kết quả từ 1 tới 18 trên 18

Ðề tài: Pháp Thiền Trong Du Già của Mật Tông

  1. #1

    Mặc định Pháp Thiền Trong Du Già của Mật Tông

    Xin các bạn nào biết pháp thiền Du Già chỉ cho mình được không ???
    Mình đang muốn tìm hiểu về pháp này.

    Xin Chân thành cảm ơn!!!

  2. #2

    Mặc định

    Kính mong các bạn chỉ cho mình???

  3. #3
    Đai Nâu Avatar của soul_master
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Sen Hồng Tám Cánh
    Bài gởi
    353

    Mặc định

    Ảnh Hưởng Của Du-Già Hành Tông trong Mật Tông Tây Tạng
    Ven. Traleg Rinpoche

    Nhuận Châu dịch
    PB Nghiên Cứu Phật Học
    Số 2 - Mùa Xuân 2005

    I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA DU-GIÀ HÀNH TÔNG TRONG PHÁP MÔN ĐẠI THỦ ẤN
    Chúng ta sẽ nói đến sự quan hệ của triết học Du-già hành tông với Mật tông Tây Tạng. Người ta thường không để ý đến sự ảnh hưởng của triết học Du-già hành tông trong Mật tông Tây Tạng và sự phát triển của nó, mặc dù nó quá rõ ràng trong các kinh văn Mật tông Tây Tạng, nhưng nó vẫn chưa được hiểu một cách mạch lạc, rõ ràng. Các bạn có thể phát hiện ra thêm nhiều khái niệm khác nhau được đề cập trong kinh văn Mật giáo khi dõi ngược lại triết học Du-già hành tông.
    Triết học Du-già hành tông tự nó phát triển như là một phản ứng chống lại sự lập ra quá nhiều lý thuyết. Trở thành sự nhấn mạnh kinh nghiệm tu tập cá nhân, do vì tên gọi Yogācāra, có nghĩa là người tu tập Du-già (Yoga). Du-già (Yoga) ở đây không có nghĩa là uốn mình trên những ngón chân, mà là thiền định. Thế nên Yogācāra - người theo Du-già hành tông, có nghĩa là Thiền giả. Du-già hành tông như là một hệ thống tư tưởng được hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân phát triển. Hai vị xiển dương tư tưởng nầy theo cách mà mọi điều đều quay trở về lại với sự tu tập và thực chứng của chính mình. Bạn không thể nào tạo ra các lý thuyết về Du-già hành tông mà không thực hành. Thực vậy, bạn không thể nào là một hành giả của Du-già hành tông trừ phi bạn thực hành thiền định. Khi các bạn nghiên cứu các kinh văn của tư tưởng Du-già hành tông, sẽ thấy được rất nhiều ý niệm về Mật tông được trình bày trong đó, hoặc ẩn mật hoặc công truyền.
    Chắc chắn có những khái niệm cốt lõi mà tư tưởng Du-già hành tông và Mật tông Tây Tạng cùng chia sẻ với nhau, như khái niệm chuyển hóa tâm bất an, không lành mạnh của chính mình sang trạng thái an lạc hơn. Nói cách khác, mọi cảm xúc tiêu cực như đam mê, giận dữ, vô minh, đần độn, mê mờ, bất cứ điều gì như vậy cần phải được loại trừ, nhưng chỉ bằng cách chuyển hóa nó. Bản chất tâm lý của một người hình thành vốn không thay đổi, nhưng cách biểu hiện những cảm xúc tiêu cực lại hoàn toàn khác nhau. Đây là một ý niệm quan trọng của Mật tông, phần nhiều các bạn có lẽ đã biết. Chữa trị chứng loạn thần kinh chức năng và những xúc cảm bất đồng là phần rất lớn trong Mật tông; không những loại trừ những gì đang làm các bạn phiền muộn, mà còn học cách chấp nhận và chuyển hóa chúng. Thực vậy, các bạn có thể lần theo những ý niệm nầy để về tận cội nguồn tư tưởng Du-già hành tông.
    II. BẢN TÁNH GIÁC NGỘ CỦA HỮU TÌNH
    Ý niệm thứ hai lại là một điều rất quan trọng chung cho tư tưởng Du-già hành tông và Mật tông Tây Tạng, là nhấn mạnh vào bản tánh giác ngộ của con người. Các hệ phái Du-già hành tông và Mật tông đều nhấn mạnh sự thực là mỗi một con người đều vốn đã giác ngộ. Vô minh và mê muội chỉ là yếu tố phụ hoặc ngẫu nhiên, tự trong bản chất con người chẳng có chút nào yếu tố tiêu cực đó. Thực vậy, bản tánh con người vốn hoàn toàn giác ngộ sáng suốt. Không một cảm xúc tiêu cực lay động. Dù thế lực tiêu cực như thế nào đi nữa, cũng không thể làm giảm đi tánh thông tuệ nội tại căn bản. Bản tánh giác ngộ sáng suốt ấy, trong kinh văn Du-già hành tông gọi là Như Lai tạng. Như Lai tạng thực sự có nghĩa là bào thai giác ngộ. Bản tánh giác ngộ hiện hữu như một tiềm năng, như bào thai tiềm chứa sinh thể. Mọi người ai cũng có Như Lai tạng, bào thai của giác ngộ. Nói chung, Như Lai tạng được hiểu là Phật tánh.
    Phật tánh thực sự là một ý niệm của Du-già hành tông. Phật tử có khuynh hướng đồng nhất ý niệm Phật tánh với tư tưởng Đại thừa nói chung, nhưng điều ấy không hẳn. Không phải các tông phái Đại thừa đều có chung ý niệm nầy. Trung quán tông chẳng hạn, hoàn toàn khước từ ý niệm Như Lai tạng, vì đối với họ, Như Lai tạng vẫn chỉ là khái niệm. Các nhà Trung quán khước từ mọi ý niệm siêu hình. Vì đối với họ, Như Lai tạng, như họ phát biểu, được đức Phật chỉ dạy cho hàng sơ phát tâm, nên dần dần, họ sẽ nhận ra thực tế. Trung quán sẽ là câu trả lời. Thế nên, đó chính là một pháp hành sinh động, một món ăn đầu tiên, trong khi tiến trình chính vẫn chưa được biểu hiện. Mật tông vận dụng ý niệm Như Lai tạng, nhưng được biểu hiện qua nhiều cách khác nhau được gọi là ‘Cực quang tâm thức–clear light’ hay bằng nhiều thuật ngữ khác. ‘Cực quang tâm thức–clear light’ đặc biệt chưa phải là thuật ngữ được phiên dịch chính xác. Thuật ngữ Tây Tạng là ‘od gsal’. Nó có cùng ý nghĩa với Như Lai tạng. Các bạn cũng có thể có được ý tưởng căn bản về bản chất bất biến của con người. Đây là một khía cạnh chúng ta sẽ tìm hiểu để thâm nhập.
    III. Ý NIỆM VỀ TÁNH KHÔNG
    Tư tưởng quan trọng tiếp theo là ý niệm về śūnyatā, có nghĩa là Không. Śūnyatā, thông thường có một ý nghĩa phủ định, có nghĩa là không có sự hiện hữu trên cơ sở tự tính của các pháp hoặc là không có tự thể riêng biệt. Sự vắng mặt một thể tính như vậy được gọi là Không. Trong tư tưởng Du-già hành tông, ý niệm về Không mở đầu cho sự thừa nhận một ý niệm tích cực. Điều nầy cũng rất chân thực như trong Mật tông. Ý niệm Không không còn được xem là hoàn toàn phủ nhận thể tính của các pháp. Thực ra, ý niệm về Không mở ra sự công nhận vai trò của hiện thể một tính chất nền tảng và tuyệt đối, để qua đó thế giới hiện tượng vận hành và tồn tại. Điều ấy rất thú vị, vì thông thường, nếu các bạn phủ nhận điều gì, thì đó là sự kết thúc của điều ấy. Trong tư tưởng Du-già hành tông và Mật tông, chính phủ định tự nó trở thành sự xác định cho cái mà ta không tiếp cận được một cách bình thường. Đó là thực tế mà chúng ta có thể nhận thức được và quy hướng, không phải bằng phương tiện tri thức mà thông qua một dạng trí huệ bậc cao. Khi các bạn bắt đầu chuyển hóa những ý tưởng phủ định trong mình thành xác định, tích cực và cao hơn, thì khi các bạn thăng hoa, các bạn cũng bắt đầu nhận ra thực tại hoặc Không theo cách chính xác nhất.
    Trong Mật tông, Tánh Không còn được gọi là Kim cương bất động . Nó hoàn toàn chân thật và vững chãi khiến chúng ta không thể nào phủ nhận sự hiện hữu của nó được. Diễn tả ý niệm nầy trong thuật ngữ nghiêm túc của các nhà Trung quán thì sẽ gây cho bạn sự sửng sốt. Khi chiếc ghế mà bạn đang ngồi và ly nước bạn đang uống không có tự thể, thì Tánh Không, vốn là cái mà bạn không thấy được, làm sao lại bền vững và chắc thật hơn những gì chúng ta đang kinh nghiệm được ngay lúc nầy? Hành giả Mật tông và Du-già hành tông hầu như trong phương pháp, làm cho ý niệm Tánh không trở nên có thực chất sống động hơn. Nó trở thành nền tảng hay thực tại nhờ vào những gì thế giới hiện tượng hoặc thế giới tương quan đang hiện hữu.
    IV. SỰ TẠO TÁC CỦA TÂM
    Khái niệm chúng ta sẽ thảo luận sau cùng là sự nhấn mạnh của cả hai trường phái vào sự vận hành của tâm. Hành giả Mật tông và Du-già hành tông không suy luận về thế giới. Họ giảm trừ cả chủ thể lẫn đối tượng trong sự vận hành của tâm. Sự hiểu biết về thế giới hiện tượng của chúng ta là do tâm. Bất luận chúng ta kinh nghiệm được điều gì, theo ý nghĩa nhị nguyên chủ thể và đối tượng, ấy là do tâm. Thế nên, tâm là nguồn gốc mà từ đó mọi việc phát sinh. Cả hai tông phái đều có chung quan niệm nầy, đều cho rằng không những tâm chỉ tạo ra chủ thể và đối tượng, mà còn tạo ra luân hồi sinh tử và Niết-bàn. Giác ngộ giải thoát, sự thành tựu đạt được cũng do tâm, và bị trói buộc trong luân hồi sinh tử cũng do tâm. Bất luận bị ràng buộc hay giải thoát, cũng đều do sự tạo tác của tâm. Giải thoát chỉ có thể đạt được bằng cách chuyển hóa những tiêu cực trong tâm sang trạng thái tích cực hơn bất luận trạng thái ấy như thế nào.
    Trong phạm vi đề cập đến Mật tông, chúng ta sẽ không đề cập nhiều đến dạng Mật tông hình thái thấp, vì đó chỉ là những nghi tiết hơn là tư tưởng. Những gì chúng ta đang thảo luận là ý niệm triết học, không phải là cách làm thế nào để thổi kèn trumpet hoặc thở bằng mũi. Chúng ta sẽ không đi vào lĩnh vực nầy và cũng sẽ không đề cập về linh kiến–visualizations. Chủ yếu chúng ta sẽ đề cập đến một dạng Mật tông cao nhất, đó là Vô thượng Du-già Tan-tra (s: anuttarayoga-tantra), vốn có liên quan đến Đại thủ ấn. Thế nên, chúng ta sẽ so sánh và đối chiếu giáo lý Đại thủ ấn với tư tưởng Du-già hành tông, ảnh hưởng nội tại lẫn nhau như thế nào qua nội dung cuộc trao đổi dưới đây.
    VI. THẢO LUẬN CỦA TRALEG RINPOCHE CÙNG NHÀ SỬ HỌC (DAVID) VÀ MỘT TIẾN SĨ TRIẾT HỌC (Dr. R)
    Vấn đề: Triết học Du-già hành tông đã ra đời và phát triển trong thời kỳ lịch sử nào?
    Traleg Rinpoche: Theo quan điểm của nhà sử học, David, ông hiểu như thế nào về vấn đề nầy?
    David: Triết học Du-già hành tông đã ra đời trong thế kỷ thứ II và phát triển cho đến giữa thế kỷ thứ V. Sau đó, nó đạt đến sự nảy nở toàn diện nhất. Dr.R: Về niên đại theo lịch sử Ấn Độ thường có sự lẫn lộn, người ta khó có thể xác định được ngày tháng chính xác. Với kinh điển Phật giáo, chẳng hạn, niên đại chính xác có được là thông qua các bản dịch tiếng Hán, vì chúng ta biết người Trung Hoa rất giỏi về việc ghi chép. Nếu chúng ta có được một bản dịch của một bộ kinh đặc biệt nào đó có ghi ngày tháng được phiên dịch hẳn hoi, thì chúng ta biết được ngay bộ kinh đã được lưu hành trước ngày tháng đó, nhưng đôi khi rất khó.

    Traleg Rinpoche: Đúng vậy! Ngay cả họ còn không biết chắc là có một hay nhiều Thế Thân. Nhưng trong một ý nghĩa nào đó, những chuyện nầy đều là thứ yếu. Vấn đề niên đại rất đáng quan tâm, nhất là đối với người Ấn Độ và Tây Tạng. Ngay cả tôi cũng không biết tôi sinh ra khi nào, và nay tôi vẫn còn đang sống đây!

    Vấn đề: Xin Ngài nói về sự bừng chiếu của tuệ giác trong sự tương quan của Phật tánh.
    Traleg Rinpoche: Sự khác nhau không phải ở bản chất mà về mặt ngữ nghĩa. Dù ông có gọi nó là sự bừng chiếu của tuệ giác hoặc là Phật tánh cũng chẳng có gì khác cả. Nó vẫn chỉ cho một vấn đề như nhau.
    Vấn đề: Khi hành giả nhận ra Phật tánh, có phải sự bừng chiếu của tuệ giác ấy tỏa sáng từ bản tâm?
    Traleg Rinpoche: Đúng vậy! Cả hai ý niệm đều chỉ cho bản chất tri giác hoặc thực chất của sự tỉnh giác. Bất luận ông muốn gọi như thế nào, miễn là không bị sai lạc do sự bất ổn thần kinh hoặc cảm xúc của mình.
    Vấn đề: Sự bừng chiếu của tuệ giác và niềm an lạc có khác nhau không?

    Traleg Rinpoche: Không! Niềm an lạc có được do nhờ sự bừng chiếu của tuệ giác.

    Vấn đề: Du-già hành tông thường được xem là học thuyết Duy tâm, có nghĩa là ngoài tâm chẳng có gì khác?

    Traleg Rinpoche: Cái duy nhất hiện hữu ngoài tâm chính là thực tại, chúng ta có thể nhập vào đó được. Thực tại không thể nào bị điều kiện hóa bởi tâm. Thực tại là thực tại. Nếu thực tại có thể được điều kiện hóa bởi tâm thì nó sẽ không còn là thực tại nữa, vì mỗi lúc tâm trạng của mình đều thay đổi, thực tại cũng sẽ biến dịch. Các nhà Du-già hành tông cho rằng cả chủ thể lẫn khách thể đều là sản phẩm của tâm, nhưng điều ấy không nhất thiết có nghĩa là cái ghế cái bàn đều nằm trong đầu quý vị. Chính chúng ta dựng nên kinh nghiệm của mình về thế giới. Chúng ta không cảm nhận được thế giới như nó đang hiện hữu, chúng ta chỉ biết thế giới theo cách chúng ta muốn kinh nghiệm về nó. Đó là lý do tại sao nói rằng cả chủ thể lẫn khách thể đều là sản phẩm của tâm. Chúng ta khó nhận thức được thực tại, vì tâm ta liên tục dựng lên nhiều cấu trúc quan niệm về thế giới. Do những đặc tính chung nhất định, mà người ta sống chung trong một thế giới, nhưng những cảm nhận của mỗi con người về thế giới ấy thì hoàn toàn khác nhau.
    Vấn đề: Xin Ngài cho biết tâm trong tiếng Tây Tạng và Sanskrit là gì, và thuật ngữ ấy chính xác nên được dịch như thế nào? Dường như tâm là một thuật ngữ rất khó hiểu?
    Traleg Rinpoche: Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này. Tâm mà các nhà Du-già hành tông và Mật tông đề cập đến không phải là tâm thường nghiệm của chúng ta. Tâm thường nghiệm của chúng ta hằng ngày cảm nhận những điều nhất thời, theo chiều tương tục của các ý tưởng diễn ra thay đổi nối tiếp nhau trong từng khoảnh khắc, rồi làm cơ sở cho mỗi ý tưởng và hình ảnh tiếp diễn nhau. Có cái gì đó vượt ra ngoài những cảm nhận qua ý tưởng và hình ảnh nhất thời. Thuật ngữ tiếng Sanskrit cho tâm nầy có lẽ là manas, phải không ngài Tiến sĩ?

    Dr. R: Thật ra có hai thuật ngữ manas và citta. Tôi cho rằng cả hai đều giống nhau về bản chất.
    Traleg Rinpoche: Trong tiếng Tây Tạng, từ sems nyid thường được dùng để chỉ rõ cho tâm làm nền tảng cho cả khách thể lẫn chủ thể nhận thức khác với tâm thường nghiệm, vốn được gọi là sems. Như vậy, sems và sems nyid là hoàn toàn khác nhau. Đặc biệt trong pháp Đại thủ ấn (s: mahamudra), điều này được phân biệt rất rõ ràng.

    Vấn đề: Xin Ngài phân tích thuật ngữ tantra và đặt thuật ngữ ấy vào trong sự tương quan với phạm trù tư tưởng Phật học nói chung.
    Traleg Rinpoche: Tantra trong tiếng Tây Tạng được gọi là rgyud, có nghĩa là tính liên tục. Trong ngữ cảnh nầy, có nghĩa là bạn không thể nào gán bất kỳ ngày giờ cho sự khởi đầu hoặc kết thúc cho tantra. Kinh nghiệm về tantra là thường hằng, liên tục. Bạn không thể nào nói được khi nào nó khởi đầu và lúc nào nó kết thúc. Đó là trạng thái thường xuyên liên tục. Đó là nghĩa của thuật ngữ rgyud. Nó còn được gọi là Kim cương thừa. Tantra là một thuật ngữ được cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều sử dụng. Kim cương thừa có nghĩa là tiến trình tu tập hoàn toàn không bị lay động, thối chuyển. Lại nữa, Tantra là một tiến trình hơn là kết quả có được từ tu đạo, đó là một cuộc hành trình không bao giờ gián đoạn.
    Vấn đề: Phật tánh có giống như ý niệm Ātman trong hệ thống tư tưởng Ấn Độ giáo không?
    Traleg Rinpoche: Có sự khác nhau. Phật tánh là một phạm trù triết học, và còn là một kinh nghiệm thực chứng, tôi tin chắc như vậy; nhưng Phật tánh không phải là cái gì cụ thể, như Ātman. Phật tánh không phải là một thực thể, trong khi Ātman lại là một thực thể. Ātman là cái mà quý vị sở hữu, cho nên quý vị phải chịu luân hồi sinh tử. Cá nhân của quý vị bị liên kết bởi ý niệm về Ātman. Điều ấy không có nghĩa là nhờ vào đó mà quý vị biết mình là ai, vì điều biết được ấy là nhờ vào Phật tánh. Ātman không giúp cho quý vị biết được kiếp trước mình đã sống như thế nào, mà biết được điều ấy là nhờ vào Phật tánh. Phật tánh chính là điều kiện cơ bản để đạt được chứng ngộ. Tánh của muối là hòa tan, nhưng tánh ấy không phải là thực thể tách rời hẳn đồng loại mà có. Phật tánh không phải là một thực thể mà quý vị tìm kiếm ra được. Phật tánh vốn là một tiềm năng hay là một trạng thái mà quý vị có sẵn trong mình rồi.
    Vấn đề: Xin Ngài kể cho chúng tôi về ngài Vô Trước và Thế Thân, các Ngài đã phát triển hệ thống Du-già hành tông như thế nào?

    Traleg Rinpoche: Theo truyền thống, tiểu sử của ngài Vô Trước thì khác thường như tiểu sử của nhiều bậc Tổ sư Phật giáo khác. Khi Phật giáo đang vào thời kỳ suy thoái ở Ấn Độ, một nữ Phật tử rất lo lắng chuyện nầy nên kết hôn với một vị vương tử để thụ sinh ngài Vô Trước. Sau đó, cô ta lấy một người Bà-la-môn để sinh ra ngài Thế Thân. Tất cả việc cô làm chỉ vì một bản nguyện là giữ gìn Phật pháp, quý vị nên lưu ý như vậy. Từ thơ ấu, Vô Trước đã có tinh thần hộ trì Phật pháp, Ngài quyết định xuất gia và sau nầy đã trở thành khuôn mặt quen thuộc của truyền thống Đại thừa. Ngài được bẩm thụ tư tưởng Trung quán. Theo sử liệu truyền thống, ban đầu Thế Thân theo Tiểu thừa cho đến khi ngài Vô Trước thức tỉnh và chuyển hóa Ngài về với Đại thừa. Ngài Vô Trước có duyên với ngài Di-lặc, sức lôi cuốn mạnh đến mức thôi thúc ngài đến ngồi thiền trong một hang núi. Ngài ước nguyện sẽ ngồi thiền để có thể gặp được ngài Di-lặc trong định, nhưng không thấy gì cả. Ngài ngồi thiền trong hang đá suốt ba năm và cuối cùng bị bệnh.
    Ngài rời hang đá trở về nhà. Ngài gặp một người đang chùi một thanh sắt thật lớn. Ngài Vô Trước hỏi: “Ông đang làm gì vậy?”. Người ấy đáp: “Đang tìm cách làm thành cây kim.” Vô Trước nghĩ: “Cái gì! Làm thành kim từ cây sắt khổng lồ nầy? Ta phải thật kiên nhẫn.” Thế rồi Ngài trở lại hang núi và ngồi thiền suốt thêm ba năm nữa. Rồi Ngài lại bị bệnh vì thất vọng, không thấy điều gì xảy ra cả, Ngài trở về nhà. Trên đường, Ngài thấy khát, định xuống dòng suối ven đường để uống nước, thấy từng giọt nước rơi xuống đã làm nên một lỗ thật lớn trên tảng đá. Ngài nghĩ: “Ngay cả một giọt nước mềm yếu nầy mà cũng làm nên việc lớn, ta phải hết sức kiên nhẫn.” Rồi Ngài trở lại hang đá, cuối cùng Ngài lại thất vọng và lê bước về nhà. Trên đường Ngài vấp phải con chó lở loét, đầy giòi bọ trên thân đang nằm chờ chết bên đường. Quá xúc động, Ngài cắt một miếng thịt trên đùi mình ném cho chó. Ngài bắt đầu dùng lưỡi liếm bắt từng con giòi đem đặt vào miếng thịt để cho chúng khỏi bị chết. Đột nhiên, Bồ-tát Di-lặc liền hiện ra trước mặt ngài Vô Trước.
    Ngài quá mê mải vào việc mình đang làm nên không để ý đến, nhưng khi nhìn kỹ, đúng thật là Bồ-tát Di-lặc. Ngài Vô Trước gieo mình xuống đất đảnh lễ. Ngài thưa: “Tại sao từ trước đến nay Ngài không hiện ra cho con thấy?” Bồ-tát Di-lặc trả lời: “Vì lòng từ của con chưa được thấm nhuần.” Thì ra là như vậy. “Nay lòng từ trong con đã chín muồi nên ta đến với con.” Rồi câu chuyện được tiếp tục, Bồ-tát Di-lặc dạy cho Ngài năm bộ luận, đó là năm bộ luận chính của tư tưởng Du-già hành tông. Vốn ngài Vô Trước được truyền dạy từ Bồ-tát Di-lặc, nên tác giả của các bộ luận ấy là ngài Di-lặc đúng hơn là ngài Vô Trước. Sau khi được truyền thụ, ngài Vô Trước xiển dương học thuyết nầy cùng với sự cộng tác của Thế Thân, cả hai đã trứ tác nhiều tác phẩm. Nhưng riêng A-tì-đạt-ma tập luận (s: abhidharma-samuccaya) không phải là tác phẩm của Bồ-tát Di-lặc, luận nầy do chính ngài Vô Trước trứ tác.
    Vấn đề: Xin Ngài nói kỹ hơn về Tánh không.

    Traleg Rinpoche: Tánh không, theo các nhà Du-già hành tông và Kim cương thừa (tantra) có nghĩa là Tánh không của cả chủ thể lẫn khách thể (năng và sở). Không chỉ có nghĩa tánh không là không của chính nó. Thế nên thường nói: “Tánh không là không có tự tánh riêng. Nó không phải là điều gì chắc thật.” Theo các nhà Du-già hành tông và Kim cương thừa, Tánh không là cái gì đó rất viên mãn, nếu như quý vị muốn như vậy. Tánh không là cái gì đó rất khẳng định. Nó là nền tảng thực tại cung ứng cho thế giới hiện tượng. Thế giới hiện tượng sẽ không vận hành nếu không nhờ vào Tánh không. Chúng ta phải đi sâu vào vấn đề nầy trong từng phạm trù riêng của nó, nếu không quý vị sẽ bị lúng túng.
    Vấn đề: Câu chuyện Ngài kể về Bồ-tát Di-lặc thật là kỳ diệu. Chúng ta nên hiểu câu chuyện nầy theo cách như thế nào?

    Traleg Rinpoche: Những câu chuyện cổ xưa, về mặt lịch sử, có khi chẳng có gì hấp dẫn, nhưng với quan điểm của người hành trì, nó có ý nghĩa rất quan trọng. Những câu chuyện kỳ diệu nầy không phải được kể ra chỉ để giải trí, nhưng để giúp cho quý vị khởi phát tín tâm. Đọc mẩu truyện trên, bất luận dù thế nào, quý vị hãy đặt mình vào trong chánh niệm, để có thể khai mở được ngay yếu lý. Nếu không, điều kì diệu sẽ không xảy ra. Đó là lí do tiểu sử mang chất huyền bí. Ngay cả hầu hết người Tây Tạng, tôi chắc vậy, cũng khó tin rằng những chuyện nầy thực sự đã xảy ra. Những chuyện nầy có ý nghĩa rất quan trọng từ cách nhìn của hành giả, vì quý vị bắt đầu nhận ra tầm mức quan trọng của tính kiên nhẫn và sự quan trọng khi phát khởi tâm từ, như thế là quý vị hiểu được yếu lý. Điều ấy sẽ khiến cho quý vị phát tâm.
    Vấn đề: Quan niệm về thời gian và không gian như thế nào theo tư tưởng Phật giáo?

    Traleg Rinpoche: Phật giáo quan niệm rằng thời gian và không gian có tính tương quan. Tùy theo ý niệm của quý vị về thời gian và không gian như thế nào. Sẽ không hoàn toàn tuyệt đối, theo từng tầng bực như vậy. Cái hiểu về ý niệm thời gian trong dòng cảm nhận từ quá khứ, hiện tại, tương lai là không đúng. Theo cách nào đó, thời gian là vòng tròn, chớ không phải là đường thẳng. Ý niệm tuyệt đối về thời gian thực sự siêu việt mọi khái niệm. Thời gian tương đối (relative time) thích nghi hay tùy thuộc vào khái niệm của chúng ta về thời gian như thế nào, trong khi thời gian tuyệt đối (absolute time) là điều ta không thể nào tưởng tượng ra được. Ngay cả không thể nào gọi nó là tồn tại hay không tồn tại.
    Vấn đề: Tại sao Ngài chọn đề tài nầy?

    Traleg Rinpoche: Chủ yếu là vì Phật tử phương Tây, đặc biệt là các sinh viên khoa Phật giáo Tây Tạng vốn chưa biết nhiều về Du-già hành tông và Phật giáo Kim cương thừa. Phần đông các sinh viên đã quen thuộc với hệ thống Trung quán. Đó là pháp môn ưu thế để hành trì. Chưa có sự quan tâm đầy đủ thực sự cho đề tài nầy. Cũng vậy, không chỉ triết học Du-già hành tông hoặc Kim cương thừa đã bị lãng quên, mà thực tế là về sự tương quan với nhau của hai môn nầy hoặc vì sao mà các nhà Du-già hành tông thực sự thâm nhập trước những ý niệm thuộc Kim cương thừa. Người ta không biết nhiều về sự vay mượn của Kim cương thừa từ Du-già hành tông. Đây là cảm nhận của riêng tôi. Nhưng, có lẽ tôi cũng không đúng.

    D.T: Trong sự liên hệ với quan niệm của Ngài về tiền thân của Kim cương thừa, thưa Ngài, tôi nghĩ rằng điều ấy rất quan trọng và đã khiến cho tôi rất chú ý. Niên đại về Kim cương thừa rất khó xác định. Kim cương thừa khởi nguyên như thế nào, chấm dứt ở đâu, phát triển ở đâu? Thừa nhận chung là vào thế kỷ thứ 6-7, trong ánh sáng của thời đại mà chúng ta đang nói đến, thời kỳ của ngài Vô Trước và Thế Thân, điều nầy rất quan trọng. Mặc dù Kim cương thừa được xem là do đức Phật truyền lại, nhưng cũng có những cuộc tranh luận, có ý kiến cho rằng Kim cương thừa kế thừa rất lớn tư tưởng Du-già hành tông, vốn được đánh giá ra đời trước Kim cương thừa vài thế kỷ.

    Traleg Rinpoche: Đúng như vậy! Người ta đã khẳng định, hơn là chứng minh rằng Kim cương thừa được truyền dạy bởi chính đức Phật chứ không xem đó như một dạng tôn giáo địa phương ảnh hưởng vào Phật giáo Mật tông. Có người cho rằng có thể một dạng tôn giáo địa phương Ấn Độ dần dần ảnh hưởng vào Phật giáo nên Kim cương thừa phát triển từ đây, nhưng họ chưa thực sự tìm ra khả tính của một trường phái Phật giáo đã có ảnh hưởng khiến phát sinh ra một trường phái Phật giáo khác. Tôi chắc rằng có nhiều ảnh hưởng bên ngoài tác động vào khía cạnh nghi quỹ, đồ hình mạn-đà-la, nhưng về mặt ý niệm triết học đích thực của Kim cương thừa, tôi cho rằng mọi người nên tìm dấu tích ngược về trong Du-già hành tông càng nhiều càng hay.
    Vấn đề: Tôi nghĩ rằng ý nghĩa của chữ tantra là tương tục có nhiều điều liên quan đến giáo lý về thực chứng hơn là phạm trù lịch sử. Xin Ngài giải thích về ý nghĩa của sự tương tục (tantra) trong phạm vi thực chứng của hành giả?

    Traleg Rinpoche: Có thể nói rằng quý vị là những hành giả Kim cương thừa ngay trước khi quý vị trở thành môn đệ của Kim cương thừa. Bất luận quý vị thực chứng được điều gì đều phát xuất từ một tiến trình toàn thể. Ngay cả sau khi quý vị được giác ngộ cũng vậy, chính là giác ngộ thông qua một tiến trình tương tục trong ý nghĩa nào đó. Phật hạnh, dụng của Phật tánh, sẽ tương tục. Đó như là một kinh nghiệm cá nhân, tôi nghĩ rằng ‘tương tục thống nhất thể–tantra’ và phẩm tính ‘cứng chắc như kim cương’ có liên hệ rất mật thiết với nhau, vì nó không có khởi đầu và không có chỗ kết thúc, thế nên nó không bị phá hoại hoặc gây chướng ngại.
    Vấn đề: Làm sao mà Phật tánh hiển hiện khắp mọi thời...
    Traleg Rinpoche: Quý vị có thể gọi đó là sự tương tục: Phật tánh hoặc sự bừng chiếu của tuệ giác, quý vị muốn gọi như thế nào cũng được.
    Vấn đề: Có phải đó là khi ta định tâm và quán chiếu vào sự tương tục?

    Traleg Rinpoche: Quý vị nhận ra sự tương tục khi đồng hành cùng nó. Có người không nhận ra được gì cả. Đó là những gì hành giả Kim cương thừa cho biết.
    Vấn đề: Tại sao Trung quán tông quan niệm về Phật tánh vừa như là bản hữu, vừa như là Như Lai tạng?
    Traleg Rinpoche: Do Bồ-đề tâm (s: bodhicitta). Họ không nói nhiều về Như Lai tạng, thực vậy. Như Lai tạng được ví như là cây gậy cho người mới nhập môn. Khi quý vị đã thâm nhập sâu vào giáo lý rồi, quý vị sẽ vượt qua ý niệm đó.
    Vấn đề: Có phải Bồ-đề tâm (s: bodhicitta) chính là tâm giác ngộ?
    Traleg Rinpoche: Bồ-đề tâm hoàn toàn khác biệt hẳn với mọi khái niệm. Bồ-đề tâm có nghĩa chính là năng lực của tâm từ bi.
    Vấn đề: Nhưng phải chăng chính nó có một phẩm tính tích cực?
    Traleg Rinpoche: Đúng như vậy! Nhưng nó khác hẳn nghĩa của Phật tánh (e: buddha-nature). Phật tánh được xem là vô thủy, vô chung, thanh tịnh không nhiễm ô bởi tâm thức mê vọng của chúng ta. Những phẩm tính đó lại không được dành cho Bồ-đề tâm. Thực vậy, họ cho rằng Bồ-đề tâm tuyệt đối là sự giác ngộ tối thượng. Điều ấy rõ ràng, nhưng cùng lúc, nó là một ý niệm khác. Các nhà Trung quán cho là như vậy. Bồ-đề tâm tuyệt đối là sự giác ngộ tối thượng, còn các nhà Du-già hành tông thì gọi đó là Phật tánh. Bồ-đề tâm tuyệt đối chính là Tánh không trong Trung quán.
    Vấn đề: Liệu Bồ-đề tâm có mang phẩm tính xác định?
    Traleg Rinpoche: Không nên xem Bồ-đề tâm tuyệt đối là xác định hoặc phủ định. Trung quán tông không bận tâm suy đoán về điều nầy.
    Vấn đề: Nhưng Như Lai tạng có mang phẩm tính xác định nào chăng?
    Traleg Rinpoche: Vâng, Hoàn toàn có. Trong Đại thừa tối thượng Tan-tra (mahayanauttara-tantra) đề cập rất nhiều. Trong đó nỗ lực minh họa Như Lai tạng bằng cách dùng nhiều hình tượng: phụ nữ nghèo hèn, vua chúa, vương tử, người mù tìm thấy ngọc trong rác. Toàn bộ kinh văn trên chứa đầy hình tượngnầy. Thế nên, Như Lai tạng là ý niệm hoàn toàn mang tính tích cực.
    Vấn đề: Nếu Ngài muốn thay đổi những tập khí tiêu cực sang năng lực tích cực, có phải Ngài chuyển hóa các tập khí tiêu cực và từ đó loại hẳn chúng ra khỏi Phật tánh?
    Traleg Rinpoche: Sự chuyển hóa được tiến hành không phải bằng sự loại trừ các tập khí tiêu cực. Đó là lí do tại sao Du-già hành tông và Kim cương thừa khác biệt với các tông phái Phật giáo khác. Theo các tông phái Phật giáo khác, các tập khí tiêu cực là cái luôn luôn bị chế ngự, hoặc đúng hơn là luôn luôn bị loại trừ. Du-già hành tông và Kim cương thừa cho rằng do chấp nhận những tập khí tiêu cực nầy, mà chúng ta có thể chuyển hóa được chúng. Quý vị không thể nào thông hiểu được các tập khí tiêu cực này bằng cái nhìn tiêu cực về nó. Quý vị phải nên đối xử với các tập khí tiêu cực của mình bằng thái độ tích cực. Do vậy nên sự chuyển hóa sẽ diễn ra tức thì. Như các nhà Du-già hành tông cho biết, tất cả đều sẽ được chuyển thành trí huệ.
    Vấn đề: Chúng tôi làm thế nào để tiếp cận với bốn ý niệm mà Ngài vừa chỉ ra trong công phu tu tập?
    Traleg Rinpoche: Các nhà Du-già hành tông và Kim cương thừa tin tưởng rằng tham lam, sân hận, si mê sẽ được chuyển hóa thành một tầng bậc cao hơn của trí huệ, do các Ngài đã thể nhập một cách sâu sắc ý niệm tánh không nên đã có ảnh hưởng đến cảm nhận của quý vị về pháp giới như thế nào đó.
    Vấn đề: Đó chỉ là khái niệm để nhận thức hay là mỗi người phải có công phu tu tập chuyên biệt?
    Traleg Rinpoche: Quý vị phải có công phu tu tập chuyên biệt, thực vậy. Như tôi đã nói, khi các nhà Du-già hành tông và Kim cương thừa đã lập nên hệ thống học thuyết, thì giáo lý ấy phải có giá trị thực tiễn về mặt hành trì. Sẽ vô ích khi ngồi không mà suy gẫm về thế giới.
    Nhuận Châu dịch
    Sao cứ nghĩ trần gian là cõi mộng,
    Để Trái Tim sống ảo mà lại đau.
    Vít đời hỏi nhỏ một câu,
    mai xuôi cõi thật có nhau làm gì.

  4. #4

    Mặc định

    Cảm ơn Soul master mình đang muốn hỏi về Tối Thượng Mật Tông Du Già???

  5. #5
    Đai Nâu Avatar của soul_master
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Sen Hồng Tám Cánh
    Bài gởi
    353

    Mặc định

    Ba yếu tố chính trong sự tu hành của Mật Tông Tây Tạng là Từ Bi, Trí Tuệ, Dũng mãnh.
    Mật tông có bốn bậc khác nhau từ cao xuống thấp là:

    Tối Thượng Mật Tông
    Thiền Quán Mật Tông
    Nghi Thức Mật Tông
    Lễ Bái Mật Tông

    Tối Thượng Mật Tông: Là đã đầy đủ các pháp hành trì của ba bậc thấp hơn và thành tựu đầy đủ các pháp quán tưởng chuyển hoá thân thành vị Phật Bổn Tôn được thành tựu Tam Mật tức là Thân Mật, Ngữ Mật, Ý Mật.

    Thiền Quán Mật Tông: Là đã đầy đủ các pháp hành trì của hai bậc thấp hơn. Hành giả phải biết rõ pháp tu quán tưởng chuyển hoá thân thành Đức Phật Bổn Tôn. Hành giả phải biết rõ phương pháp tu Quán Tưởng Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các Chân Ngôn, biết rõ các Thủ Ấn của bậc này, biết phương pháp tạo đồ hình Mạn Đà La, biết các Chân Ngôn, các nghi thức về làm Pháp Quán Đảnh, làm lễ cúng dường và còn rất nhiều nghi thức khác nữa v.v. của bậc Mật Tông này

    Nghi Thức Mật Tông: Là đã đầy đủ các pháp hành trì của bậc thấp hơn. Hành giả phải biết rõ phương pháp tu Quán Tưởng Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các Chân Ngôn, biết rõ các Thủ Ấn của bậc này, biết phương pháp tạo đồ hình Mạn Đà La, biết các Chân Ngôn, các nghi thức về làm Pháp Quán Đảnh, làm lễ cúng dường và còn rất nhiều nghi thức khác nữa v.v. của bậc Mật Tông này

    Lễ Bái Mật Tông: Là hành giả phải tu hành đầy đủ các pháp lạy sám hối, trì tụng. Hành giả phải biết rõ phương pháp tu Quán Tưởng Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các Chân Ngôn, biết rõ các Thủ Ấn của bậc này, biết phương pháp tạo đồ hình Mạn Đà La, biết các Chân Ngôn, các nghi thức về làm Pháp Quán Đảnh, làm lễ cúng dường và còn rất nhiều nghi thức khác nữa v.v. của bậc Mật Tông này

    Trong mỗi bậc Mật Tông lại có hai phần là Nội Mật và Ngoại Mật.
    Các Kinh về Thiền Quán Mật Tông và Tối Thượng Mật Tông thì chỉ có ở trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng mà thôi.

    Không phải là hễ ai tu theo Mật Tông thì cũng thành Phật trong một đời cả mà chỉ có các vị tu theo pháp Tối Thượng Mật Tông lúc được thành tựu viên mãn thì mới có thể chứng quả Phật trong hiện đời.

    Pháp Tối Thượng Mật Tông rất là thâm sâu vì vậy một người muốn tu hành pháp Tối Thượng Mật Tông thì phải có căn bản vững chắc về Mật Tông của các bậc dưới rồi và hành giả trước hết phải nhận được Pháp Quán Đảnh của một vị Kim Cang Pháp Sư đã thành tựu về Pháp Tối Thượng Mật Tông truyền dạy. Hành giả cũng phải có sự chứng nhập thâm sâu về Tánh Không và Bồ Đề Tâm thì mới có thể tu hành Pháp Tối Thượng Mật Tông .
    Last edited by soul_master; 11-10-2010 at 11:39 PM.
    Sao cứ nghĩ trần gian là cõi mộng,
    Để Trái Tim sống ảo mà lại đau.
    Vít đời hỏi nhỏ một câu,
    mai xuôi cõi thật có nhau làm gì.

  6. #6

    Mặc định

    lần đầu mới thấy bác soul pót một bài đầy ý nghĩa và đúng đắn nhất,em vô cùng hoan hỷ mong bác sounl tiếp tục phát triển trên tinh thần này,và em xin góp ý là thiền đại thủ ấn cũng là pháp kalachara hiện nay trên thế giới chỉ có vài vị mới đủ khả năng ban pháp quán đảnh tối thượng du dà này thôi như đức đạt lai lạt ma và một số vị rinpoche cao cấp bên dòng mũ vàng....
    và pháp kalachara thường thì muốn tu tập phải là một hành giả mật thừa đã tu luyện nhiều năm và đức đạt lai lạt ma đời thứ 5 có nói điều quan trọng trước khi bước vào sự tập luyện Đại thừa Mật Tông là phải có căn bản vững chắc về nền tảng phổ thông của Đại thừa, là sự đoạn tuyệt và phát Bồ Đề tâm, cùng sự thấu triệt Pháp khổ hạnh. Thiếu những yếu tố kể trên hành giả không thể tiếp nhận chắc chắn những kinh nghiệm cụ thể về các sự tập luyện của Mật Giáo (Tantric). Tuy nhiên, việc thiết yếu nhất là sự phát tâm của hành giả nhằm tiếp nhận sự truyền pháp Mật tông. Một số người hy vọng được sự gia bị để tránh khỏi những tai ách, bệnh tật và những trắc trở trong cuộc đời họ. Một số khác đeo đuổi với mục đích là muốn được tái sinh (Rebirth) trong một đời sống sung sướng hơn. Cũng có một số người mong muốn rằng chính họ sẽ đạt được tái sanh để tiếp tục tu học. Vì thế muốn tiếp nhận đầy đủ sự điểm đạo (Initiation) tinh khiết, hành giả phải từ bỏ những ước vọng ở trên, vì chúng chẳng qua là những ước vọng ích kỷ. Hành giả phải đến nơi truyền giới với một thái độ mong muốn đạt được sự giác ngộ càng sớm càng tốt qua sự tu luyện Mật Tông trong một khuôn khổ với khả năng mang hạnh phúc cao cả đến cho chúng sanh.
    và quan trọng nhất cũng như bác soul đã nói muốn tu tập kalachara cần có một vị đạo sư chứng ngộ quán đảnh... và thường thì buổi lễ quán đảnh pháp kalachara được tổ chức 3 ngày liên tục ,ngày đầu thì giới thiệu và dẫn nhập chúng ta vào pháp hai ngày sao mới là ngày chính, và khi thọ nhận quán đảnh chúng ta phải biết quán tưởng ,thâm nhập mandala theo hướng dẫn của chư vị kim cang đạo sư,.....nhiều thứ lắm
    thường khi ban pháp quán đảnh kalachara thì các vị kim cang đạo sư sẽ làm pháp đàn ,tạo ra một mandala kalachara ,và buổi lễ quán đảnh sẽ chia làm 7 phần,kể từ khi chúng ta được phép thâm nhập mandala xuyên qua vị thần Kalachakra và sự hiện hữu của vị thần nữ. Lúc đó chúng ta bắt đầu quán tưởng thâm nhập mandala, ta như là đứa trẻ ra đời trong cung điện Kalachakra, vị Lạt Ma nâng niu mình như một người mẹ, sẽ chuẩn bị cho sự tỉnh thức chín mùi của mình. Đầu tiên nước sẽ được chú nguyện và chúng ta sẽ được tắm rửa như tắm rửa cho trẻ sơ sinh. Việc thứ hai là chú nguyện cho các vật trang sức trên đầu, gieo những hạt giống vô giòng trí tuệ của chúng ta để phát triển hiển lộ hào quang của Đức Phật, nghi lễ này giống như lần đầu tiên cạo tóc cho hài nhi. Việc thứ ba là chú nguyện vào khăn bịt mắt, việc này giống như gieo hạt giống cho vùng hào quang trên đầu, và cũng giống như xâu tai và đeo nữ trang lần đầu tiên cho hài nhi. Việc thứ tư là chú nguyện trong chuông và sau đó sẽ phát Phật ngôn (Buddha's speech). Tiếng chuông ngân giống như những lời bập bẹ đầu tiên của trẻ. Việc thứ năm là truyền thụ bằng hành động, ủy thác cho hành giả những gì cần thiết để tự luyện tập. Nếu chỉ vài môn đệ thì lúc này mọi người sẽ được trang phục với y phục bằng xương, cầm đinh ba, nếu không có thì họ phải tưởng tượng là đang cầm vật đó. Vào lúc này giống như đứa trẻ bắt đầu chập chững hành động. Việc thứ sáu, trong số các việc truyền thụ là chọn mật danh, trong thời gian này hành giả sẽ nhận tên của một trong số năm vị Phật thiền định. Giống như tên gọi của một hài nhi, hành giả sẽ đạt được sự giác ngộ nhân danh một vị Phật làm phương tiện. Việc cuối cùng là phép truyền thụ gồm hai phần: lễ truyền thụ chính thức và nghi thức liên quan đến buổi lễ, việc này giống như bài vỡ lòng tập đọc của thiếu nhi.
    nói chung là hiếm ai thông hiểu điều này, tuy nhien nếu chúng ta đã có duyên hội ngộ và thọ quán đảnh kalachara thì tất nhiên chúng ta phải có nền tảng vững chắc về phép quán tưởng và sự phát tâm dũng mãnh, thì chắc chắn chúng ta sẽ tiếp nhận được toàn bộ sự gia truyền của Mật Tông Kalachakra.
    :praying:2OM AH HUM:praying:2

  7. #7
    Đai Nâu Avatar của soul_master
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Sen Hồng Tám Cánh
    Bài gởi
    353

    Mặc định

    hì,cảm ơn bạn Neo,nhưng cái này mình cop lại thui và thêm bớt 1 ít thui.
    Sao cứ nghĩ trần gian là cõi mộng,
    Để Trái Tim sống ảo mà lại đau.
    Vít đời hỏi nhỏ một câu,
    mai xuôi cõi thật có nhau làm gì.

  8. #8

    Mặc định


    DẪN NHẬP TỐI THƯỢNG DU GIÀ

    THÂN KIM CUƠNG VÀ TÂM THƯỜNG TRỤ

    Theo pháp du già cao nhất của mật tông, thì thân tâm chúng ta không chỉ hiện hữu trên bình diện thô như ta thường quen thuộc, mà còn trên những tầng mức vi tế mà phần đông chúng ta hoàn toàn không biết đến. Cái thân vật lý thông thường của chúng ta, làm bằng những yếu tố vật chất, thì phải chịu những đau khổ không thể tránh về bệnh, già và chết: nội một chuyện có cái thân này đã trói buộc ta vào những nỗi khổ không ngừng tái diễn của kiếp tồn sinh. Nhưng ở trong biên giới hay bầu khí của cái thân này, có một thân khác vô cùng vi tế hơn, gọi là thân kim cương, "kim cương" bao hàm ý nghĩa bất khả hoại. Cũng như hệ thần kinh lan khắp cái thân vật lý thô sơ khả hoại, thân kim cương vi tế cũng đầy những kinh mạch hay huyệt đạo (nadi) qua đó những luồng khí lực (prana) và giọt tinh chất (bindu) tuôn chảy. Đây là suối nguồn phúc lạc vô cùng quan trọng trong pháp hành trì cao cấp của mật tông.

    Cũng như chân tâm thanh tịnh và đầy phúc lạc, thân tâm lý vi tế bây giờ cũng đang hiện diện trong ta, và công việc của hành giả mật tông là khám phá để xử dụng nó. Một khi nhờ thiền quán ta bắt liên lạc được với cái thân tâm lý bằng ánh sáng này, thì thân vật lý thô trọng của ta không còn là một vấn đề đối với ta nữa, vì ta đã siêu việt nó. Những giới hạn vật lý chỉ là một triệu chứng khác của sự chấp thủ bản ngã. Khi đã hòa nhập với bản tính thanh tịnh của mình, thì mọi sự hạn chế ấy sẽ được vượt qua. Đến lúc ấy, sự chứng đắc cái thân sáng chói của vị thần không còn là một mục tiêu phải được quán tưởng, mà trở thành một thực tại.

    Ở đây không phải chỗ để bàn về kim cương thân với những huyệt đạo, tinh chất và khí của nó, song ít nhất nên nói qua về huỵệt đạo trung ương vì nó quan trọng đặc biệt. Luồng huyệt đạo này chạy một đường thẳng tắp từ đỉnh đầu xuống đến một vùng ở trước đáy cột sống của ta, dọc theo đó có bảy huyệt gọi là luân xa hay bánh xe năng lượng. Mỗi luân xa có một nhiệm vụ khác nhau trong pháp hành trì mật tông. Tùy loại mật điển ta đang tu, tùy giai đoạn tu tập, hoặc tùy đối tượng quán, mà ta xoay sự tập trung chú ý vào một luân xa đặc biệt. Vấn đề không phải là đoán mò nên chọn luân xa nào, những điều này được nói chi tiết trong các bản kinh luận mật tông, sẽ được vị thầy giải thích cho hành giả nào đủ tiêu chuẩn xứng đáng.

    Nhưng luân xa quan trọng nhất là luân xa nằm ở tim, vì đấy là chỗ trú của cái tâm rất vi tế của ta, kho tàng vô giá đối với tất cả hành giả mật tông. Từ khi nhập thai ta đã mang theo cái tâm rất vi tế này, nói đúng ra, từ vô thủy đời kiếp, dòng tương tục tâm cùng với luồng khí lực nâng đỡ nó vẫn theo ta không rời. Vì căn bản thức ở trung ương trái tim ta suốt đời này, nên cái tâm rất vi tế ấy đôi khi còn được gọi là tâm thường trú. Mặc dù tâm này đã tuôn chảy liên tục từ đời này sang đời khác, song nó hiếm khi có cơ hội để vận hành. Sở dĩ nó không khởi động được, không thi hành nhiệm vụ quý báu nhất của nó được- nghĩa là thâm nhập bản chất phổ quát (hay tính bất nhị- DG) của thực tại- là vì quá nhiều tâm trạng thô động của ta không ngừng sinh khởi. Những tâm thô này giống như những khách du lịch, những kẻ tham quan liên tục đến và đi, hoàn toàn tràn ngập, khỏa lấp cái tâm thường trú tĩnh lặng.

    Hoạt động của tất cả loại tâm thô cũng như tế, tùy thuộc vào những luồng khí lực nâng đỡ chúng, và tùy thuộc những luồng khí này đang du hành ở đâu. Khi chúng chảy qua bất cứ kinh mạch nào trong hàng ngàn kinh mạch, ngoại trừ huyệt đạo trung ương, thì những luồng khí ấy khởi động những tâm thô như du khách, luôn luôn làm phát sinh mê tín và rối ren, những kinh nghiệm trong đời sống phàm tình. Nhưng khi những khí lực này đi vào, an trú và tan vào trong huyệt đạo trung ương - như điều xảy ra vào lúc chết chẳng hạn - thì những tâm thô động kia lắng xuống, và cái tâm rất vi tế của ánh sáng thuần tịnh sẽ khởi lên.

    Khi những khí lực tan vào huyệt đạo trung ương, thì cái bối cảnh trong đó những tâm thô của ta thường vận hành tự động biến mất, sở du lịch đóng cửa và những ý tưởng mê tín của ta không còn có thể tiếp tục qua lại. Trong cái yên tĩnh theo sau đó, bản tâm nguyên ủy của ta - tâm thường trú - bừng dậy.

    Toàn thể tiến trình này tự động xảy ra trong lúc chết, nhưng rất ít người được huấn luyện để tận dụng cái tâm vi tế rất trong sáng này khởi lên vào thời điểm khẩn trương ấy. Sự thực là, ngay cả chuyện nhận ra được nó cũng khó có người. Nhưng những nam nữ hành giả mật tông thì tu luyện không những để nhận ra được tâm thức vi tế đầy phúc lạc này vào lúc chết, mà còn dùng thiền quán để có thể đánh thức cái tâm trong sáng ấy ngay trong khi sống, và nhờ vậy hoàn toàn làm chủ được nó. Nhờ đào luyện một định lực sâu xa, tập trung vào thân kim cương nói chung và huyệt đạo trung ương nói riêng, họ có thể cắt đứt những tầng lớp thô của sự vận hành tâm thức và tiếp xúc thẳng với bản tâm thanh tịnh. Họ có thể xử dụng cái tâm tập trung mãnh liệt này để thiền quán về tính không (hay vô tự tính) của mọi sự, thâm nhập bản chất tối hậu của thực tại và nhờ thế tự giải thoát mình ra khỏi mọi mê lầm vọng tưởng. Ngay lúc hoàn toàn thể nhập vào khoảng không trong sáng của bất nhị, họ cảm nghiệm được một sự bùng vỡ của năng lượng phúc lạc tràn trề khôn tả. Sự hợp nhất giữa kinh nghiệm đại lạc và chân không (mật tông gọi là mahamudra, đại ấn, hay biểu tượng vĩ đại) là con đường nhanh nhất đưa đến toàn giác.



    CHUYỂN LỐI NHÌN CỦA CHÚNG TA VỀ CÁI CHẾT

    Sự tan hòa luồng khí lực của kim cương thân vào huyệt đạo trung ương là việc thiết cốt đối với hành giả mật tông thượng thừa. Vì quá trình tan hòa này xảy ra một cách tự nhiên vào lúc chết, nên ta cần phải làm quen càng nhiều càng tốt với tiến trình chết ngay bây giờ.

    Thế mà phần đông chúng ta lại vô cùng miễn cưỡng khi quán xét cái chết, ta lại còn không muốn nghĩ đến nó. Ta kinh hoảng, và cho là toàn thể đề tài ấy thực khó ưa kinh khủng. Nhưng điều cốt tủy đối với ta là phải biết tâm mình vận hành thế nào không những trong ngày mà cả trong lúc ta ngủ và vào lúc chết. Muốn thế ta cần phải tự giáo dục mình về những vấn đề mà bấy nay ta vẫn thường né tránh. Nếu xét kỹ những vấn đề này, ta sẽ thấy cái chết không phải là một hố sâu đen ngòm kinh khủng đang chờ để cuốn hút chúng ta vào trong đó mà ngốn ngấu. Trái lại đấy là một nguồn an ủi tiềm tàng, và ngay cả hỉ lạc lớn lao.

    Ta thường nghĩ chết là tiêu cực, nhưng đấy chỉ là tưởng tượng. Kỳ thực chết có thể vô vàn tốt hơn những kinh nghiệm ta thường cho là lạc thú, vì những kinh nghiệm thường tình này không thể đem lại cho ta phúc lạc bình an tuyệt đối. Chẳng hạn một đóa hoa đẹp có thể cho ta một cái gì thực đấy, nhưng không phải là niềm bình an phúc lạc kỳ diệu mà sự chết có thể đem lại. Một người bạn trai hay bạn gái có thể đem lại cho ta một ít lạc thú, nhưng không thể giải quyết giùm ta bất cứ một vấn đề căn bản nào, bất quá họ chỉ tạm thời giải quyết được một vài vấn đề nông cạn thuộc cảm xúc của ta. Nhưng vào lúc chết, tất cả những vấn đề cảm xúc và tất cả lo âu của ta đều chấm dứt. Và tất cả những khái niệm đối nghịch đây kia tự động tan biến vào hư không, mở đường cho ta kinh nghiệm được tuệ giác sâu xa kỳ diệu. Bởi thế, điều ta cần nhận chân là, cái chết không phải một sự hủy diệt đột ngột kinh hoàng, mà là một tiến trình tuần tự trong đó tâm ta càng lúc càng trở nên vi tế nhỏ nhiệm. Nếu muốn thực hành mật tông thượng thừa, hay ít nhất, muốn chuẩn bị cho điều mà tất cả chúng ta cuối cùng đều phải chạm mặt, thì ngay bây giờ ta nên làm quen càng nhiều càng tốt với tiến trình tuần tự ấy. Nếu chờ tới lúc chết mới làm quen thì sẽ quá muộn.

    CHẾT, TRUNG ẤM VÀ TÁI SINH

    Giáo lý trong kinh điển và mật điển chẩn đoán những vấn đề của vòng sinh tử luân hồi theo nhiều cách, và cũng đưa ra những lối giải quyết khác nhau. Theo kinh điển, gốc rễ của khổ luân hồi là sự chấp thủ bản ngã, cái tà kiến bám giữ niềm tin có một "cái tôi" tự hữu biệt lập còn gọi là ngã kiến. Liều thuốc chữa trị quan niệm ngu si này là đào luyện một cái nhìn hoàn toàn ngược lại. Thay vì dại dột biểu đồng tình với niềm tin bản năng của ta vào sự tự tồn của bản ngã, kinh giáo dạy ta nên phát sinh một tri kiến về chân không, sự phủ nhận hoàn toàn tất cả những quan niệm về thực hữu độc lập của các pháp. Như vậy kinh giáo nhấn mạnh nhiều đến việc tẩy trừ tà kiến (thấy sai) và thay vào đó bằng chính kiến (thấy đúng).

    Con đường chớp nhoáng của mật tông không phủ nhận những gì kinh nói, nhưng lại đưa ra một phương pháp quyết liệt hơn để giải quyết những vấn đề của cuộc đời. Theo giáo lý cao cấp này, mọi khó khăn đều do không kiểm soát được những kinh nghiệm trong lúc chết và những gì xảy ra sau khi chết. Vì không kiểm soát được tiến trình chết, ta bắt buộc phải đi vào một trạng thái trung gian (bardo hay trung ấm thân) cũng không được kiểm soát, và từ đấy ta lại kinh quá một sự tái sinh không được kiểm soát, để lại đưa đến một sự sống chết không được kiểm soát khác nữa. Cứ thế bánh xe tiếp tục lăn, lôi chúng ta từ một hiện hữu bất toại ý này đến một hiện hữu bất toại ý khác.

    Cần nhấn mạnh lần nữa rằng cái chết tuyệt nhiên không phải là một vấn đề, mà là một cơ hội quý báu. Đối với người đã chuẩn bị tốt, thì tiến trình chết đem lại cơ hội ngàn năm một thuở để kinh nghiệm cái điều từ lâu họ luôn tìm kiếm, đó là tâm trong sáng đầy phúc lạc. Mặc dù tâm ấy tự động khởi lên khi chết, phần đông chúng ta không thể lợi dụng nó được chút nào. Cái chết của chúng ta, cũng như sự sống của chúng ta, trôi qua không được sự kiểm soát của cái tâm sáng suốt có ý thức, cho nên cái đáng lẽ là cửa ngõ giải thoát thì lại trở thành lối vào một đời sống mê muội khác.

    Cách chữa trị vô minh tái diễn ngoài tầm kiểm soát như thế là một loại thiền quán trong đó ta chuyển hóa những kinh nghiệm thông thường về chết, trung ấm và tái sinh thành ra kinh nghiệm giác ngộ của một vị Phật. Phương pháp của Mật tông bởi thế không tương phản với vấn đề - như trí tuệ Tính không tương phản với vô minh chấp ngã - mà tương tự với vấn đề. Vì thuốc giống bệnh, nên những năng lực thường đưa đến rối ren đau khổ có thể được xử dụng để đem lại ánh sáng và thành tựu bản thân. Đây là một trong những lý do khiến mật tông là một pháp tu thần tốc, nhưng nếu hành sai thì lại là một con đường nguy hiểm.

    BA KHÍA CẠNH CỦA PHẬT QUẢ

    Để hiểu cách mật tông xử lý các vấn đề chết, trung ấm và tái sinh như thế nào, ta cần biết qua ý nghĩa ba thân Phật. Khi tất cả những tấm màn vô minh che lấp tâm ta đã được cởi bỏ, khi tất cả tiềm năng tốt đẹp trong ta đã được phát triển đến cùng, thì có sự thành tựu đồng thời ba thân Phật là pháp thân, báo thân và ứng hóa thân. Pháp thân là tâm vô hạn, vô chướng ngại của một đấng giác ngộ, còn hai thân kia là hai tầng mức biểu hiện của pháp thân ấy để lợi lạc cho người khác. Pháp thân được xem là thân tự thọ dụng, biểu trưng sự thành đạt cho mình nhờ chứng đắc các thần thông, còn báo ứng thân là thân tha thọ dụng - biểu trưng sự thành đạt cho người, do hóa thân của một vị Phật để đem lại lợi ích cho chúng sinh chưa giác ngộ.

    Sự chứng đắc ba thân là kinh nghiệm của toàn giác. Vì chưa giác ngộ chúng ta chưa có được kinh nghiệm này, nhưng ta có thể có cái gì tương tự với nó. Không những ta có thể có ba thân, mà theo con đường quả thừa của mật tông, ta nên có ngay ba thân ấy! Một thái độ tham lam như thế rất hợp thời trang; người ngày nay muốn "được cái tốt nhất, và được liền tức thì !" Chỉ khác là thường ta theo đuổi vật chất, còn khi hành mật tông, ta cố đem kinh nghiệm hỉ lạc của ý thức thắp sáng mọi khía cạnh đời sống, để đưa vào thực chứng.

    TẬN DỤNG THÂN NGƯỜI

    Chuyển kinh nghiệm chết, trung ấm và tái sinh thành con đường giác ngộ không phải là chuyện huyền hoặc. Nhờ cái thân hiện tại mà ta có thể hoàn thành được mục đích lớn lao này. Theo Kinh giáo, thân xác vật lý của ta là một chướng ngại. Nó đang tàn tạ từng sát na, dễ đau ốm và lôi cuốn khổ như nam châm hút sắt. Quả vậy, diệu đế đầu tiên được định nghĩa ngắn gọn như sau: Khổ chính là thân này. Nhưng theo cái nhìn mật giáo thì ngược lại. Hoàn toàn không phải chướng ngại, thân người được xem như báu vật quý nhất vì nó chứa đựng tất cả sự trang bị cần thiết cho việc đạt giác ngộ ngay trong một đời người. Thân này làm bằng bốn đại đất nước lửa gió và những năng lượng (khí, prana) liên hệ. Và vì nó sinh từ bào thai, nên có chứa những tinh chất đỏ và trắng hấp thụ của cha mẹ; đây là yếu tố cần thiết để khơi dậy năng lượng phúc lạc của kinh nghiệm kundalini.

    Chúng ta thật may phước có được loại thân này, bởi thế không nên phí phạm cơ hội quý báu nó đem lại để thực hiện tiềm năng toàn vẹn của ta. Đừng như những người không biết xử dụng tài nguyên thiên nhiên của mình cho đúng cách. Chẳng hạn tôi nghe nói những trại chủ ở Nepal chặt hết những cây xoài để làm củi. Một cây xoài cần biết bao nhiêu năm để lớn và sinh quả ngon ngọt, thế mà người Nepal dường như không biết thưởng thức. Thay vì tận dụng những gì mình có, họ lại chặt phá hết những cây quý nên đất bị xoáy mòn, rốt cuộc không còn gì cả. Nếu không xử dụng năng lượng quý báu của thân mình để đạt giác ngộ, mà lãng phí nó vào những theo đuổi vô nghĩa của đời này, thì ta lại còn ngu ngốc hơn các trại chủ kia. Ta nên làm như những khoa học gia biết rút năng lượng từ mọi thứ - ánh sáng mặt trời, thủy triều, gió v.v..- và lại còn biết cách xử dụng năng lượng này cho những mục tiêu xây dựng. Nói cách khác, ta phải thiện xảo, và sự thiện xảo cao nhất là chuyển cái thân hiện tại của ta, vốn là gốc khổ, thành một con đường hỉ lạc đưa đến hạnh phúc vô biên cho mình và người. Đây là mục đích tối hậu của mọi phương pháp mật tông.

    TIẾN TRÌNH CHẾT

    Khi đạt toàn giác, ba thân phật (Pháp thân, báo thân, ứng thân) đồng thời thành tựu. Nhưng theo pháp hành mật tông, ba thân ấy tuần tự hình thành theo một tiến trình mô phỏng tiến trình tự nhiên diễn ra lúc chết, lúc ở trạng thái trung ấm và lúc tái sinh. Bởi vậy như đã nói, trước hết ta cần biết tiến trình ấy thường xẩy ra như thế nào, rồi mới có thể hiểu cách chuyển ba giai đoạn ấy thành ba thân giác ngộ.

    Chết là tâm tách lìa khỏi xác. Quá trình tách lìa có thể xảy ra nhiều giờ, nhiều ngày, như cái chết tự nhiên do già bệnh; hoặc xảy đến đột ngột như do tử nạn. Nhưng ở cả hai trường hợp, cái chết đều có những bước tiến nhất định. Thân xác không phải đột ngột mất ngay khả năng duy trì tâm thức, mà nó mất từ từ, mỗi đại trong 4 đại (địa, thủy, hỏa, phong) tuần tự mất khả năng nâng đỡ thân xác.

    Kinh điển mật tông mô tả 4 giai đoạn đầu của sự chết bằng những từ ngữ sống động. Trước hết địa đại chìm hay tan vào thủy đại, rồi thủy đại tan vào hỏa đại, hỏa đại tan vào phong đại, phong đại tan vào thức đại. Một sự mô tả như thế giúp ích cho thiền quán, nhưng ta không nên hiểu theo danh từ. Ví dụ nói địa đại "chìm" vào thủy đại có nghĩa là những phần rắn chắc của cơ thể dần dần mất khả năng vận hành của chúng, không còn liên lạc mật thiết với tâm thức người chết như trước; trong khi ấy thủy đại (hay chất lỏng) có vẻ thắng thế và rõ rệt hơn.

    Khi những yếu tố vật lý nói trên tuần tự thắng lướt nhau như vậy, thì người sắp chết cảm nghiệm một vài dấu hiệu hay triệu chứng bên ngoài (trên cơ thể) và bên trong (tâm lý) liên hệ đến từng giai đoạn của tiến trình tan rã. Những triệu chứng này được nói rõ trong nhiều sách, nên ở đây miễn bàn. Tuy nhiên cũng sẽ ích lợi để nêu vài hình ảnh điển hình thường xảy đến.

    Khi chết, thường người ta mất hết sự tự chủ. Vì đã không tu tập khi còn sống, họ bị cái chết tràn ngập, họ choáng váng khi các "đại" hay yếu tố của thân xác bị mất quân bình, không còn hoạt động điều hòa nữa. Họ cảm như đang bị nạn động đất dữ dội, không thể giữ bình tĩnh trước những gì xảy đến. Cái chết diễn ra với họ như một loạt ảo tượng kinh hoàng, một cơn ác mộng tàn phá. Nhưng với một người đã chuẩn bị, thì chính những cảnh gợi khủng khiếp ấy có thể đem lại niềm bình an kỳ diệu. Và với những hành giả thượng thừa, những người đã luyện tâm thuần thục, thì mỗi giai đoạn của tiến trình tan rã đem lại cho họ một sự sáng suốt và tuệ giác càng lúc càng tăng.

    Theo tâm lý học Phật giáo, một đối tượng có đem lại sự thỏa ý hay không, tùy thuộc vào quyết định mà tâm ta đã có từ trước. Trước khi trông thấy một điều gì hay một vật gì, tâm bạn đã quyết định : "Điều này sẽ làm cho tôi sung sướng." Rồi khi thực sự tiếp xúc với vật ấy bằng mắt, bạn mới nghĩ : "Ồ, thật tuyệt !" Đối với một phản ứng xấu cũng vậy. Nếu tâm bạn đã có thành kiến hay quyết định bạn không thích người nào, thì khi thực sự gặp người ấy bạn chỉ thấy họ khó ưa. Nói cách khác, tất cả mọi sự có vẻ tốt, làm ta ưa, và có vẻ xấu làm ta ghét, kỳ thực chỉ là những tạo tác của chính tâm ta.

    Tất cả điều này dính dấp gì đến kinh nghiệm chết chóc của chúng ta ? Đạo phật dạy rằng cái cách để trải qua một đời sống hạnh phúc và một cái chết hạnh phúc, là hãy nhận chân sự việc xảy ra một cách như thật, không bị đánh lạc hướng, làm cho tâm rối bời vì những tướng bên ngoài. Trong đời chúng ta gặp hết nỗi bất mãn này đến bất mãn khác, chỉ vì ta lầm tin rằng cái gì ta thấy tốt là thực sự tốt, cái gì ta cho xấu là thực sự xấu; do vậy ta dành trọn cuộc đời và năng lực của mình để chạy theo cái này, tránh xa cái nọ. Vì suốt đời ta đã tích lũy một thói quen mạnh mẽ nhìn mọi sự việc bằng thái độ hoặc tham đắm hoặc sợ hãi như thế, nên vào lúc chết, khi mọi sự dường như tan tành theo mây khói, đương nhiên tâm ta sẽ rơi vào một trạng thái hỗn loạn tơi bời.

    Giải pháp là, cần phải tập nhìn mọi sự chỉ là do tâm ta biến hiện, không có một chút xíu nào hiện hữu biệt lập. Ta cần hiểu, vì do tâm biến ra nên mọi sự chỉ như huyễn ảo. Tri kiến ấy cũng phải được áp dụng khi ta thấy những cảnh tượng lũ lượt hiện ra vào lúc tâm ta trải qua tiến trình chết. Ta nên làm quen với những gì ta sẽ gặp vào lúc chết, để có thể đối phó với những ảo cảnh này thay vì bị chúng tràn ngập và làm cho tâm ta hoảng hốt rối ren. Then chốt của vấn đề, lúc sống cũng như lúc chết, chính là nhận rõ ảo tưởng là ảo tưởng, tưởng tượng là tưởng tượng, huyễn hóa là huyễn hóa. Với cách ấy ta sẽ được giải thoát.

    CHẾT VÀ PHÁP THÂN

    Trước hết ta hãy xét những gì xảy đến nếu ta phải chết trong một tâm trạng lo lắng kinh hoàng tột độ, lúc ta không chuẩn bị, và cũng chưa từng tu tập. Khi bám víu vào cái "tôi" mà ta tưởng là vững chắc, để được an ninh bảo đảm, thì ta sẽ kinh hoàng khi thân xác nền tảng của cái "tôi" ấy, khởi sự phân tán. Khi địa đại suy thoái, thủy đại thắng lướt, tâm ta đầy những ảo tượng lung linh màu xanh bạc. Ta cảm như bị vướng bẫy, bị ngột ngạt, thân xác bị chôn dưới đất hay bị vùi lấp dưới cơn đá lở. Rồi khi thủy đại tan vào hỏa đại, ảo tượng khói xuất hiện. Khi điều này xảy đến, ta thấy như bị chết đuối, bị nước lũ cuốn trôi. Kế tiếp, hỏa đại tan rã, thân xác ta dần giá lạnh; ta thấy ảo tượng là một đống lửa giữa trời đêm với những tia lửa nhảy múa. Trong lúc tiến trình này xảy đến, nhiều người sắp chết gào lên vì tưởng thân mình đang bị những ngọn lửa thiêu rụi. Cuối cùng khi phong đại phân tán, hơi thở hào hển, ta cảm thấy mình bị thổi tung như lá vàng trước cơn gió lốc. Đồng thời, tâm ta "thấy" một ngọn lửa loé sáng lên rồi tắt như ở trong một phòng tối mịt; cũng như khi ngọn nến sắp tắt, bỗng sáng rực lên đột ngột như thể bùng vỡ đợt năng lượng cuối cùng. Hơi thở ta đang dồn dập hào hển, bỗng ngừng hẳn lại. Đối với mọi người, lúc ấy dường như ta đã chết (và đây là triệu chứng làm cho những người thân tụ họp xung quanh khởi sự khóc òa).

    Nhưng ta chưa chết hẳn. Bốn đại thô phù và những tâm phân biệt tương ưng với chúng đã ngưng hoạt động, nhưng tầng tâm thức vi tế vẫn còn vận hành bên trong. Điều này xảy đến khi giọt vi tế trắng hấp thụ của cha vào lúc nhập thai và trụ ở đỉnh đầu ta lúc sống, cùng giọt đỏ nhận của mẹ nằm ở rốn, tiến về gặp nhau ở tim. Khi giọt trắng đi xuống, hình ảnh trong tâm ta là không gian trống rỗng trắng xóa; khi giọt đỏ đi lên, ta thấy khống gian màu đỏ. Khi cuối cùng 2 giọt gặp nhau làm nên một hình cầu bao bọc căn bản thức vô cùng vi tế cùng với luồng khí tương ứng ở tim; thì ta kinh quá màu đen của một căn phòng tối mịt. Màu đen này càng lúc càng đậm đặc cho đến khi cuối cùng ta rơi vào trạng thái hoàn toàn bất tỉnh.

    Nhưng ta cũng vẫn chưa chết. Trong hình cầu giữa trái tim, an trú cái bản tâm rất vi tế của ta và khí lực vi tế tương ứng. Sau một thời gian - có thể 3 ngày hay hơn, với người không tu luyện - trái cầu này mở ra, và tâm thức ta được soi sáng. Cái bản tâm rất vi tế bừng tỉnh dậy và nó chỉ thấy một không gian trống rỗng, trong suốt và sáng ngời. Tâm trong sáng này là tâm cuối cùng và vi tế nhất trong những loại tâm mà ta kinh nghiệm trong suốt cuộc đời này.

    Đối với một người phàm, tất cả những kinh nghiệm này - từ khi ảo tưởng hiện ra cho đến khi xuất hiện ánh sáng trong suốt - đều không được kiểm soát, chúng lần lượt xảy đến song chúng ta hoàn toàn không biết, vì tâm ta quá tán loạn rối ren. Nhưng những người đã khéo tu luyện từ trước thì giữ được ý thức sáng suốt về mọi sự xảy đến trong suốt tiến trình này. Họ biết ảo ảnh nào sắp diễn ra kế tiếp, và hiểu rằng mọi cảnh tượng chỉ là tướng trạng diễn ra trước cái tâm đang chết của mình, chúng hoàn toàn không có thực tính khách quan ngoài tâm. Vì hiểu như vậy, họ không bị kinh hãi bởi những điều trông thấy. Thay vì thế, khi tâm họ càng trở nên vi tế thì họ càng ý thức về tính phi thực một cách sâu xa. Cuối cùng, khi ánh sáng trong suốt khởi lên, thì cái tâm vô cùng vi tế hòa nhập với Tính không trong một kinh nghiệm phúc lạc tràn trề khôn tả. Đối với một người như vậy, cái chết đã trở thành cơ hội quý báu để kiện toàn trí bất nhị. Nhờ trí giác trong suốt vô chướng ngại này mà một hành giả khéo tu luyện chuyển hóa được tiến trình chết thông thường thành ra kinh nghiệm của pháp thân giác ngộ.

    Kinh nghiệm pháp thân về tính bất nhị này vượt ngoài ngôn từ khái niệm mô tả. Bởi thế, khi người nào nói về kinh nghiệm này, họ luôn dễ bị hiểu lầm. Vậy bạn không nên tin lời tôi nói, đấy chỉ là những vọng ngôn do sự mê tín của tôi thôi. Dù nói khéo đến đâu, ngôn từ cũng chỉ phát xuất từ cái tâm phân biệt có giới hạn, và cũng chỉ được thấu hiểu bằng cái tâm hạn cuộc. Điều cần thiết là phải tiếp xúc được với chính kinh nghiệm, vượt ngoài danh ngôn dùng để diễn đạt kinh nghiệm ấy. Đó là lý do khiến mật tông đặt nặng hành động hơn lý thuyết.

    Mặc dù cũng nên nghiên cứu kinh luận và phân tích phê phán, song có những lúc phương pháp phân tích chỉ có hại. Một bậc thầy về thiền quán có lần bảo tôi :"Vào một lúc nào đó, ông cần phải từ bỏ lối hiểu mọi sự theo kiểu triết lý. Ông phải vượt ngoài tranh biện, luận lý." Điều ấy làm tôi kinh ngạc. Hồi đó tôi còn là một sinh viên trẻ, hăng hái, thích phân tích phê phán mọi sự mà tôi nghe được. Nhưng cuối cùng tôi hiểu ngài muốn nói gì : nếu cứ vướng vào thành kiến tri thức, ta không thể đi vào những kinh nghiệm thiền quán sâu xa. Vậy thực quan trọng để biết lúc nào nên buông xả, thư dãn để cho tâm an trú trong trạng thái trong sáng tự nhiên của nó.

    Những bậc chân sư thuộc mọi truyền thống luôn nhấn mạnh rằng có những lúc bạn không nên làm một hoạt động tri thức phân tích nào cả. Ví dụ, sẽ là một lỗi lầm lớn nếu vướng vào ý tưởng phân tích trong khi bước vào giai đoạn tu tập cao cấp của giai đoạn "Thành tựu", là giai đoạn tối thượng du già ( sẽ bàn sau). Tại vì khi xử dụng tri thức thì tự nhiên đủ mọi thứ quan niệm mê tín sẽ khởi lên. Tâm bạn trở nên quá bận bịu và rung động theo năng lượng cục bộ của những khái niệm ấy. Rồi vì mỗi trạng thái tâm đều tương ưng với khí lực của nó, nên hệ thần kinh vi tế của bạn cũng rung động vì những luồng khí lực chống nhau. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến công việc của bạn - kiểm soát hệ thần kinh trong pháp hành ở giai đoạn Thành tựu - mà còn có thể dẫn đến một tình trạng đau đớn mà người Tây tạng gọi là "lung" nghĩa là năng lượng bị ứ nghẽn ở tim. Như với mọi giai đoạn của con đường tu tập, có lúc ta phải xử dụng tri thức, mà cũng có một lúc phải gạt tri thức qua một bên.

    TRẠNG THÁI BARDO VÀ BÁO THÂN

    Với người phàm tục, khi ánh sáng trong suốt chấm dứt, tâm họ kinh quá những ảo cảnh của kinh nghiệm pháp thân vừa mô tả, nhưng theo trật tự ngược lại, từ bóng tối vô thức đến diễn biến của ảo tượng. Khi tiến trình lộn ngược này bắt đầu, tâm ta lìa khỏi xác và cái chết mới thực sự xảy ra. Liền sau đó chúng ta đi vào trạng thái trung gian gọi là bardo, thân trung ấm, và ở đây cũng thế, tâm ta hoàn toàn ở ngoài tầm kiểm soát. Với tốc độ đi nhanh của tâm ý, ta bị đẩy từ cảnh này sang cảnh khác, như trong một giấc mộng. Nhưng mộng này thường là ác mộng. Khi thì do dấu ấn của ác nghiệp và vọng tưởng của ta trong quá khứ, những cảnh tượng kinh hoàng hiện ra làm cho ta cuống cuồng trốn chạy. Khi thì những hình ảnh quyến rũ khởi lên làm cho ta khát khao nồng nhiệt chỉ để thất vọng ê chề. Chung quy đấy là những gì đã từng xảy đến lúc ta còn sống và sở hữu một thân xác vật lý phàm tình: cuộc đời ta luôn luôn đi tìm an ổn, chạy trốn cái này, chạy theo cái khác. Nhưng bây giờ ta lâm vào trạng huống càng kinh khủng hơn. Vì cái thân trung ấm vô hình của ta chỉ làm bằng luồng khí lực vi tế nên nó có thể xuyên qua vật chất không bị chướng ngại, do vậy ta nhanh chóng nhập vào bất cứ trạng huống nào mà cái tâm sợ hãi tham đắm ném ta đến.

    Đấy là kinh nghiệm thân trung ấm thông thường, nhưng ở đây cũng vậy, với hành giả có tu luyện, họ có thể chuyển kinh nghiệm ấy thành con đường đưa đến giác ngộ. Vì đã thuần thục trong pháp quán "thân huyễn như ráng cầu vồng", nên khi ánh sáng trong suốt của sự chết vừa tắt, hành giả liền mang một thân trong suốt bằng quang sắc [ánh sáng do tâm tạo] thay vì cái thân trung ấm mê muội. Với cách ấy, họ chuyển hóa kinh nghiệm trung ấm phàm tình thành kinh nghiệm báo thân giác ngộ, hay thân phúc lạc.

    TÁI SINH VÀ THÂN ỨNG HÓA

    Hệt như tiến trình chết và trạng thái trung ấm đều bị thúc bách bởi năng lực vô minh chấp thủ, sự tái sinh của ta cũng vậy, ta không chủ động được. Cuối cùng ta bị những ngọn gió nghiệp thổi giạt đến nơi mà cha mẹ tương lai của mình đang giao hợp. Vừa ham muốn lại vừa ghê tởm, ta ngất xỉu và liền nhập vào thai mẹ. Từ khởi điểm bất tịnh ấy, một đời sống ô nhiễm đau khổ tiếp theo. Cái thân phối hợp từ tinh cha huyết mẹ phải chịu khổ sinh già bệnh chết, trong khi tâm ta tiếp tục dòng thức tâm đời trước, do tham sân si thúc đẩy, cứ tiếp tục tạo thêm nhân tố khổ đau và bất mãn.

    Một hành giả tu cao có thể chuyển hóa kinh nghiệm tái sinh này, như đã chuyển hóa cái chết và trạng thái trung ấm. Thay vì bị hôn mê, bị chuyển từ trung ấm đến tái sinh do nỗi bám víu sợ hãi thúc bách, hành giả mật tông thiện xảo có thể chọn tái sinh một cách đầy ý thức. Nhờ đã tu luyện để vượt qua các tướng phàm tình, họ có thể xem cha mẹ tương lai như thần nam thần nữ, và chính mình cũng là một vị thần con. Tùy theo mức độ làm chủ và loại pháp mà họ tu luyện, họ còn có thể tái sinh vào một tịnh cảnh, cảnh giới trong đó mọi sự đều giúp cho việc chứng đắc giác ngộ. Ngay dù sinh vào địa cầu này, họ cũng có thể chọn hoàn cảnh thích hợp để tiếp tục tu hành cho đến khi đạt toàn giác. Với tâm hoàn toàn tỉnh giác, được kiểm soát, thì tái sinh thông thường có thể được chuyển hóa thành kinh nghiệm giác ngộ của thân ứng hóa, 1 trong 3 thân Phật.

    Trên đây chỉ là mô tả ngắn gọn cách những hành giả mật tông chuyển hóa cái chết, trạng thái trung ấm và tái sinh thành ra ba thân của giác ngộ, nhưng cũng đủ cho ta một ý niệm rõ ràng về những gì nằm trong tầm của pháp hành trì mật tông tối thượng. Từ trước đến nay chúng ta đã bị tràn ngập bởi những năng lực vô minh, nghiệp và vọng tưởng mà hậu quả là ta phải luân chuyển mãi hoài trong vòng sinh, chết rồi tái sinh không được chọn lựa, không được kiểm soát. Khi ta chưa thay thế vô minh bằng trí tuệ để chuyển hóa ba sự cố tái diễn không ngừng này thành kinh nghiệm giác ngộ của một vị phật, thì ta vẫn phải tiếp tục xoay vần trong vòng lẩn quẩn ấy mãi mãi, đi tìm hạnh phúc mà chỉ có rước lấy tuyệt vọng khổ đau.

    CẮT ĐỨT TÁI SINH

    Không khó gì để hiểu rằng sự chết, trạng thái trung ấm và tái sinh là những kinh nghiệm đau đớn, căn nguyên mọi rắc rối của chúng ta. Vì sống, chết rồi tái sinh bằng một thân tâm không được kiểm soát, nên ta phải trải qua nhiều nỗi khổ vật lý và tâm lý trong đời sống thường ngày. Nói đơn giản, nếu trước hết ta đừng sinh ra đời, thì đâu có những rắc rối ấy ! Nhờ thực hành pháp mật tông thượng thừa, chúng ta có thể hoàn toàn tránh được sự sinh ra kiểu đó, cùng với tất cả mọi vấn đề do nó gây nên.

    Nhiều người đâm ra thắc mắc khi nghe nói tu mật tông có thể cắt đứt tái sinh. Họ nghĩ : "Điều ấy có nghĩa lý gì ? Tại sao tôi phải từ bỏ cơ hội trở lại trần gian này? Có phải con đường tu tập ấy đưa tới chỗ hoàn toàn hủy diệt? Nếu thế thì tôi chả cần."

    Để khỏi thắc mắc, ta nên nhận chân rằng "cắt đứt luân hồi" có một ý nghĩa đặc biệt là giải thoát khỏi sự tái sinh không được kiểm soát. Ta có thể tu mật tông một cách thành công, mà vẫn trở lại cuộc đời này. Quả thật, với bồ đề tâm đầy bi mẫn, ta không thể nghĩ đến chuyện bỏ mặc mọi người. Bồ đề tâm giục ta phải trở lại để làm lợi ích cho họ. Chính đức Thích Ca Mâu Ni đã làm thế, cho nên sự sinh ra của ngài tuyệt nhiên không là vấn đề, mà lại là một nguồn lợi lạc vô biên. Trong khi đó, sự tái sinh của chúng ta lại xảy ra ngoài kiểm soát của mình, và chỉ có làm cho chu kỳ khổ đau tiếp tục mãi mãi. Chính chu kỳ đau khổ này mới cần cắt đứt. Về sự chết và thân trung ấm cũng vậy; chính cái kinh nghiệm không được kiểm soát về những tiến trình này mới cần trừ khử, cần chuyển hóa.

    Cuộc đời không tự chủ của ta, bị tham sân si làm chủ, đương nhiên đưa đến cái chết không được kiểm soát. Trong tiến trình mê muội này, cũng những vọng tưởng tham sân ấy làm phát sinh những hỗn mang rắc rối lớn hơn. Tâm ta bị tràn ngập bởi những ảo cảnh liên hệ đến sự tan rã của từng yếu tố thân xác, và ta đi vào trạng thái trung ấm với nỗi hãi hùng, khát khao kinh khủng. Tại đấy, vì ta có một "thân do ý sinh" chứ không phải thân vật lý, nên những mê tín của ta càng có một ảnh hưởng lớn đối với ta hơn nữa. Cứ mỗi vọng tưởng nổi lên trong tâm là ta liền bị ném ngay vào hoàn cảnh mê vọng tương ứng. Điều này thật kinh hoàng, và khi cuối cùng ta thấy hình ảnh cha mẹ tương lai, thì khát vọng được an ổn thúc đẩy ta nhập thai để tái sinh, và thế là chu kỳ đau khổ bắt đầu trở lại. Ta không tìm được ở đâu một chốn an nghỉ thanh bình. Niềm an lạc hạnh phúc mà ta ao ước luôn luôn tuột khỏi tầm tay. Đây là triệu chứng của cuộc tồn sinh trong cõi luân hồi sinh tử .

    Mục đích hành trì mật tông là giải thoát ta khỏi những rắc rối không ngừng tái diễn ấy bằng cách giúp ta rứt ra khỏi vòng lẩn quẩn. Nhờ luyện tâm vượt qua sự khống chế của các giả tướng mê muội thông thường, và nhờ chuẩn bị trước những gì mà cuối cùng ta sẽ phải gặp khi đời sống này kết thúc đời khác bắt đầu, ta có thể kinh nghiệm ba thân tỉnh giác thay vào ba trạng thái mê muội thường tình về chết, trung ấm và tái sinh.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  9. #9

    Mặc định

    bài của bác 123456 là dẫn nhập vào pháp kalachara nhưng nói hơi nhiều về trạng thái chết thân trung ấm và tái sinh,đó là một thành tựu của pháp kalachara
    :praying:2OM AH HUM:praying:2

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi soul_master Xem Bài Gởi
    Ba yếu tố chính trong sự tu hành của Mật Tông Tây Tạng là Từ Bi, Trí Tuệ, Dũng mãnh.
    Mật tông có bốn bậc khác nhau từ cao xuống thấp là:

    Tối Thượng Mật Tông
    Thiền Quán Mật Tông
    Nghi Thức Mật Tông
    Lễ Bái Mật Tông

    Tối Thượng Mật Tông: Là đã đầy đủ các pháp hành trì của ba bậc thấp hơn và thành tựu đầy đủ các pháp quán tưởng chuyển hoá thân thành vị Phật Bổn Tôn được thành tựu Tam Mật tức là Thân Mật, Ngữ Mật, Ý Mật.

    Thiền Quán Mật Tông: Là đã đầy đủ các pháp hành trì của hai bậc thấp hơn. Hành giả phải biết rõ pháp tu quán tưởng chuyển hoá thân thành Đức Phật Bổn Tôn. Hành giả phải biết rõ phương pháp tu Quán Tưởng Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các Chân Ngôn, biết rõ các Thủ Ấn của bậc này, biết phương pháp tạo đồ hình Mạn Đà La, biết các Chân Ngôn, các nghi thức về làm Pháp Quán Đảnh, làm lễ cúng dường và còn rất nhiều nghi thức khác nữa v.v. của bậc Mật Tông này

    Nghi Thức Mật Tông: Là đã đầy đủ các pháp hành trì của bậc thấp hơn. Hành giả phải biết rõ phương pháp tu Quán Tưởng Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các Chân Ngôn, biết rõ các Thủ Ấn của bậc này, biết phương pháp tạo đồ hình Mạn Đà La, biết các Chân Ngôn, các nghi thức về làm Pháp Quán Đảnh, làm lễ cúng dường và còn rất nhiều nghi thức khác nữa v.v. của bậc Mật Tông này

    Lễ Bái Mật Tông: Là hành giả phải tu hành đầy đủ các pháp lạy sám hối, trì tụng. Hành giả phải biết rõ phương pháp tu Quán Tưởng Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các Chân Ngôn, biết rõ các Thủ Ấn của bậc này, biết phương pháp tạo đồ hình Mạn Đà La, biết các Chân Ngôn, các nghi thức về làm Pháp Quán Đảnh, làm lễ cúng dường và còn rất nhiều nghi thức khác nữa v.v. của bậc Mật Tông này

    Trong mỗi bậc Mật Tông lại có hai phần là Nội Mật và Ngoại Mật.
    Các Kinh về Thiền Quán Mật Tông và Tối Thượng Mật Tông thì chỉ có ở trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng mà thôi.

    Không phải là hễ ai tu theo Mật Tông thì cũng thành Phật trong một đời cả mà chỉ có các vị tu theo pháp Tối Thượng Mật Tông lúc được thành tựu viên mãn thì mới có thể chứng quả Phật trong hiện đời.

    Pháp Tối Thượng Mật Tông rất là thâm sâu vì vậy một người muốn tu hành pháp Tối Thượng Mật Tông thì phải có căn bản vững chắc về Mật Tông của các bậc dưới rồi và hành giả trước hết phải nhận được Pháp Quán Đảnh của một vị Kim Cang Pháp Sư đã thành tựu về Pháp Tối Thượng Mật Tông truyền dạy. Hành giả cũng phải có sự chứng nhập thâm sâu về Tánh Không và Bồ Đề Tâm thì mới có thể tu hành Pháp Tối Thượng Mật Tông .
    cảm ơn soul master bạn có thể cho hỏi về cái căn bản Mật Tông được không ??
    Khi mình chưa hoac không nhận được quán đảnh của một vị Kim cang Pháp Sư thì hành trì như thế nào ???

    Chúc mọi người vui vẻ!!!

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi neo Xem Bài Gởi
    bài của bác 123456 là dẫn nhập vào pháp kalachara nhưng nói hơi nhiều về trạng thái chết thân trung ấm và tái sinh,đó là một thành tựu của pháp kalachara
    Mình cũng đọc qua vài lần về bài của 123456 trên mạng rồi và mình tự hỏi một câu làm sao để vào trạng thái đó được .???

    Chúc mọi người vui vẻ!!!

  12. #12

    Mặc định

    muốn vào trạng thái đó thì tu khoảng 10 kiếp nữa,còn mong cầu một đời thành phật thì là vọng tưởng,muốn tái sanh như các vị rinpoche thì càng vọng tưởng ,tu là sữa chứ không phải tu là để mong cầu điều này điều nọ,còn bạn muốn biết trạng thái thân trung ấm tái sanh như thế nào thì tìm đọc cuốn chết thân trung ấm và tái sanh còn muốn luyện thì tìm cuốn các pháp thực hành của naropa mà đọc,bên trên tôi ,bác soul,bác 123...9 cũng chỉ là giới thiệu và nói cho bạn biết,còn bạn muốn tái sanh thì là một mong cầu hy hữu ,bạn cần biết tu là sửa,sửa tâm ,sửa tánh,sửa bản thân,sửa con người,chứ không phải tu là mong cầu tài bảo,mong cầu trường sanh,mong cầu tái sanh hay mong cầu hy hữu,vì sao những vị rinpoche lại tái sanh,thật sự là vì một hành giả mật thừa chỉ mong chứng bồ tát chứ không mong cầu thành phật(trong tam muội da có ghi) và các vị tái sanh là để thực hiện con đường bồ tát đạo,phổ độ chúng sanh.
    :praying:2OM AH HUM:praying:2

  13. #13

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi neo Xem Bài Gởi
    muốn vào trạng thái đó thì tu khoảng 10 kiếp nữa,còn mong cầu một đời thành phật thì là vọng tưởng,muốn tái sanh như các vị rinpoche thì càng vọng tưởng ,tu là sữa chứ không phải tu là để mong cầu điều này điều nọ,còn bạn muốn biết trạng thái thân trung ấm tái sanh như thế nào thì tìm đọc cuốn chết thân trung ấm và tái sanh còn muốn luyện thì tìm cuốn các pháp thực hành của naropa mà đọc,bên trên tôi ,bác soul,bác 123...9 cũng chỉ là giới thiệu và nói cho bạn biết,còn bạn muốn tái sanh thì là một mong cầu hy hữu ,bạn cần biết tu là sửa,sửa tâm ,sửa tánh,sửa bản thân,sửa con người,chứ không phải tu là mong cầu tài bảo,mong cầu trường sanh,mong cầu tái sanh hay mong cầu hy hữu,vì sao những vị rinpoche lại tái sanh,thật sự là vì một hành giả mật thừa chỉ mong chứng bồ tát chứ không mong cầu thành phật(trong tam muội da có ghi) và các vị tái sanh là để thực hiện con đường bồ tát đạo,phổ độ chúng sanh.
    10 kiếp hay 100 kiếp có gì khác nhau.Bạn nói rất đúng về vấn đề tu,!!! mình thì tiếng nước ngoài không giỏi lâi lâu bạn lại thêm zô một tiến nước ngoài làm mình phải ra google.com để dịch:D

    còn bạn muốn biết trạng thái thân trung ấm tái sanh như thế nào thì tìm đọc cuốn chết thân trung ấm và tái sanh còn muốn luyện thì tìm cuốn các pháp thực hành của naropa mà đọc
    Sống là để tìm hiểu và học hỏi và trải nghiệm mình nghĩ Phật, Bồ Tát, Sư Thích Quảng Đức đều là những cái tên nhưng cái tâm cái hành của các vị là vì những chúng sanh khác mà làm.

    ,còn mong cầu một đời thành phật thì là vọng tưởng

    Mình đọc kinh mình hành thiền chỉ mong sao cho tâm được yên và để có thể giúp được những người có thể giúp Chứ không mong cầu thành Phật hay Bồ Tát mình nghĩ mình chỉ là người được sinh ra và được nghe những câu chuyện về những con người vĩ đại và linh thiêng vì họ có thể giúp mọi người đi theo tâm thiện dù chỉ nghe danh hiệu của các Ngài .Mình chỉ mong cầu những người xung quanh mình và cho chính bản thân mình sống tốt hơn vui vẻ hòa thuận trên dưới không bị tâm ác che lấp

  14. #14

    Mặc định

    còn mong cầu một đời thành phật thì là vọng tưởng
    ----> Dn quen nhiều ng tu Tịnh Độ thì thấy họ thường đặt đay làm tiêu chí để tu, và khi hói ai đó họ sẽ hỏi tu để làm gì nếu k muốn thành Phật...

    Tuy nhiên DN nghĩ tùy vào pháp môn, k thể nói cái gì sai, cái gì đúng đc, chỉ khác nhau là cách nhìn của mỗi ng vò 1 sự việc thôi.
    Ngoài tâm không động
    Ðộng chẳng phải tâm
    Tâm chẳng phải động
    Ðộng vốn không tâm
    Tâm vốn không động
    Ðộng không lìa tâm
    Tâm chẳng lìa động
    Ðộng là dụng của tâm
    Dụng là cái tâm động

  15. #15
    Đai Nâu Avatar của soul_master
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Sen Hồng Tám Cánh
    Bài gởi
    353

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vô Trí Xem Bài Gởi
    cảm ơn soul master bạn có thể cho hỏi về cái căn bản Mật Tông được không ??
    Khi mình chưa hoac không nhận được quán đảnh của một vị Kim cang Pháp Sư thì hành trì như thế nào ???

    Chúc mọi người vui vẻ!!!
    bạn có thể đọc quyển mật tông phật giáo tinh hoa yêu lược để tìm hiểu thêm.
    http://www.mediafire.com/?b7zsmsaa5jc62m9
    Sao cứ nghĩ trần gian là cõi mộng,
    Để Trái Tim sống ảo mà lại đau.
    Vít đời hỏi nhỏ một câu,
    mai xuôi cõi thật có nhau làm gì.

  16. #16

    Mặc định

    không nên đọc mật tông tinh hoa yếu lược người mới vào nếu đọc sẽ gay ra ảo nhiều lắm cần tìm hiểu từ đầu,nguồn gốc,dẫn nhập,lịch sử,hệ phái truyền thừa ......sau khi tìm hiểu nhiều sẽ chuyển qua đọc kinh đại thừa...trong kinh đại thừa sẽ có nhiều kiến thức,từ đó chuyển qua kinh tạng mật thừa,rồi từ từ tu tập sẽ ko lạc hướng
    :praying:2OM AH HUM:praying:2

  17. #17

    Mặc định

    cỏn về phần thêm thì gửi bạn cái này coi chơi

    Đại cương Kim Cương Thừa 06/12/2008 09:10 (GMT+7)Kích cỡ chữ:
    (Gỉang viên Đ.Đ.THÍCH GIÁC HIỆP)

    Học Viện Phật giáo Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh



    1. GIỚI THIỆU

    Tantra của Phật giáo sử dụng thuật ngữ và tư tưởng Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là của Trung luận và Du-già tông hoặc đôi khi của A-tỳ-đàm. Kim cương thừa còn được gọi với những tên khác nhau tên thông dụng là Mật tông. Tantra có nghĩa là sợi giây, còn có nghĩa là gồm thâu tất cả mọi vật. Tantra còn chỉ cho cách thức thực hành thiền định và nghi lễ. Trung quốc dịch có 2 nghĩa: 1) bí mật: nói lên tính bí truyền của giáo lý này. Giáo lý không thể diễn đạt bằng ngôn từ bình thường. 2) chân ngôn: dịch từ: dhāraṇī hay matra.

    2. LỊCH SỬ:

    Ở Ấn độ khi đề cập đến Mật tông ta phải hiểu rằng có 2 loại, một là của Ấn độ giáo, hai là của Phật giáo.

    2.1 Mật tông của Ấn độ giáo:

    Tư tưởng Mật tông bắt nguồn từ thời cổ đại Ấn độ. Trước khi Phật giáo ra đời, nó đã trở thành hình thức tôn giáo và chiếm vị trí quan trọng trong xã hội Ấn độ cổ. Khi nó kết hợp vào Phật giáo, nó đạt được sự phát triển hoàn thiện. Giới tu sĩ hình thành giai cấp thượng đẳng, Brāhmaṇas. Các tu sĩ, thực hành chú thuật, tụng Phệ-đà mantras theo hình thức phát âm rất khó. Người thường không bao giờ có thể phát âm đúng được.

    2.2 Mật tông Phật giáo:

    Một trong những điểm ưu việt của Tantra Phật giáo là sự tổng hợp các yếu tố đa dạng của văn hoá Ấn độ. Bất cứ một phong trào tôn giáo nào ở Ấn độ Mật tông Phật giáo cũng rút ra được một vài điểm có giá trị.

    Người thầy mới có đủ tư cách truyền khẩu, giải thích trình tự và ấn chứng cho học trò. Người Thầy giống như một vị Phật. Do vậy, Mật tông khẳng định tầm quan trọng của khẩu truyền từ thầy cho trò. Nếu người thầy thấy họ trò không hợp căn cơ thì sẽ không truyền. Các tông phái Phật giáo khác cho rằng nhiễm ô là chướng ngại chính đối với Bồ-đề, và chúng ta phải hoàn toàn chế ngự chúng.

    Tāntras và mantras được thực hành từ thời đức Phật, nhưng chúng ta không có sử liệu về các sự kiện này. Đến bây giờ chúng ta có một vài dữ liệu về thái độ của đức Phật đối với việc thực hành Tāntra, chỉ có một vài đều cập trong văn chương Pāli, cho nên chúng ta không biết thời gian chúng được giới thiệu vào Phật giáo. Chúng ta chỉ biết một số tác phẩm nói về Dāraṇīs ắt hẳn tồn tại đầu kỷ nguyên Tây lịch. Trong Phật giáo chúng ta biết đức Phật cấm việc thực hành Dāraṇīs và bùa. Thế nhưng trong một số tác phẩm Đại thừa, mantras và Dāraṇīs được nói đến, như kinh Pháp hoa, Hoa nghiêm, Bát-nhã. Trong một số kinh khác chúng được đề cập với số lượng lớn.

    Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 Mật giáo đã trở thành dòng truyền chính của Phật giáo Ấn độ.Trong giai đoạn đại đế Pāla (thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12 TL.), Tantra Phật giáo phát triển mạnh, đến khi Hồi giáo xâm lăng trong thế kỷ 12 chúng đã tiêu diệt tông này. Mật tông phát triển sang đông nam Á và Tây tạng.

    Giới Phật giáo thường phân biệt 2 loại Mật tông trong Phật giáo: 1) Thuần Mật (純 密): Thuần Mật là Mật tông theo lời dạy trong pháp thân của Đại Nhật Phật và trong kinh Đại Nhật (Mahāvairocana-sūtra) và kinh Kim Cương Đỉnh (Tattvasamgraha) 2) Tạp Mật (雜 密): Là Mật tông trộn lẫn những trường phái Mật giáo với nhau.

    3. THÁNH ĐIỂN:

    Thánh điển Mật giáo có 2 khuynh hướng: chú trọng đến chân đế và tục đế (1) Chân đế: dạy những phương pháp giúp phát khởi tâm Bồ-đề. (2) Tục đế: dạy chúng ta làm thế nào để đạt được những ước muốn thế tục như: an toàn, thịnh vượng v.v. Thực sự mục đích chân thật của Mật tông là bản tính siêu việt, tức chân đế còn những khuynh hướng khác chỉ là phương tiện để đưa chúng sanh bình thường đến giáo lý‎ Phật giáo. Thánh điển Tantra Phật giáo có thể được viết vào thế kỷ thứ 2 TL hoặc sớm hơn. Kinh Bí Mật Tập Hội (Guhyasamāja) được viết vào thời ngài Vô Trước, thế kỷ thứ 3. Ở Trung quốc và Nhật bản kinh Đại Nhật, và kinh Kim cang Đảnh được xem là nền tảng của Mật tông thuần túy. Kinh Đại Nhật theo bản dịch Hán ngữ có 36 chương và 7 quyển, bao gồm 2 phần, (1) phần giáo lý, chương một, giới thiệu giải thích đầy đủ giáo lý quan trọng. và (2) Phần thực hành, chương 2 và những chương còn lại. Có thể nói nội dung chính yếu của giáo lý là biết được tâm thật của mình. Tâm của chúng ta là tâm Bồ-đề thanh tịnh. Mật tông tuyên bố thẳng tất cả những ai chưa ngộ đều là Phật. Chủ đích của kinh Đại Nhật là bày tỏ giá trị tuyệt đối của các pháp.

    4. TRIẾT HỌC VÀ BIỂU TƯỢNG:

    Phong trào Tantra tiêu biểu cho sự sửa đổi toàn diện giá trị thực hành, và biểu tượng của Phật giáo. Là một mô hình mới, Tantra thúc đẩy các hoạt động như nghệ thuật, văn chương. Mật giáo chủ trương thành Phật trong đời này. Thực hành của Mật tông bắt buộc hành giả phải thấy bản chất mọi vật và kinh nghiệm là thanh tịnh và hoàn thiện. Một số phương pháp thực hành của Mật tông ngay tức khắt phá vỡ tư tưởng nhị nguyên. Những phương pháp này đôi khi tạo ra những cú shock tinh thần, mọi khía cạnh của tâm đều được chiếu khai. Do vậy, Mật tông thường được gọi là phương pháp tu hành nhanh (tức thân thành Phật). Mật tông có thể thực hành trong mọi khung cảnh. Mặc dù Mật tông đưa ra nhiều phương pháp thực hành, không có một phương pháp duy nhất nào được quy định một cách chính thức.

    4.1 MANTRAS

    Mantras thường là một cụm từ không có nghĩa, mang những âm tiết huyền bí, tạo nên xương sống của Tantra Phật giáo. Chúng có nhiều loại. Mantra của Kim cương thừa dường như là một sự phát triển của Dhāraṇīs. Theo H.Kern, Dhāraṇīs dường được giới thiệu vào Phật giáo cho lợi ích những người căn cơ thấp. Mật tông cho rằng mantra có những thần lực kỳ diệu, thông qua việc hành trì mantra, năng lực được tạo ra có thể làm kinh ngạc thế giới. Năng lực của mantra có thể đạt quả vị Phật. Công đức trì mantra vô lượng, chư Phật không thể đo lường. Nó có thể làm trong sạch ngũ nghịch tội.

    Mantra có được hiệu nghiệm chỉ khi nào áp dụng đúng với những luật lệ. Thật sự, các luật lệ này rất nghiêm khắc, chi tiết, và nhiều. Một người bình thường khó có thể thực hành đúng. Ví dụ, Mantra không được tụng nhanh hoặc chậm. Tâm hành giả lúc hành trì phải lìa hết vọng niệm nhiễm ô và phải hoàn toàn tập trung vào từng chữ của mantra, phải tụng đến lúc không còn cảm thấy mỏi mệt. Mục đích của Tantra là để đạt được sự giải thoát và hoàn thiện (siddhi), thịnh vượng và an lạc ở đời này.

    4.2 KIM CƯƠNG XỬ (Vajra)

    Tiêu biểu cho bất hoại, đôi lúc còn được so sánh với chất kim cương. Trong nghi lễ Mật tông, Vajra thường được cầm bằng tay phải và khánh ở tay trái. Trong sự kết hợp này, vajra tượng trưng cho phương pháp, an lạc, và tính dương và khánh tượng trưng cho trí tuệ, tánh không, và tính âm.

    4.3 ẤN KHẾ (MUDRā):

    Để hoàn thiện việc tu tập, hành động thân, khẩu, ý của hành giả phải được chuyển biến. Ví dụ tiêu biểu nhất của hành động của thân là việc thực hành mudrā. Mudra là bắt ấn, quyết. Đây là những cử động và vị trí của tay và ngón tay có những ý nghĩa tượng trưng cao siêu. Ví dụ bắt nhiều kiểu ấn tiêu biểu cho nhiều loại như: cúng dường, thuyết pháp hay thiền định. 10 ngón tay tiêu biểu cho 10 lực (đàn tức bố thí, nhẫn, tấn, giới, thiền, tuệ, nguyện, tiện, lực, trí). Ấn tiêu biểu cho thể của pháp giới. Cho nên đôi khi chúng ta nói 10 ngón tay biểu thị cho toàn thể pháp giới. Sự di chuyển và biến đổi vị trí của 10 ngón tay nói lên thiên sai vạn biệt.

    4.4 CHUỖI:

    Chuỗi dùng trong Tantra Phật giáo có nhiều mục đích. Tuỳ theo mỗi mục đich và câu mantra mà số lượng hạt và chất liệu khác nhau. Chuỗi làm bằng hạt Bồ-đề hay gỗ có thể sử dụng cho mọi mục đích, tụng mọi loại mantra, và mọi loại cầu nguyện. Giây xâu chuỗi phải 9 giây, tượng trưng cho Kim Cương Tát-đỏa và 8 vị Bồ-tát. Hạt chuỗi đứng cuối tiêu biểu cho trí tuệ nhận rõ vô minh và hạt hình trụ phủ trên nó là tính không, cả hai tượng trưng cho đánh bại mọi đối thủ.

    5. CÁC LOẠI MẠN ĐÀ/TRÀ LA maṇḍala

    Trọng tâm trong nghi lễ và biểu tượng của Mật tông là maṇḍala. Maṇḍala là một vòng tròn huyền bí hoặc hình cầu được vẽ trên đất hoặc sơn trên bệ của cột hay bục để tiêu biểu cho vũ trụ tâm lý‎ và vật lý. Nó thường tiêu biểu cho một thành trì, pháo đài chống lại sự xâm nhập và chỗ chứa đựng sự thịnh vượng và quyền lực. Mandala tượng trưng cho cung điện thanh tịnh, một khoảng không tâm linh thanh tinh không chướng ngại, không nhiễm ô.

    Trong thiền định, maṇḍala là một sự chiếu tỏa của thế giới nội tâm, sự soi sáng của vũ trụ làm cho những chuyển động của hành động thực tế hàng ngày vào một điểm thiền định và sự soi sáng của khả năng vô tận của sự giác ngộ. Nó cũng có thể chuyển tải dòng giác ngộ thâm nhập vào mọi khía cạnh của thế giới. Mandala không phải chỉ có lý thuyết mà còn là thực hành. Như vậy nó là công cụ (yantra). Có rất nhiều loại mandala tuỳ thuộc vào bản tánh của vị thần trung tâm. Phần lớn các loại mandala là ngũ Phật. Loại này xuất hiện trong Tantra xưa nhất.

    5.1 Nhị Mạn đà la (Kim, Thai lưỡng bộ):

    5.1.1 Thai tạng thế giới mạn đà la:

    Nó tiêu biểu Đại nhật (Mahāvairocara) như lý‎ thân. Nó tiêu biểu cho lòng từ, sự phát triển và khả năng giác ngộ. Mỗi chúng sanh được tin tưởng rằng có tiềm năng hay hạt giống Phật nó có thể được nuôi dưỡng trong thai tạng từ bi này để giúp cho sự giác ngộ.

    5.1.2 Kim cang giới mạn trà la

    Nó biểu thị cho trí đức của Như lai không bị bất cứ vật gì làm tổn hoại, có công năng phá trừ tất cả phiền não.

    5.2 Tứ mạn đà la:

    5.2.1 Đại mạn đà la: Đại có nghĩa là thù thắng, viên mãn. Còn gọi là Đại ấn, Đại trí ấn. Vũ trụ do Lục đại (tức 6 đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức) hình thành. Tất cả sắc tướng, pháp trần gọi là Đại mạn đà la.

    5.2.2 Tam muội da mạn đà la: còn gọi là Tam muội da ấn, Tam muội da trí ấn.

    5.2.3 Pháp mạn trà la: Còn gọi là Pháp trí ấn, chủng tử mạn trà la. Nói chung, tất cả các pháp đều gọi là pháp mạn đà la.

    5.2.4 Yết mạn trà la: Còn gọi là yết ma trí ấn, nghĩa là đức nghiệp, công năng tạo tác hay hoàn thành công việc. Đây là oai nghi, oai đức của chư Phật và Bồ tát, như hiện ngàn vạn ức thân, thực hành nhiều việc công đức, tuỳ căn cơ hoá độ chúng sinh.

    6. TỨC THÂN THÀNH PHẬT:

    Mật tông chủ trương tức thân thành Phật (即身成佛), tức thành Phật trong đời này. Tông này chủ trương nhờ tam mật gia trì cho nên có thể thành Phật ngay trong đời này. Có 3 loại thành Phật (三種成佛)

    6.1 L‎ý cụ thành Phật (理具成佛): Nghĩa là tất cả chúng sanh thân, tâm là bổn thể Kim cang thai tạng. Phàm phu xưa nay tuy luân hồi trong lục đạo nhưng đều có đủ bản giác bồ đề. Chúng sanh cùng với Phật đồng một Pháp thân

    6.2 Gia trì thành Phật (加持成佛): Nghĩa là tất cả chúng sanh có đủ bản giác công đức, lại tu tập Du-già, cùng chư Phật hỗ tương cảm ứng. Đây là tam mật gia trì. Do vậy ngay thân trong đời này đạt được diệu hạnh của Phật, lại đem diệu hạnh này để khai hiển chúng sanh.

    6.3 Hiển đắc thành Phật (顯得成佛): Nghĩa là tu hành thành mãn, chứng nhập vô thượng bồ-đề. Xưa nay chúng sinh có đủ lý‎ trí, vạn đức, đến giai đoạn này các công đức hoàn toàn khai hiển, nghĩa là hiển đức thành Phật

    6.4 Tam Mật

    6.4.1 Thân mật: Bất cứ hình tướng gì cần thiết làm cho chúng sanh thuần phục. Thân, tay bắt ấn (mudrā)

    6.4.2 Khẩu mật: Lời nói đúng chính xác với từng loài chúng sanh. Khẩu, miệng đọc thần chú (mantra)

    6.4.3 Ý mật: Biết tất cả thật tướng của các pháp. Tâm, nhập định (samādhi).

    7. NGŨ PHẬT:

    5 vị Phật tiêu biểu cho sự diệt trừ 5 loại phiền não.

    1) Đại Nhật (Vairocana)- trừ- vô minh

    2) A-súc-bệ Phật, dịch nghĩa là Bất động Phật (Akṣobhya)- trừ -thù hận

    3) A-di-đà Phật (Amitābha)-trừ-tham ái

    4) Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava)-trừ-phỉ báng

    5) Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi) -trừ-đố kỵ.

    8. HÀNH TRÌ và QUẢ CHỨNG:

    8.1 Quán đỉnh:

    Tức dùng nước rưới trên đỉnh đầu. Ấn độ cổ đại vua lên ngôi hoặc khi lập thái tử, quốc sư dùng nước tứ hải để trong bình báu rải lên đầu người sắp nhậm chức, biểu thị chúc phúc. Căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa, có ghi rằng Bồ tát ở địa thứ 9 bước vào địa thứ 10, chư Phật trí thuỷ để quán đỉnh để chứng minh. Mật tông dùng nghi thức quán đỉnh để xác chứng địa vị truyền thừa của đệ tử. hành giả trước phải hành Tứ quy y, thọ pháp quán đỉnh mới chính thức nhập môn.

    8.1.1 Sự nghiệp quán đỉnh: Trước lễ pháp quán đỉnh 7 ngày người thọ pháp phải chí thành lễ bái, sám hối. Vị thầy trong 7 ngày cũng phải trì tụng mật chú, thiết lập đàn tràng quán đỉnh, cúng dường rộng rãi sau đó mới tiến hành lễ quán đỉnh.

    8.1.2 Bí ấn quán đỉnh: Đệ tử học pháp tâm niệm kiên cố, tin tưởng mật hạnh, truyền trao mật ấn.

    8.1.3 Tâm thọ quán đỉnh: Vị thầy thành tựu Tam muội, trong tâm tưởng kiến lập đàn tràng lấy tâm tưởng quán đỉnh.

    8.1.4 Quang minh quán đỉnh: Chư Phật, Bồ-tát phóng hào quang để gia trì cho hành giả.

    8.1.5 Cam lồ quán đỉnh: Kiết ấn, tụng thần chú trong nước, rải nước trên người hành giả.

    8.2 Ngũ tướng thành thân quán:

    8.2.1 Thông đạt Bồ-đề tâm: Trước tiên tu tập điều phục tâm, sau đó tu quán tính không, hoặc tu thập duyên câu sinh quán, và cuối cùng thông đạt được tự tánh vốn có đủ tâm Bồ-đề.

    8.2.2 Tu Bồ-đề tâm: Do tâm Bồ đề bị phiền não che phủ, nên quán lìa bỏ các loại phiền não cấu nhiễm, đến mức độ quang minh hiển hiện, như mây trôi trăng sáng.

    8.2.3 Thành Kim cương tâm: Để cho tâm Bồ đề kiên cố, hành giả quán tưởng mặt trăng tròn đầy, trong đó quán tưởng có hoa sen và chày kim cang. Quán tưởng chày kim cang lớn dần đồng với vũ trụ, và lại quán chày kim cang nhỏ dần. Quán chày kim cang lớn dần gọi là ngã nhập vũ trụ. Quán chày kim cang nhỏ dần là vũ trụ nhập ngã.

    8.2.4 Chứng kim cương thân: Hành giả quán tất cả các pháp trong vũ trụ thâu nhiếp vào tâm, Tam muội của tự thân và Phật hoà hiệp thành một.

    8.2.5 Phật thân viên mãn: Đây tiêu biểu cho ý nghĩa tức thân thành Phật. Nghĩa là thành Phật ngay nơi thân này, trong đời này. Thân của mình và thân của Phật hoà hợp thành một.

    8.3 Thành tựu 4 loại thân:

    4 loại thân này bao gồm pháp thân của Phật Đại Nhật và 10 phương pháp giới. Chư Phật, thiên long, quỷ thần, hữu tình, vô tình đều gồm nhiếp trong pháp thân của Phật Đại Nhật, Tỳ Lô Giá Na Như lai.

    8.3.1 Tự tính pháp thân

    8.3.2 Thọ dụng pháp thân

    8.3.3 Biến hoá pháp thân

    8.3.4 Đẳng lưu pháp thân

    9. KẾT LUẬN:

    Ba yếu tố quan trọng trong Kim Cương thừa: tính không (śūnyatā), thức (vijñāna), và Đại lạc (mahāsukha). Mỗi tâm cá nhân là tâm Bồ-đề. Tính không là tinh thần cao nhất và kho tàng năng lực vô tận, tạo nên sự chuyển động cả vũ trụ. Do vậy, mục đích của Bồ-tát là hòa nhập với tính không (śūnyatā) và thành tựu trí (vijñāna) và hạnh phúc bất diệt (mahāsukha).
    :praying:2OM AH HUM:praying:2

  18. #18

    Mặc định

    cỏn về phần thêm thì gửi bạn cái này coi chơi

    Đại cương Kim Cương Thừa 06/12/2008 09:10 (GMT+7)Kích cỡ chữ:
    (Gỉang viên Đ.Đ.THÍCH GIÁC HIỆP)

    Học Viện Phật giáo Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh



    1. GIỚI THIỆU

    Tantra của Phật giáo sử dụng thuật ngữ và tư tưởng Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là của Trung luận và Du-già tông hoặc đôi khi của A-tỳ-đàm. Kim cương thừa còn được gọi với những tên khác nhau tên thông dụng là Mật tông. Tantra có nghĩa là sợi giây, còn có nghĩa là gồm thâu tất cả mọi vật. Tantra còn chỉ cho cách thức thực hành thiền định và nghi lễ. Trung quốc dịch có 2 nghĩa: 1) bí mật: nói lên tính bí truyền của giáo lý này. Giáo lý không thể diễn đạt bằng ngôn từ bình thường. 2) chân ngôn: dịch từ: dhāraṇī hay matra.

    2. LỊCH SỬ:

    Ở Ấn độ khi đề cập đến Mật tông ta phải hiểu rằng có 2 loại, một là của Ấn độ giáo, hai là của Phật giáo.

    2.1 Mật tông của Ấn độ giáo:

    Tư tưởng Mật tông bắt nguồn từ thời cổ đại Ấn độ. Trước khi Phật giáo ra đời, nó đã trở thành hình thức tôn giáo và chiếm vị trí quan trọng trong xã hội Ấn độ cổ. Khi nó kết hợp vào Phật giáo, nó đạt được sự phát triển hoàn thiện. Giới tu sĩ hình thành giai cấp thượng đẳng, Brāhmaṇas. Các tu sĩ, thực hành chú thuật, tụng Phệ-đà mantras theo hình thức phát âm rất khó. Người thường không bao giờ có thể phát âm đúng được.

    2.2 Mật tông Phật giáo:

    Một trong những điểm ưu việt của Tantra Phật giáo là sự tổng hợp các yếu tố đa dạng của văn hoá Ấn độ. Bất cứ một phong trào tôn giáo nào ở Ấn độ Mật tông Phật giáo cũng rút ra được một vài điểm có giá trị.

    Người thầy mới có đủ tư cách truyền khẩu, giải thích trình tự và ấn chứng cho học trò. Người Thầy giống như một vị Phật. Do vậy, Mật tông khẳng định tầm quan trọng của khẩu truyền từ thầy cho trò. Nếu người thầy thấy họ trò không hợp căn cơ thì sẽ không truyền. Các tông phái Phật giáo khác cho rằng nhiễm ô là chướng ngại chính đối với Bồ-đề, và chúng ta phải hoàn toàn chế ngự chúng.

    Tāntras và mantras được thực hành từ thời đức Phật, nhưng chúng ta không có sử liệu về các sự kiện này. Đến bây giờ chúng ta có một vài dữ liệu về thái độ của đức Phật đối với việc thực hành Tāntra, chỉ có một vài đều cập trong văn chương Pāli, cho nên chúng ta không biết thời gian chúng được giới thiệu vào Phật giáo. Chúng ta chỉ biết một số tác phẩm nói về Dāraṇīs ắt hẳn tồn tại đầu kỷ nguyên Tây lịch. Trong Phật giáo chúng ta biết đức Phật cấm việc thực hành Dāraṇīs và bùa. Thế nhưng trong một số tác phẩm Đại thừa, mantras và Dāraṇīs được nói đến, như kinh Pháp hoa, Hoa nghiêm, Bát-nhã. Trong một số kinh khác chúng được đề cập với số lượng lớn.

    Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 Mật giáo đã trở thành dòng truyền chính của Phật giáo Ấn độ.Trong giai đoạn đại đế Pāla (thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12 TL.), Tantra Phật giáo phát triển mạnh, đến khi Hồi giáo xâm lăng trong thế kỷ 12 chúng đã tiêu diệt tông này. Mật tông phát triển sang đông nam Á và Tây tạng.

    Giới Phật giáo thường phân biệt 2 loại Mật tông trong Phật giáo: 1) Thuần Mật (純 密): Thuần Mật là Mật tông theo lời dạy trong pháp thân của Đại Nhật Phật và trong kinh Đại Nhật (Mahāvairocana-sūtra) và kinh Kim Cương Đỉnh (Tattvasamgraha) 2) Tạp Mật (雜 密): Là Mật tông trộn lẫn những trường phái Mật giáo với nhau.

    3. THÁNH ĐIỂN:

    Thánh điển Mật giáo có 2 khuynh hướng: chú trọng đến chân đế và tục đế (1) Chân đế: dạy những phương pháp giúp phát khởi tâm Bồ-đề. (2) Tục đế: dạy chúng ta làm thế nào để đạt được những ước muốn thế tục như: an toàn, thịnh vượng v.v. Thực sự mục đích chân thật của Mật tông là bản tính siêu việt, tức chân đế còn những khuynh hướng khác chỉ là phương tiện để đưa chúng sanh bình thường đến giáo lý‎ Phật giáo. Thánh điển Tantra Phật giáo có thể được viết vào thế kỷ thứ 2 TL hoặc sớm hơn. Kinh Bí Mật Tập Hội (Guhyasamāja) được viết vào thời ngài Vô Trước, thế kỷ thứ 3. Ở Trung quốc và Nhật bản kinh Đại Nhật, và kinh Kim cang Đảnh được xem là nền tảng của Mật tông thuần túy. Kinh Đại Nhật theo bản dịch Hán ngữ có 36 chương và 7 quyển, bao gồm 2 phần, (1) phần giáo lý, chương một, giới thiệu giải thích đầy đủ giáo lý quan trọng. và (2) Phần thực hành, chương 2 và những chương còn lại. Có thể nói nội dung chính yếu của giáo lý là biết được tâm thật của mình. Tâm của chúng ta là tâm Bồ-đề thanh tịnh. Mật tông tuyên bố thẳng tất cả những ai chưa ngộ đều là Phật. Chủ đích của kinh Đại Nhật là bày tỏ giá trị tuyệt đối của các pháp.

    4. TRIẾT HỌC VÀ BIỂU TƯỢNG:

    Phong trào Tantra tiêu biểu cho sự sửa đổi toàn diện giá trị thực hành, và biểu tượng của Phật giáo. Là một mô hình mới, Tantra thúc đẩy các hoạt động như nghệ thuật, văn chương. Mật giáo chủ trương thành Phật trong đời này. Thực hành của Mật tông bắt buộc hành giả phải thấy bản chất mọi vật và kinh nghiệm là thanh tịnh và hoàn thiện. Một số phương pháp thực hành của Mật tông ngay tức khắt phá vỡ tư tưởng nhị nguyên. Những phương pháp này đôi khi tạo ra những cú shock tinh thần, mọi khía cạnh của tâm đều được chiếu khai. Do vậy, Mật tông thường được gọi là phương pháp tu hành nhanh (tức thân thành Phật). Mật tông có thể thực hành trong mọi khung cảnh. Mặc dù Mật tông đưa ra nhiều phương pháp thực hành, không có một phương pháp duy nhất nào được quy định một cách chính thức.

    4.1 MANTRAS

    Mantras thường là một cụm từ không có nghĩa, mang những âm tiết huyền bí, tạo nên xương sống của Tantra Phật giáo. Chúng có nhiều loại. Mantra của Kim cương thừa dường như là một sự phát triển của Dhāraṇīs. Theo H.Kern, Dhāraṇīs dường được giới thiệu vào Phật giáo cho lợi ích những người căn cơ thấp. Mật tông cho rằng mantra có những thần lực kỳ diệu, thông qua việc hành trì mantra, năng lực được tạo ra có thể làm kinh ngạc thế giới. Năng lực của mantra có thể đạt quả vị Phật. Công đức trì mantra vô lượng, chư Phật không thể đo lường. Nó có thể làm trong sạch ngũ nghịch tội.

    Mantra có được hiệu nghiệm chỉ khi nào áp dụng đúng với những luật lệ. Thật sự, các luật lệ này rất nghiêm khắc, chi tiết, và nhiều. Một người bình thường khó có thể thực hành đúng. Ví dụ, Mantra không được tụng nhanh hoặc chậm. Tâm hành giả lúc hành trì phải lìa hết vọng niệm nhiễm ô và phải hoàn toàn tập trung vào từng chữ của mantra, phải tụng đến lúc không còn cảm thấy mỏi mệt. Mục đích của Tantra là để đạt được sự giải thoát và hoàn thiện (siddhi), thịnh vượng và an lạc ở đời này.

    4.2 KIM CƯƠNG XỬ (Vajra)

    Tiêu biểu cho bất hoại, đôi lúc còn được so sánh với chất kim cương. Trong nghi lễ Mật tông, Vajra thường được cầm bằng tay phải và khánh ở tay trái. Trong sự kết hợp này, vajra tượng trưng cho phương pháp, an lạc, và tính dương và khánh tượng trưng cho trí tuệ, tánh không, và tính âm.

    4.3 ẤN KHẾ (MUDRā):

    Để hoàn thiện việc tu tập, hành động thân, khẩu, ý của hành giả phải được chuyển biến. Ví dụ tiêu biểu nhất của hành động của thân là việc thực hành mudrā. Mudra là bắt ấn, quyết. Đây là những cử động và vị trí của tay và ngón tay có những ý nghĩa tượng trưng cao siêu. Ví dụ bắt nhiều kiểu ấn tiêu biểu cho nhiều loại như: cúng dường, thuyết pháp hay thiền định. 10 ngón tay tiêu biểu cho 10 lực (đàn tức bố thí, nhẫn, tấn, giới, thiền, tuệ, nguyện, tiện, lực, trí). Ấn tiêu biểu cho thể của pháp giới. Cho nên đôi khi chúng ta nói 10 ngón tay biểu thị cho toàn thể pháp giới. Sự di chuyển và biến đổi vị trí của 10 ngón tay nói lên thiên sai vạn biệt.

    4.4 CHUỖI:

    Chuỗi dùng trong Tantra Phật giáo có nhiều mục đích. Tuỳ theo mỗi mục đich và câu mantra mà số lượng hạt và chất liệu khác nhau. Chuỗi làm bằng hạt Bồ-đề hay gỗ có thể sử dụng cho mọi mục đích, tụng mọi loại mantra, và mọi loại cầu nguyện. Giây xâu chuỗi phải 9 giây, tượng trưng cho Kim Cương Tát-đỏa và 8 vị Bồ-tát. Hạt chuỗi đứng cuối tiêu biểu cho trí tuệ nhận rõ vô minh và hạt hình trụ phủ trên nó là tính không, cả hai tượng trưng cho đánh bại mọi đối thủ.

    5. CÁC LOẠI MẠN ĐÀ/TRÀ LA maṇḍala

    Trọng tâm trong nghi lễ và biểu tượng của Mật tông là maṇḍala. Maṇḍala là một vòng tròn huyền bí hoặc hình cầu được vẽ trên đất hoặc sơn trên bệ của cột hay bục để tiêu biểu cho vũ trụ tâm lý‎ và vật lý. Nó thường tiêu biểu cho một thành trì, pháo đài chống lại sự xâm nhập và chỗ chứa đựng sự thịnh vượng và quyền lực. Mandala tượng trưng cho cung điện thanh tịnh, một khoảng không tâm linh thanh tinh không chướng ngại, không nhiễm ô.

    Trong thiền định, maṇḍala là một sự chiếu tỏa của thế giới nội tâm, sự soi sáng của vũ trụ làm cho những chuyển động của hành động thực tế hàng ngày vào một điểm thiền định và sự soi sáng của khả năng vô tận của sự giác ngộ. Nó cũng có thể chuyển tải dòng giác ngộ thâm nhập vào mọi khía cạnh của thế giới. Mandala không phải chỉ có lý thuyết mà còn là thực hành. Như vậy nó là công cụ (yantra). Có rất nhiều loại mandala tuỳ thuộc vào bản tánh của vị thần trung tâm. Phần lớn các loại mandala là ngũ Phật. Loại này xuất hiện trong Tantra xưa nhất.

    5.1 Nhị Mạn đà la (Kim, Thai lưỡng bộ):

    5.1.1 Thai tạng thế giới mạn đà la:

    Nó tiêu biểu Đại nhật (Mahāvairocara) như lý‎ thân. Nó tiêu biểu cho lòng từ, sự phát triển và khả năng giác ngộ. Mỗi chúng sanh được tin tưởng rằng có tiềm năng hay hạt giống Phật nó có thể được nuôi dưỡng trong thai tạng từ bi này để giúp cho sự giác ngộ.

    5.1.2 Kim cang giới mạn trà la

    Nó biểu thị cho trí đức của Như lai không bị bất cứ vật gì làm tổn hoại, có công năng phá trừ tất cả phiền não.

    5.2 Tứ mạn đà la:

    5.2.1 Đại mạn đà la: Đại có nghĩa là thù thắng, viên mãn. Còn gọi là Đại ấn, Đại trí ấn. Vũ trụ do Lục đại (tức 6 đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức) hình thành. Tất cả sắc tướng, pháp trần gọi là Đại mạn đà la.

    5.2.2 Tam muội da mạn đà la: còn gọi là Tam muội da ấn, Tam muội da trí ấn.

    5.2.3 Pháp mạn trà la: Còn gọi là Pháp trí ấn, chủng tử mạn trà la. Nói chung, tất cả các pháp đều gọi là pháp mạn đà la.

    5.2.4 Yết mạn trà la: Còn gọi là yết ma trí ấn, nghĩa là đức nghiệp, công năng tạo tác hay hoàn thành công việc. Đây là oai nghi, oai đức của chư Phật và Bồ tát, như hiện ngàn vạn ức thân, thực hành nhiều việc công đức, tuỳ căn cơ hoá độ chúng sinh.

    6. TỨC THÂN THÀNH PHẬT:

    Mật tông chủ trương tức thân thành Phật (即身成佛), tức thành Phật trong đời này. Tông này chủ trương nhờ tam mật gia trì cho nên có thể thành Phật ngay trong đời này. Có 3 loại thành Phật (三種成佛)

    6.1 L‎ý cụ thành Phật (理具成佛): Nghĩa là tất cả chúng sanh thân, tâm là bổn thể Kim cang thai tạng. Phàm phu xưa nay tuy luân hồi trong lục đạo nhưng đều có đủ bản giác bồ đề. Chúng sanh cùng với Phật đồng một Pháp thân

    6.2 Gia trì thành Phật (加持成佛): Nghĩa là tất cả chúng sanh có đủ bản giác công đức, lại tu tập Du-già, cùng chư Phật hỗ tương cảm ứng. Đây là tam mật gia trì. Do vậy ngay thân trong đời này đạt được diệu hạnh của Phật, lại đem diệu hạnh này để khai hiển chúng sanh.

    6.3 Hiển đắc thành Phật (顯得成佛): Nghĩa là tu hành thành mãn, chứng nhập vô thượng bồ-đề. Xưa nay chúng sinh có đủ lý‎ trí, vạn đức, đến giai đoạn này các công đức hoàn toàn khai hiển, nghĩa là hiển đức thành Phật

    6.4 Tam Mật

    6.4.1 Thân mật: Bất cứ hình tướng gì cần thiết làm cho chúng sanh thuần phục. Thân, tay bắt ấn (mudrā)

    6.4.2 Khẩu mật: Lời nói đúng chính xác với từng loài chúng sanh. Khẩu, miệng đọc thần chú (mantra)

    6.4.3 Ý mật: Biết tất cả thật tướng của các pháp. Tâm, nhập định (samādhi).

    7. NGŨ PHẬT:

    5 vị Phật tiêu biểu cho sự diệt trừ 5 loại phiền não.

    1) Đại Nhật (Vairocana)- trừ- vô minh

    2) A-súc-bệ Phật, dịch nghĩa là Bất động Phật (Akṣobhya)- trừ -thù hận

    3) A-di-đà Phật (Amitābha)-trừ-tham ái

    4) Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava)-trừ-phỉ báng

    5) Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi) -trừ-đố kỵ.

    8. HÀNH TRÌ và QUẢ CHỨNG:

    8.1 Quán đỉnh:

    Tức dùng nước rưới trên đỉnh đầu. Ấn độ cổ đại vua lên ngôi hoặc khi lập thái tử, quốc sư dùng nước tứ hải để trong bình báu rải lên đầu người sắp nhậm chức, biểu thị chúc phúc. Căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa, có ghi rằng Bồ tát ở địa thứ 9 bước vào địa thứ 10, chư Phật trí thuỷ để quán đỉnh để chứng minh. Mật tông dùng nghi thức quán đỉnh để xác chứng địa vị truyền thừa của đệ tử. hành giả trước phải hành Tứ quy y, thọ pháp quán đỉnh mới chính thức nhập môn.

    8.1.1 Sự nghiệp quán đỉnh: Trước lễ pháp quán đỉnh 7 ngày người thọ pháp phải chí thành lễ bái, sám hối. Vị thầy trong 7 ngày cũng phải trì tụng mật chú, thiết lập đàn tràng quán đỉnh, cúng dường rộng rãi sau đó mới tiến hành lễ quán đỉnh.

    8.1.2 Bí ấn quán đỉnh: Đệ tử học pháp tâm niệm kiên cố, tin tưởng mật hạnh, truyền trao mật ấn.

    8.1.3 Tâm thọ quán đỉnh: Vị thầy thành tựu Tam muội, trong tâm tưởng kiến lập đàn tràng lấy tâm tưởng quán đỉnh.

    8.1.4 Quang minh quán đỉnh: Chư Phật, Bồ-tát phóng hào quang để gia trì cho hành giả.

    8.1.5 Cam lồ quán đỉnh: Kiết ấn, tụng thần chú trong nước, rải nước trên người hành giả.

    8.2 Ngũ tướng thành thân quán:

    8.2.1 Thông đạt Bồ-đề tâm: Trước tiên tu tập điều phục tâm, sau đó tu quán tính không, hoặc tu thập duyên câu sinh quán, và cuối cùng thông đạt được tự tánh vốn có đủ tâm Bồ-đề.

    8.2.2 Tu Bồ-đề tâm: Do tâm Bồ đề bị phiền não che phủ, nên quán lìa bỏ các loại phiền não cấu nhiễm, đến mức độ quang minh hiển hiện, như mây trôi trăng sáng.

    8.2.3 Thành Kim cương tâm: Để cho tâm Bồ đề kiên cố, hành giả quán tưởng mặt trăng tròn đầy, trong đó quán tưởng có hoa sen và chày kim cang. Quán tưởng chày kim cang lớn dần đồng với vũ trụ, và lại quán chày kim cang nhỏ dần. Quán chày kim cang lớn dần gọi là ngã nhập vũ trụ. Quán chày kim cang nhỏ dần là vũ trụ nhập ngã.

    8.2.4 Chứng kim cương thân: Hành giả quán tất cả các pháp trong vũ trụ thâu nhiếp vào tâm, Tam muội của tự thân và Phật hoà hiệp thành một.

    8.2.5 Phật thân viên mãn: Đây tiêu biểu cho ý nghĩa tức thân thành Phật. Nghĩa là thành Phật ngay nơi thân này, trong đời này. Thân của mình và thân của Phật hoà hợp thành một.

    8.3 Thành tựu 4 loại thân:

    4 loại thân này bao gồm pháp thân của Phật Đại Nhật và 10 phương pháp giới. Chư Phật, thiên long, quỷ thần, hữu tình, vô tình đều gồm nhiếp trong pháp thân của Phật Đại Nhật, Tỳ Lô Giá Na Như lai.

    8.3.1 Tự tính pháp thân

    8.3.2 Thọ dụng pháp thân

    8.3.3 Biến hoá pháp thân

    8.3.4 Đẳng lưu pháp thân

    9. KẾT LUẬN:

    Ba yếu tố quan trọng trong Kim Cương thừa: tính không (śūnyatā), thức (vijñāna), và Đại lạc (mahāsukha). Mỗi tâm cá nhân là tâm Bồ-đề. Tính không là tinh thần cao nhất và kho tàng năng lực vô tận, tạo nên sự chuyển động cả vũ trụ. Do vậy, mục đích của Bồ-tát là hòa nhập với tính không (śūnyatā) và thành tựu trí (vijñāna) và hạnh phúc bất diệt (mahāsukha).
    :praying:2OM AH HUM:praying:2

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 18
    Bài mới gởi: 26-02-2013, 11:02 PM
  2. Mật hạnh của ngài Quán Thế Âm
    By Minhsonngocly in forum Đạo Phật
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 27-09-2012, 12:26 PM
  3. Kinh Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
    By 123456789 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 21-04-2011, 09:56 PM
  4. Mật Tông Tâm Pháp. Tập I
    By Minh Nguyệt in forum Mật Tông
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 14-09-2010, 11:29 PM
  5. Tổng hợp các pháp môn của Đức Quán Thế Âm
    By Le Ngọc Chi in forum Đạo Phật
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 20-10-2007, 04:23 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •