,
    vô thủy vô chung, vô biên tế, v.v. [5] Các nhà bình giải Đạo đức kinh, Hoa hay Việt cũng đều giải Đạo là Nguyên lý tối
    cao, là nguồn gốc sinh ra trời đất vạn vật, là Thái cực, v.v.


    Chương 2

    Định nghĩa 3: Thông tin là tập hợp tất cả các” mối liên hệ” từ A vào B.
    Tuy nhiên, định nghĩa này hoàn toàn không rõ ràng.
    Định lý 10: Có thể phát biểu “tất cả các mối liên hệ giữa tất cả các đối tượng trong vũ trụ
    cũng biến dịch, tuân theo các quy luật của Dịch”.
    Định lý 11: Mối quan hệ giữa các đối tượng bất kỳ cũng tuân theo các nguyên tắc của Đạo.
    Định lý 12: Đạo đứng đằng sau tất cả các mối quan hệ của mọi đối tượng trong vũ trụ.
    Định lý 13: Định lý sai. Rất có thể tại thời điểm t0 đó mối liên hệ này thể hiện thông tin trước đó
    thì sao?
    Định lý 14: Hiển nhiên, đây là điều đã biết từ lâu.
    Toàn bộ chương này có thể tóm gọn: tất cả các mối liên hệ giữa tất cả các đối tượng trong vũ
    trụ cũng biến dịch, tuân theo các quy luật của Dịch”.
    Chương 3
    Định nghĩa 4: Tác giả đưa ra định nghĩa mới về năng lượng nhưng không có nghĩa đó là khái
    niệm năng lượng quen biết. Cụ thể hơn, không thể đưa ra khái niệm “công suất của sự biến đổi
    tình yêu” là bao nhiêu W. Vì vậy, tôi xin phép dùng từ NL thay cho Năng Lượng tác giả dùng vì
    rất có thể gây ra nhầm lẫn.
    Định lý 15: theo đúng khái niệm NL, thì A chứa năng lượng không có nghĩa là tâm vũ trụ chứa
    năng lượng. Lý do đơn giản, tâm vũ trụ là duy nhất, vậy nếu như tâm vũ trụ biến đổi thì nó
    không còn là duy nhất nữa. Nên do đó tâm vũ trụ phải là bất biến. Định lý này sai.
    Định lý 15:Sự vận động của mối quan hệ của các đối tượng bất kỳ cũng tuân theo các quy luật
    của Đạo.
    Đây là cái quen biết.
    Ví dụ điển hình: quan hệ giữa giai cấp thống trị và bị trị còn được gọi là mâu thuẫn xã hội. Chính
    sự biến đổi, lên xuống của mâu thuẫn xã hội (mối quan hệ này) cũng tuân theo quy luật dịch lý.
    Hệ quả của nó, đấu tranh xã hội cũng tăng giảm, và khi đạt đến cực điểm thì sẽ hình thành đấu
    tranh giai cấp.
    Định lý 18: sai cùng lý do với đ nh lý 13.


    Chương 4
    Định nghĩa 5:Đối tượng hữu hình= vật chất. Tuy nhiên, khái niệm nà y mâu thuẫn với cơ học
    lượng tử, vì trong cơ lượng tử không phải đối tượng vật chất n ào cũng có kích thước.
    Kích thước tức là tồn tại ánh x ạ không tầm thường từ một không gian nào đó vào đường thẳng
    thực R. Tuy nhiên, không phải lúc n o ánh xạ này cũng tồn tại theo n ghĩa cổ điển.
    Ví dụ: electron có thể ở cùng nhi u vị trí trong không gian với các xác suất khác nhau. Vậy
    khoảng cách giữa 2 electron là bao nh iêu? Và do đó kích thước nguyên t /bán kính của các
    orbital bằng bao nhiêu?
    Định nghĩa 6: Đối tượng vô hình= ý thức.
    Định lý 19: phải chứng minh được rằng NL của vật chất và ý thứ c có cùng một bản chất, cùng
    một đơn vị đo và có thể chuyển hóa qua lại.
    Định lý 20: tóm gọn lại: Ý thức cũng biến đổi theo quy luật của Đạo.
    Định lý 21:mọi vật trong vũ trụ đều có phần vật chất và ý thứ c.
    ĐL 22: hiển nhiên. Mọi mối liên h ý thức đều biến đổi theo Dị ch.
    ĐL 23: có thể nói đơn giản, mọi phần ý thức của mọi vật đều biến dịch.
    ĐL 26: có thể nói đơn giản, vậ t chất luôn biến đổi.
    Phần chú ý:khái niệm “gần tâm v trụ hơn” có thể nói đơn giản “hiểu về Đạo, về Dịch hơn”.
    Định lý 28, 29: hiển nhiên.
    Định lý cầu được ước thấy 30: Chuyện gì xảy ra nếu như tập A và tập B có số lượng phần tử
    khác nhau?
    " Mọi sự tưởng tượng của chúng ta dù điên rồ đến đâu bao giờ cũng tồn tại một thực tế thực
    trong vũ trụ vật chất đúng như ta tưởng tượng"
    Kết quả này sai. Định lý 30 chỉ chứng tỏ sự tồn tại của một song ánh nối A và B, nhưng không ch ng tỏ
    sự tồn tại của một đẳng cấu bảo toàn cấu trúc đưa A sang B. N n toàn bộ kết quả trang 61 là sai .
    Từ đây, suy ra định lý 31 cũng sa i.
    Định nghĩa 40: bản số không thể lấy giá trị âm, cũng như không nh t thiết lấy giá trị trên R.
    Toàn bộ chương 6: kết quả hoàn to àn vô nghĩa, do tác giả không đ nh nghĩa rõ khái niệm
    “hướng về tâm vũ trụ” “hướn g ra xa tâm vũ trụ” nghĩa là gì. Khái niệm này chỉ có nghĩa khi ta
    xét không gian 1 chiều. còn nếu khô ng gian có nhiều hơn 1 chiều thì n trở thành vô nghĩa.
    Chương 7
    Định nghĩa 41:vô nghĩa, khi tác gi không định nghĩa khái niệm “tá c động nhỏ”, “tác động lớn”
    nghĩa là gì. Nhỏ hay lớn tùy thuộ c vào quan điểm, và rõ ràng là ph thuộc vào metric mà ta xét.
    Ví dụ: một ít thuốc chuột trong l y cà phê là chuyện lớn.
    Định lý 51: Có thể nói đơn giản : quy luật biến động của mọi đ i tượng trong vũ trụ nắm vai trò
    quan trọng nhất để điều khiển đ ối tượng đó.
    Định lý 57: kết quả này không đ ợc chứng minh một cách “dễ dàng ” như tác giả đề cập. Hoàn
    toàn không hiển nhiên khi chứng minh điều này.
    Ví dụ, người ta có thể phát biể u:”Huyệt đạo của mọi ý thức c a một quốc gia nào đó chính là
    chủ tịch nước”. Chỉ cần chủ tịch nước bị ung thư/ ám sát là cả quốc gia lao đao.
    Chương 8
    Khái niệm Thiền của tác giả trùng với khái niệm “tu Đạo”, “hi u Dịch Lý” trong tôn giáo.

    Tài liệu tham khảo:
    Đạo Đức Kinh:
    Có một vật hỗn độn mà thành tr ớc cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không t hay đổi vĩnh cửu,
    vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó nó là mẹ của vạ n vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì,
    tạm đặt tên cho nó là đạo.
    Đạo trời không tranh mà khéo thắng , không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô tâm mà
    khéo mưu tính mọi việc. Lưới trờ i lồng lộng, thưa mà khó lọt.
    Lời nói chân thật thì không hoa m , lời nói hoa mĩ thì không chân th ật. Người thiện thì không cần ph i biện giải [vì
    hành vi tốt rồi], người nào phải biện giải cho m nh là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là
    người không biết.
    Người ta sinh ra thì mềm yếu mà k hi chết thì cứng đơ. Thảo mộc si nh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô
    cứng.
    Cho nên cứng mạnh là cùng loài vớ i chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây
    cứng thì bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại đư c ở trên.
    Mạnh mẽ về dám làm [tức quả cảm, cương cường] thì chết, mạnh mẽ về không dám làm [tức thận trọng, nhu
    nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạ nh mẽ, mà một cái thì được lợi , một cái lại bị hại; ai mà bi t được tại sao trời
    lại ghét cái đó [quả cảm, cương cường]?
    Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì khó tin được, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ g ặp nhiều cái khó.
    Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặ p cái gì khó.Cái có từ cái không mà ra. Không có
    nghĩa là không có gì cả nhưng phả i có cái gì thì mới có cái không có.
    Cái gì an định thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán . Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa m anh nha, trị loạn từ
    khi chưa thành hình.
    Cây lớn một ôm, khởi sinh từ mộ t cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu
    từ một bước chân.
    Người ta làm việc , thường gần t ới lúc thành công thì lại thất b i, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như
    trước thì không hỏng việc.
    Người hiểu đạo trị thiên hạ the o chính sách vô vi, giữ thái độ iềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như c i lớn, cái ít như
    nhiều, lấy đức báo oán. Giải quy t việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên
    hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn k hởi từ nhỏ]. Cho nên thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện ược
    việc lớn.
    Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhâ n nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi m i có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ,
    nước nhà rối loạn rồi mới có t ôi trung.
    Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, c oi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên
    không có tình thương của con người , cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...].
    Khoảng giữa trời đất như cái ốn g hơi; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càn g nói nhiều lại
    càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.
    Muốn cho vật gì thu rút lại thì t ất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã.
    Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà
    sáng suốt. Vì nhu nhược thắng đư c cương cường.
    Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ng ũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruỗi ngựa săn
    bắn làm cho lòng người ta mê muội , vàng bạc làm cho hành vi người t a đồi bại. Cho nên bậc đắc đạ o cầu no bụng
    mà ko cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, v ô dục. Bậc đắc đạo bận áo v i thô mà ôm ngọc quý
    trong lòng.
    Trời đất trường cửu. Sở dĩ tr i đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
    Vì vậy thánh nhân [người đắc đạo] đặt thân mình ở sau mà thân lạ i được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân
    mới còn được. Như vậy chẳng ph i vì thánh nhân không tự tư mà th ành được việc riêng của mình ư ?
    Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không g p thời thì mặc áo vải thô mà đ i chân đất.
    Không trọng người hiền để dân kh ông tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gì gợi
    ham muốn, để lòng dân không loạn.
    Chính trị của thánh nhân là làm ch o dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì n o, không ham muốn, không tranh giành, xương
    cốt thì mạnh.
    Khiến cho dân không biết, không muố n mà bọn mưu trí thì không dám hà nh động. Theo chính sách vô vi thì mọi
    việc đều trị.
    Không học thì không phải lo. Càng t heo học thì mỗi ngày dục vọng, "h ữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗ i ngày dục
    vọng càng giảm, vô vi càng tăng.
    Ta có ba vật báu mà ta ôm giữ c n thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước
    thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũ ng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra su ng túc, rộng rãi, vì không dám đứ ng trước thiên
    hạ mà làm chủ được thiên hạ.
    Nếu không nhân ái mà mong được d ng cảm, không tiết kiệm mà mong đ ược rộng rãi, không chịu đứng sa u mà
    tranh đứng trước người thì tất h ỏng việc. Trời muốn cứu ai thì c ho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng
    nhân ái mà giúp người đó.
    Người sáng suốt nghe đạo thì gắn g sức mà thi hành, người bình thư ng nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ , người tăm
    tối nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là ạo nữa ?
    Nước là vật cực mềm mà lại th ng được vật cực cứng là đá [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực kì mềm mại, nó
    luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì
    thành sông rạch, thấm vào lòng đấ t để nuôi vạn vật. Tự nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không
    tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tớ i, gặp cái gì cản thì nó uốn kh c mà tránh đi, cho nên đâu nó cũn g tới được.
    Vật gì bén nhọn thì dễ gẫy. Rán g giữ cho chậu đầy hoài, chẳng b ng thôi đi; con dao cố mài cho bén nhọn thì lại
    không bén lâu.
    Vàng ngọc đầy nhà, làm sao mà gi nổi ? Giàu sang mà kiêu căng là tự rước họa vào thân.
    Ba mươi nan hoa cùng qui vào 1 cái b ánh, nhưng chính nhờ khoảng trống k hông trong cái bánh mà xe mới dùng
    được. Nhồi đất sét để làm ché n bát, nhưng chính nhờ cái khoảng t rống không ở trong mà chén bát mớ i dùng được.
    Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, c hính nhờ cái trống không đó mà nh à mới dùng được.
    Vậy ta tưởng cái "có" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "kh ng" mới làm cho cái "có" hữu ích.
    Người đời được vinh hay bị nhụ c thì lòng sinh ra rối loạn, sợ v lớn thì sinh ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục thì lại sinh
    ra rối loạn ? Là vì vinh thì đư c tôn, nhục thì bị hèn; được th ì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu
    rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục si nh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có
    cái thân. Nếu chúng ta quên cái thâ n mình đi, thì còn sợ gì lòng sinh ra rối loạn nữa ?!
    Cho nên kẻ nào coi trọng sự hy sin h thân mình cho thiên hạ, thì có th ể tin cậy vào kẻ đó được.
    Ai có thể đang đục mà lắng xuốn g để từ từ trong ra ? Ai có thể đang hư tĩnh mà phát động để l ần lần sinh động lên
    ? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua
    cái cũ mà chấp nhận cái mới đư c.
    Kẻ đứng 1 chân thì không thể đ ng được lâu, kẻ xoạc chân ra th không thể đi được, kẻ tự bi u hiện mình thì
    không bao giờ chói lọi, kẻ tự k công thì không có công, kẻ tự p hụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm
    chân thì không trường cửu. Thái đ đó được ví như đồ ăn thừa, những ung nhọt ai ai cũng ghét.
    Ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đ mà phát sinh ra quan niệm cái xấu ; ai cũng cho cái thiện là thiện do đó mà phát
    sinh ra quan niệm về cái ác. Tại s ao con người thích cái đẹp mà lạ i không thích cái xấu ? Là vì "có" và "không" sinh
    ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau m tồn tại ...
    Kẻ biết người là người khôn, k tự biết mình là người sáng su t. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được
    mình là kiên cường. Kẻ biết thế nào là đủ là người giàu; kẻ g ng sức là người có chí. Kẻ nào ko rời bỏ những điều
    trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ.
    Hồn nhiên, vô tư, vô dục như đứ a trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý, muốn đạt như vậy không phải là dễ.
    Đứa trẻ mới sinh độc trùng ko ch ích, mãnh thú không ăn thịt, ác đi ểu ko vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất
    chặt, suốt ngày gào hét mà giọng ko khản, như vậy là khí cực hòa.
    Dứt thánh hiền, bỏ mưu trí dân l i gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, d ân lại hiếu từ; dứt trí xảo b lợi, không có trộm
    giặc.
    Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, x o lợi) vì là cái văn vẻ bề ngo ài không đủ để trị dân nên ph i bỏ; khiến cho dân
    quy về điều này: ngoài thì mộc m c, trong thì giữ sự giản phác, gi ảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.
    Dạ (giọng kính trọng) khác với ơi (giọng xem thường) bao nhiêu ? Thi n với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi
    người sợ ta không thể không không sợ. Việc học rộng lớn thay, khôn g sao hết được.
    Mọi người hớn hở như hường bữ a tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như
    đứa trẻ chưa biết cười, rũ rư i mà đi như không có nhà để về . Mọi người có thừa, riêng ta như thiếu thốn, lòng ta
    ngu muội, đần độn thay ! Mọi ngư ời đều có chỗ để dùng, riêng t a ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta kh c người mà quý
    mẹ của muôn loài (tức đạo)
    Vạn vật tuần hoàn, âm cực dương sinh, lúc sinh lúc tử, trăng tròn tr ăng khuyết. Vạn vật biến đổi r i trở lại cái bản
    thể của nó (trở về với đạo). Từ xưa đến nay, đạo tồn tại ho ài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được
    bản chất vạn vật ? Đó là do đ o.
    Thánh nhân ôm giữ lấy đạo làm ph ép tắc cho thiên hạ. Không tự bi u hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là
    phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Chỉ vì không
    tranh với ai nên không ai tranh với mình được.
    Người xưa bảo: "Cong (chịu khuất p hục) thì sẽ được bảo toàn", đâ u phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo
    mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt
    chước tự nhiên.
    Ít nói thì hợp với đạo. Cho nên gió lốc không thể thổi suốt buổ i sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những
    cái ấy? Chính là do trời đất. Tr i đất còn không thể lâu được, huống hồ là con người ?
    Vì binh khí là vật bất tường (ch ng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên người giữ đạo không dùng bi nh khí. Bất đắc
    dĩ phải dùng đến nó, mà dùng đ n thì điềm đạm là hơn cả. Thắ ng cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là
    thích giết người. Kẻ nào thích gi t người thì không trị được thi n hạ.
    Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hạ i nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến
    thắng thì nên lấy tang lễ mà xử.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 162
    Bài mới gởi: 24-06-2012, 10:16 PM
  2. Nhà khoa học NASA tìm thấy sự sống trong vũ trụ
    By TNDVN in forum Sưu Tập Khác...
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 09-03-2011, 02:17 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •