Ảnh Hưởng Của Du-Già Hành Tông trong Mật Tông Tây Tạng
Ven. Traleg Rinpoche
Nhuận Châu dịch
PB Nghiên Cứu Phật Học
Số 2 - Mùa Xuân 2005
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA DU-GIÀ HÀNH TÔNG TRONG PHÁP MÔN ĐẠI THỦ ẤN
Chúng ta sẽ nói đến sự quan hệ của triết học Du-già hành tông với Mật tông Tây Tạng. Người ta thường không để ý đến sự ảnh hưởng của triết học Du-già hành tông trong Mật tông Tây Tạng và sự phát triển của nó, mặc dù nó quá rõ ràng trong các kinh văn Mật tông Tây Tạng, nhưng nó vẫn chưa được hiểu một cách mạch lạc, rõ ràng. Các bạn có thể phát hiện ra thêm nhiều khái niệm khác nhau được đề cập trong kinh văn Mật giáo khi dõi ngược lại triết học Du-già hành tông.
Triết học Du-già hành tông tự nó phát triển như là một phản ứng chống lại sự lập ra quá nhiều lý thuyết. Trở thành sự nhấn mạnh kinh nghiệm tu tập cá nhân, do vì tên gọi Yogācāra, có nghĩa là người tu tập Du-già (Yoga). Du-già (Yoga) ở đây không có nghĩa là uốn mình trên những ngón chân, mà là thiền định. Thế nên Yogācāra - người theo Du-già hành tông, có nghĩa là Thiền giả. Du-già hành tông như là một hệ thống tư tưởng được hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân phát triển. Hai vị xiển dương tư tưởng nầy theo cách mà mọi điều đều quay trở về lại với sự tu tập và thực chứng của chính mình. Bạn không thể nào tạo ra các lý thuyết về Du-già hành tông mà không thực hành. Thực vậy, bạn không thể nào là một hành giả của Du-già hành tông trừ phi bạn thực hành thiền định. Khi các bạn nghiên cứu các kinh văn của tư tưởng Du-già hành tông, sẽ thấy được rất nhiều ý niệm về Mật tông được trình bày trong đó, hoặc ẩn mật hoặc công truyền.
Chắc chắn có những khái niệm cốt lõi mà tư tưởng Du-già hành tông và Mật tông Tây Tạng cùng chia sẻ với nhau, như khái niệm chuyển hóa tâm bất an, không lành mạnh của chính mình sang trạng thái an lạc hơn. Nói cách khác, mọi cảm xúc tiêu cực như đam mê, giận dữ, vô minh, đần độn, mê mờ, bất cứ điều gì như vậy cần phải được loại trừ, nhưng chỉ bằng cách chuyển hóa nó. Bản chất tâm lý của một người hình thành vốn không thay đổi, nhưng cách biểu hiện những cảm xúc tiêu cực lại hoàn toàn khác nhau. Đây là một ý niệm quan trọng của Mật tông, phần nhiều các bạn có lẽ đã biết. Chữa trị chứng loạn thần kinh chức năng và những xúc cảm bất đồng là phần rất lớn trong Mật tông; không những loại trừ những gì đang làm các bạn phiền muộn, mà còn học cách chấp nhận và chuyển hóa chúng. Thực vậy, các bạn có thể lần theo những ý niệm nầy để về tận cội nguồn tư tưởng Du-già hành tông.
II. BẢN TÁNH GIÁC NGỘ CỦA HỮU TÌNH
Ý niệm thứ hai lại là một điều rất quan trọng chung cho tư tưởng Du-già hành tông và Mật tông Tây Tạng, là nhấn mạnh vào bản tánh giác ngộ của con người. Các hệ phái Du-già hành tông và Mật tông đều nhấn mạnh sự thực là mỗi một con người đều vốn đã giác ngộ. Vô minh và mê muội chỉ là yếu tố phụ hoặc ngẫu nhiên, tự trong bản chất con người chẳng có chút nào yếu tố tiêu cực đó. Thực vậy, bản tánh con người vốn hoàn toàn giác ngộ sáng suốt. Không một cảm xúc tiêu cực lay động. Dù thế lực tiêu cực như thế nào đi nữa, cũng không thể làm giảm đi tánh thông tuệ nội tại căn bản. Bản tánh giác ngộ sáng suốt ấy, trong kinh văn Du-già hành tông gọi là Như Lai tạng. Như Lai tạng thực sự có nghĩa là bào thai giác ngộ. Bản tánh giác ngộ hiện hữu như một tiềm năng, như bào thai tiềm chứa sinh thể. Mọi người ai cũng có Như Lai tạng, bào thai của giác ngộ. Nói chung, Như Lai tạng được hiểu là Phật tánh.
Phật tánh thực sự là một ý niệm của Du-già hành tông. Phật tử có khuynh hướng đồng nhất ý niệm Phật tánh với tư tưởng Đại thừa nói chung, nhưng điều ấy không hẳn. Không phải các tông phái Đại thừa đều có chung ý niệm nầy. Trung quán tông chẳng hạn, hoàn toàn khước từ ý niệm Như Lai tạng, vì đối với họ, Như Lai tạng vẫn chỉ là khái niệm. Các nhà Trung quán khước từ mọi ý niệm siêu hình. Vì đối với họ, Như Lai tạng, như họ phát biểu, được đức Phật chỉ dạy cho hàng sơ phát tâm, nên dần dần, họ sẽ nhận ra thực tế. Trung quán sẽ là câu trả lời. Thế nên, đó chính là một pháp hành sinh động, một món ăn đầu tiên, trong khi tiến trình chính vẫn chưa được biểu hiện. Mật tông vận dụng ý niệm Như Lai tạng, nhưng được biểu hiện qua nhiều cách khác nhau được gọi là ‘Cực quang tâm thức–clear light’ hay bằng nhiều thuật ngữ khác. ‘Cực quang tâm thức–clear light’ đặc biệt chưa phải là thuật ngữ được phiên dịch chính xác. Thuật ngữ Tây Tạng là ‘od gsal’. Nó có cùng ý nghĩa với Như Lai tạng. Các bạn cũng có thể có được ý tưởng căn bản về bản chất bất biến của con người. Đây là một khía cạnh chúng ta sẽ tìm hiểu để thâm nhập.
III. Ý NIỆM VỀ TÁNH KHÔNG
Tư tưởng quan trọng tiếp theo là ý niệm về śūnyatā, có nghĩa là Không. Śūnyatā, thông thường có một ý nghĩa phủ định, có nghĩa là không có sự hiện hữu trên cơ sở tự tính của các pháp hoặc là không có tự thể riêng biệt. Sự vắng mặt một thể tính như vậy được gọi là Không. Trong tư tưởng Du-già hành tông, ý niệm về Không mở đầu cho sự thừa nhận một ý niệm tích cực. Điều nầy cũng rất chân thực như trong Mật tông. Ý niệm Không không còn được xem là hoàn toàn phủ nhận thể tính của các pháp. Thực ra, ý niệm về Không mở ra sự công nhận vai trò của hiện thể một tính chất nền tảng và tuyệt đối, để qua đó thế giới hiện tượng vận hành và tồn tại. Điều ấy rất thú vị, vì thông thường, nếu các bạn phủ nhận điều gì, thì đó là sự kết thúc của điều ấy. Trong tư tưởng Du-già hành tông và Mật tông, chính phủ định tự nó trở thành sự xác định cho cái mà ta không tiếp cận được một cách bình thường. Đó là thực tế mà chúng ta có thể nhận thức được và quy hướng, không phải bằng phương tiện tri thức mà thông qua một dạng trí huệ bậc cao. Khi các bạn bắt đầu chuyển hóa những ý tưởng phủ định trong mình thành xác định, tích cực và cao hơn, thì khi các bạn thăng hoa, các bạn cũng bắt đầu nhận ra thực tại hoặc Không theo cách chính xác nhất.
Trong Mật tông, Tánh Không còn được gọi là Kim cương bất động . Nó hoàn toàn chân thật và vững chãi khiến chúng ta không thể nào phủ nhận sự hiện hữu của nó được. Diễn tả ý niệm nầy trong thuật ngữ nghiêm túc của các nhà Trung quán thì sẽ gây cho bạn sự sửng sốt. Khi chiếc ghế mà bạn đang ngồi và ly nước bạn đang uống không có tự thể, thì Tánh Không, vốn là cái mà bạn không thấy được, làm sao lại bền vững và chắc thật hơn những gì chúng ta đang kinh nghiệm được ngay lúc nầy? Hành giả Mật tông và Du-già hành tông hầu như trong phương pháp, làm cho ý niệm Tánh không trở nên có thực chất sống động hơn. Nó trở thành nền tảng hay thực tại nhờ vào những gì thế giới hiện tượng hoặc thế giới tương quan đang hiện hữu.
IV. SỰ TẠO TÁC CỦA TÂM
Khái niệm chúng ta sẽ thảo luận sau cùng là sự nhấn mạnh của cả hai trường phái vào sự vận hành của tâm. Hành giả Mật tông và Du-già hành tông không suy luận về thế giới. Họ giảm trừ cả chủ thể lẫn đối tượng trong sự vận hành của tâm. Sự hiểu biết về thế giới hiện tượng của chúng ta là do tâm. Bất luận chúng ta kinh nghiệm được điều gì, theo ý nghĩa nhị nguyên chủ thể và đối tượng, ấy là do tâm. Thế nên, tâm là nguồn gốc mà từ đó mọi việc phát sinh. Cả hai tông phái đều có chung quan niệm nầy, đều cho rằng không những tâm chỉ tạo ra chủ thể và đối tượng, mà còn tạo ra luân hồi sinh tử và Niết-bàn. Giác ngộ giải thoát, sự thành tựu đạt được cũng do tâm, và bị trói buộc trong luân hồi sinh tử cũng do tâm. Bất luận bị ràng buộc hay giải thoát, cũng đều do sự tạo tác của tâm. Giải thoát chỉ có thể đạt được bằng cách chuyển hóa những tiêu cực trong tâm sang trạng thái tích cực hơn bất luận trạng thái ấy như thế nào.
Trong phạm vi đề cập đến Mật tông, chúng ta sẽ không đề cập nhiều đến dạng Mật tông hình thái thấp, vì đó chỉ là những nghi tiết hơn là tư tưởng. Những gì chúng ta đang thảo luận là ý niệm triết học, không phải là cách làm thế nào để thổi kèn trumpet hoặc thở bằng mũi. Chúng ta sẽ không đi vào lĩnh vực nầy và cũng sẽ không đề cập về linh kiến–visualizations. Chủ yếu chúng ta sẽ đề cập đến một dạng Mật tông cao nhất, đó là Vô thượng Du-già Tan-tra (s: anuttarayoga-tantra), vốn có liên quan đến Đại thủ ấn. Thế nên, chúng ta sẽ so sánh và đối chiếu giáo lý Đại thủ ấn với tư tưởng Du-già hành tông, ảnh hưởng nội tại lẫn nhau như thế nào qua nội dung cuộc trao đổi dưới đây.
VI. THẢO LUẬN CỦA TRALEG RINPOCHE CÙNG NHÀ SỬ HỌC (DAVID) VÀ MỘT TIẾN SĨ TRIẾT HỌC (Dr. R)
Vấn đề: Triết học Du-già hành tông đã ra đời và phát triển trong thời kỳ lịch sử nào?
Traleg Rinpoche: Theo quan điểm của nhà sử học, David, ông hiểu như thế nào về vấn đề nầy?
David: Triết học Du-già hành tông đã ra đời trong thế kỷ thứ II và phát triển cho đến giữa thế kỷ thứ V. Sau đó, nó đạt đến sự nảy nở toàn diện nhất. Dr.R: Về niên đại theo lịch sử Ấn Độ thường có sự lẫn lộn, người ta khó có thể xác định được ngày tháng chính xác. Với kinh điển Phật giáo, chẳng hạn, niên đại chính xác có được là thông qua các bản dịch tiếng Hán, vì chúng ta biết người Trung Hoa rất giỏi về việc ghi chép. Nếu chúng ta có được một bản dịch của một bộ kinh đặc biệt nào đó có ghi ngày tháng được phiên dịch hẳn hoi, thì chúng ta biết được ngay bộ kinh đã được lưu hành trước ngày tháng đó, nhưng đôi khi rất khó.
Traleg Rinpoche: Đúng vậy! Ngay cả họ còn không biết chắc là có một hay nhiều Thế Thân. Nhưng trong một ý nghĩa nào đó, những chuyện nầy đều là thứ yếu. Vấn đề niên đại rất đáng quan tâm, nhất là đối với người Ấn Độ và Tây Tạng. Ngay cả tôi cũng không biết tôi sinh ra khi nào, và nay tôi vẫn còn đang sống đây!
Vấn đề: Xin Ngài nói về sự bừng chiếu của tuệ giác trong sự tương quan của Phật tánh.
Traleg Rinpoche: Sự khác nhau không phải ở bản chất mà về mặt ngữ nghĩa. Dù ông có gọi nó là sự bừng chiếu của tuệ giác hoặc là Phật tánh cũng chẳng có gì khác cả. Nó vẫn chỉ cho một vấn đề như nhau.
Vấn đề: Khi hành giả nhận ra Phật tánh, có phải sự bừng chiếu của tuệ giác ấy tỏa sáng từ bản tâm?
Traleg Rinpoche: Đúng vậy! Cả hai ý niệm đều chỉ cho bản chất tri giác hoặc thực chất của sự tỉnh giác. Bất luận ông muốn gọi như thế nào, miễn là không bị sai lạc do sự bất ổn thần kinh hoặc cảm xúc của mình.
Vấn đề: Sự bừng chiếu của tuệ giác và niềm an lạc có khác nhau không?
Traleg Rinpoche: Không! Niềm an lạc có được do nhờ sự bừng chiếu của tuệ giác.
Vấn đề: Du-già hành tông thường được xem là học thuyết Duy tâm, có nghĩa là ngoài tâm chẳng có gì khác?
Traleg Rinpoche: Cái duy nhất hiện hữu ngoài tâm chính là thực tại, chúng ta có thể nhập vào đó được. Thực tại không thể nào bị điều kiện hóa bởi tâm. Thực tại là thực tại. Nếu thực tại có thể được điều kiện hóa bởi tâm thì nó sẽ không còn là thực tại nữa, vì mỗi lúc tâm trạng của mình đều thay đổi, thực tại cũng sẽ biến dịch. Các nhà Du-già hành tông cho rằng cả chủ thể lẫn khách thể đều là sản phẩm của tâm, nhưng điều ấy không nhất thiết có nghĩa là cái ghế cái bàn đều nằm trong đầu quý vị. Chính chúng ta dựng nên kinh nghiệm của mình về thế giới. Chúng ta không cảm nhận được thế giới như nó đang hiện hữu, chúng ta chỉ biết thế giới theo cách chúng ta muốn kinh nghiệm về nó. Đó là lý do tại sao nói rằng cả chủ thể lẫn khách thể đều là sản phẩm của tâm. Chúng ta khó nhận thức được thực tại, vì tâm ta liên tục dựng lên nhiều cấu trúc quan niệm về thế giới. Do những đặc tính chung nhất định, mà người ta sống chung trong một thế giới, nhưng những cảm nhận của mỗi con người về thế giới ấy thì hoàn toàn khác nhau.
Vấn đề: Xin Ngài cho biết tâm trong tiếng Tây Tạng và Sanskrit là gì, và thuật ngữ ấy chính xác nên được dịch như thế nào? Dường như tâm là một thuật ngữ rất khó hiểu?
Traleg Rinpoche: Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này. Tâm mà các nhà Du-già hành tông và Mật tông đề cập đến không phải là tâm thường nghiệm của chúng ta. Tâm thường nghiệm của chúng ta hằng ngày cảm nhận những điều nhất thời, theo chiều tương tục của các ý tưởng diễn ra thay đổi nối tiếp nhau trong từng khoảnh khắc, rồi làm cơ sở cho mỗi ý tưởng và hình ảnh tiếp diễn nhau. Có cái gì đó vượt ra ngoài những cảm nhận qua ý tưởng và hình ảnh nhất thời. Thuật ngữ tiếng Sanskrit cho tâm nầy có lẽ là manas, phải không ngài Tiến sĩ?
Dr. R: Thật ra có hai thuật ngữ manas và citta. Tôi cho rằng cả hai đều giống nhau về bản chất.
Traleg Rinpoche: Trong tiếng Tây Tạng, từ sems nyid thường được dùng để chỉ rõ cho tâm làm nền tảng cho cả khách thể lẫn chủ thể nhận thức khác với tâm thường nghiệm, vốn được gọi là sems. Như vậy, sems và sems nyid là hoàn toàn khác nhau. Đặc biệt trong pháp Đại thủ ấn (s: mahamudra), điều này được phân biệt rất rõ ràng.
Vấn đề: Xin Ngài phân tích thuật ngữ tantra và đặt thuật ngữ ấy vào trong sự tương quan với phạm trù tư tưởng Phật học nói chung.
Traleg Rinpoche: Tantra trong tiếng Tây Tạng được gọi là rgyud, có nghĩa là tính liên tục. Trong ngữ cảnh nầy, có nghĩa là bạn không thể nào gán bất kỳ ngày giờ cho sự khởi đầu hoặc kết thúc cho tantra. Kinh nghiệm về tantra là thường hằng, liên tục. Bạn không thể nào nói được khi nào nó khởi đầu và lúc nào nó kết thúc. Đó là trạng thái thường xuyên liên tục. Đó là nghĩa của thuật ngữ rgyud. Nó còn được gọi là Kim cương thừa. Tantra là một thuật ngữ được cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều sử dụng. Kim cương thừa có nghĩa là tiến trình tu tập hoàn toàn không bị lay động, thối chuyển. Lại nữa, Tantra là một tiến trình hơn là kết quả có được từ tu đạo, đó là một cuộc hành trình không bao giờ gián đoạn.
Vấn đề: Phật tánh có giống như ý niệm Ātman trong hệ thống tư tưởng Ấn Độ giáo không?
Traleg Rinpoche: Có sự khác nhau. Phật tánh là một phạm trù triết học, và còn là một kinh nghiệm thực chứng, tôi tin chắc như vậy; nhưng Phật tánh không phải là cái gì cụ thể, như Ātman. Phật tánh không phải là một thực thể, trong khi Ātman lại là một thực thể. Ātman là cái mà quý vị sở hữu, cho nên quý vị phải chịu luân hồi sinh tử. Cá nhân của quý vị bị liên kết bởi ý niệm về Ātman. Điều ấy không có nghĩa là nhờ vào đó mà quý vị biết mình là ai, vì điều biết được ấy là nhờ vào Phật tánh. Ātman không giúp cho quý vị biết được kiếp trước mình đã sống như thế nào, mà biết được điều ấy là nhờ vào Phật tánh. Phật tánh chính là điều kiện cơ bản để đạt được chứng ngộ. Tánh của muối là hòa tan, nhưng tánh ấy không phải là thực thể tách rời hẳn đồng loại mà có. Phật tánh không phải là một thực thể mà quý vị tìm kiếm ra được. Phật tánh vốn là một tiềm năng hay là một trạng thái mà quý vị có sẵn trong mình rồi.
Vấn đề: Xin Ngài kể cho chúng tôi về ngài Vô Trước và Thế Thân, các Ngài đã phát triển hệ thống Du-già hành tông như thế nào?
Traleg Rinpoche: Theo truyền thống, tiểu sử của ngài Vô Trước thì khác thường như tiểu sử của nhiều bậc Tổ sư Phật giáo khác. Khi Phật giáo đang vào thời kỳ suy thoái ở Ấn Độ, một nữ Phật tử rất lo lắng chuyện nầy nên kết hôn với một vị vương tử để thụ sinh ngài Vô Trước. Sau đó, cô ta lấy một người Bà-la-môn để sinh ra ngài Thế Thân. Tất cả việc cô làm chỉ vì một bản nguyện là giữ gìn Phật pháp, quý vị nên lưu ý như vậy. Từ thơ ấu, Vô Trước đã có tinh thần hộ trì Phật pháp, Ngài quyết định xuất gia và sau nầy đã trở thành khuôn mặt quen thuộc của truyền thống Đại thừa. Ngài được bẩm thụ tư tưởng Trung quán. Theo sử liệu truyền thống, ban đầu Thế Thân theo Tiểu thừa cho đến khi ngài Vô Trước thức tỉnh và chuyển hóa Ngài về với Đại thừa. Ngài Vô Trước có duyên với ngài Di-lặc, sức lôi cuốn mạnh đến mức thôi thúc ngài đến ngồi thiền trong một hang núi. Ngài ước nguyện sẽ ngồi thiền để có thể gặp được ngài Di-lặc trong định, nhưng không thấy gì cả. Ngài ngồi thiền trong hang đá suốt ba năm và cuối cùng bị bệnh.
Ngài rời hang đá trở về nhà. Ngài gặp một người đang chùi một thanh sắt thật lớn. Ngài Vô Trước hỏi: “Ông đang làm gì vậy?”. Người ấy đáp: “Đang tìm cách làm thành cây kim.” Vô Trước nghĩ: “Cái gì! Làm thành kim từ cây sắt khổng lồ nầy? Ta phải thật kiên nhẫn.” Thế rồi Ngài trở lại hang núi và ngồi thiền suốt thêm ba năm nữa. Rồi Ngài lại bị bệnh vì thất vọng, không thấy điều gì xảy ra cả, Ngài trở về nhà. Trên đường, Ngài thấy khát, định xuống dòng suối ven đường để uống nước, thấy từng giọt nước rơi xuống đã làm nên một lỗ thật lớn trên tảng đá. Ngài nghĩ: “Ngay cả một giọt nước mềm yếu nầy mà cũng làm nên việc lớn, ta phải hết sức kiên nhẫn.” Rồi Ngài trở lại hang đá, cuối cùng Ngài lại thất vọng và lê bước về nhà. Trên đường Ngài vấp phải con chó lở loét, đầy giòi bọ trên thân đang nằm chờ chết bên đường. Quá xúc động, Ngài cắt một miếng thịt trên đùi mình ném cho chó. Ngài bắt đầu dùng lưỡi liếm bắt từng con giòi đem đặt vào miếng thịt để cho chúng khỏi bị chết. Đột nhiên, Bồ-tát Di-lặc liền hiện ra trước mặt ngài Vô Trước.
Ngài quá mê mải vào việc mình đang làm nên không để ý đến, nhưng khi nhìn kỹ, đúng thật là Bồ-tát Di-lặc. Ngài Vô Trước gieo mình xuống đất đảnh lễ. Ngài thưa: “Tại sao từ trước đến nay Ngài không hiện ra cho con thấy?” Bồ-tát Di-lặc trả lời: “Vì lòng từ của con chưa được thấm nhuần.” Thì ra là như vậy. “Nay lòng từ trong con đã chín muồi nên ta đến với con.” Rồi câu chuyện được tiếp tục, Bồ-tát Di-lặc dạy cho Ngài năm bộ luận, đó là năm bộ luận chính của tư tưởng Du-già hành tông. Vốn ngài Vô Trước được truyền dạy từ Bồ-tát Di-lặc, nên tác giả của các bộ luận ấy là ngài Di-lặc đúng hơn là ngài Vô Trước. Sau khi được truyền thụ, ngài Vô Trước xiển dương học thuyết nầy cùng với sự cộng tác của Thế Thân, cả hai đã trứ tác nhiều tác phẩm. Nhưng riêng A-tì-đạt-ma tập luận (s: abhidharma-samuccaya) không phải là tác phẩm của Bồ-tát Di-lặc, luận nầy do chính ngài Vô Trước trứ tác.
Vấn đề: Xin Ngài nói kỹ hơn về Tánh không.
Traleg Rinpoche: Tánh không, theo các nhà Du-già hành tông và Kim cương thừa (tantra) có nghĩa là Tánh không của cả chủ thể lẫn khách thể (năng và sở). Không chỉ có nghĩa tánh không là không của chính nó. Thế nên thường nói: “Tánh không là không có tự tánh riêng. Nó không phải là điều gì chắc thật.” Theo các nhà Du-già hành tông và Kim cương thừa, Tánh không là cái gì đó rất viên mãn, nếu như quý vị muốn như vậy. Tánh không là cái gì đó rất khẳng định. Nó là nền tảng thực tại cung ứng cho thế giới hiện tượng. Thế giới hiện tượng sẽ không vận hành nếu không nhờ vào Tánh không. Chúng ta phải đi sâu vào vấn đề nầy trong từng phạm trù riêng của nó, nếu không quý vị sẽ bị lúng túng.
Vấn đề: Câu chuyện Ngài kể về Bồ-tát Di-lặc thật là kỳ diệu. Chúng ta nên hiểu câu chuyện nầy theo cách như thế nào?
Traleg Rinpoche: Những câu chuyện cổ xưa, về mặt lịch sử, có khi chẳng có gì hấp dẫn, nhưng với quan điểm của người hành trì, nó có ý nghĩa rất quan trọng. Những câu chuyện kỳ diệu nầy không phải được kể ra chỉ để giải trí, nhưng để giúp cho quý vị khởi phát tín tâm. Đọc mẩu truyện trên, bất luận dù thế nào, quý vị hãy đặt mình vào trong chánh niệm, để có thể khai mở được ngay yếu lý. Nếu không, điều kì diệu sẽ không xảy ra. Đó là lí do tiểu sử mang chất huyền bí. Ngay cả hầu hết người Tây Tạng, tôi chắc vậy, cũng khó tin rằng những chuyện nầy thực sự đã xảy ra. Những chuyện nầy có ý nghĩa rất quan trọng từ cách nhìn của hành giả, vì quý vị bắt đầu nhận ra tầm mức quan trọng của tính kiên nhẫn và sự quan trọng khi phát khởi tâm từ, như thế là quý vị hiểu được yếu lý. Điều ấy sẽ khiến cho quý vị phát tâm.
Vấn đề: Quan niệm về thời gian và không gian như thế nào theo tư tưởng Phật giáo?
Traleg Rinpoche: Phật giáo quan niệm rằng thời gian và không gian có tính tương quan. Tùy theo ý niệm của quý vị về thời gian và không gian như thế nào. Sẽ không hoàn toàn tuyệt đối, theo từng tầng bực như vậy. Cái hiểu về ý niệm thời gian trong dòng cảm nhận từ quá khứ, hiện tại, tương lai là không đúng. Theo cách nào đó, thời gian là vòng tròn, chớ không phải là đường thẳng. Ý niệm tuyệt đối về thời gian thực sự siêu việt mọi khái niệm. Thời gian tương đối (relative time) thích nghi hay tùy thuộc vào khái niệm của chúng ta về thời gian như thế nào, trong khi thời gian tuyệt đối (absolute time) là điều ta không thể nào tưởng tượng ra được. Ngay cả không thể nào gọi nó là tồn tại hay không tồn tại.
Vấn đề: Tại sao Ngài chọn đề tài nầy?
Traleg Rinpoche: Chủ yếu là vì Phật tử phương Tây, đặc biệt là các sinh viên khoa Phật giáo Tây Tạng vốn chưa biết nhiều về Du-già hành tông và Phật giáo Kim cương thừa. Phần đông các sinh viên đã quen thuộc với hệ thống Trung quán. Đó là pháp môn ưu thế để hành trì. Chưa có sự quan tâm đầy đủ thực sự cho đề tài nầy. Cũng vậy, không chỉ triết học Du-già hành tông hoặc Kim cương thừa đã bị lãng quên, mà thực tế là về sự tương quan với nhau của hai môn nầy hoặc vì sao mà các nhà Du-già hành tông thực sự thâm nhập trước những ý niệm thuộc Kim cương thừa. Người ta không biết nhiều về sự vay mượn của Kim cương thừa từ Du-già hành tông. Đây là cảm nhận của riêng tôi. Nhưng, có lẽ tôi cũng không đúng.
D.T: Trong sự liên hệ với quan niệm của Ngài về tiền thân của Kim cương thừa, thưa Ngài, tôi nghĩ rằng điều ấy rất quan trọng và đã khiến cho tôi rất chú ý. Niên đại về Kim cương thừa rất khó xác định. Kim cương thừa khởi nguyên như thế nào, chấm dứt ở đâu, phát triển ở đâu? Thừa nhận chung là vào thế kỷ thứ 6-7, trong ánh sáng của thời đại mà chúng ta đang nói đến, thời kỳ của ngài Vô Trước và Thế Thân, điều nầy rất quan trọng. Mặc dù Kim cương thừa được xem là do đức Phật truyền lại, nhưng cũng có những cuộc tranh luận, có ý kiến cho rằng Kim cương thừa kế thừa rất lớn tư tưởng Du-già hành tông, vốn được đánh giá ra đời trước Kim cương thừa vài thế kỷ.
Traleg Rinpoche: Đúng như vậy! Người ta đã khẳng định, hơn là chứng minh rằng Kim cương thừa được truyền dạy bởi chính đức Phật chứ không xem đó như một dạng tôn giáo địa phương ảnh hưởng vào Phật giáo Mật tông. Có người cho rằng có thể một dạng tôn giáo địa phương Ấn Độ dần dần ảnh hưởng vào Phật giáo nên Kim cương thừa phát triển từ đây, nhưng họ chưa thực sự tìm ra khả tính của một trường phái Phật giáo đã có ảnh hưởng khiến phát sinh ra một trường phái Phật giáo khác. Tôi chắc rằng có nhiều ảnh hưởng bên ngoài tác động vào khía cạnh nghi quỹ, đồ hình mạn-đà-la, nhưng về mặt ý niệm triết học đích thực của Kim cương thừa, tôi cho rằng mọi người nên tìm dấu tích ngược về trong Du-già hành tông càng nhiều càng hay.
Vấn đề: Tôi nghĩ rằng ý nghĩa của chữ tantra là tương tục có nhiều điều liên quan đến giáo lý về thực chứng hơn là phạm trù lịch sử. Xin Ngài giải thích về ý nghĩa của sự tương tục (tantra) trong phạm vi thực chứng của hành giả?
Traleg Rinpoche: Có thể nói rằng quý vị là những hành giả Kim cương thừa ngay trước khi quý vị trở thành môn đệ của Kim cương thừa. Bất luận quý vị thực chứng được điều gì đều phát xuất từ một tiến trình toàn thể. Ngay cả sau khi quý vị được giác ngộ cũng vậy, chính là giác ngộ thông qua một tiến trình tương tục trong ý nghĩa nào đó. Phật hạnh, dụng của Phật tánh, sẽ tương tục. Đó như là một kinh nghiệm cá nhân, tôi nghĩ rằng ‘tương tục thống nhất thể–tantra’ và phẩm tính ‘cứng chắc như kim cương’ có liên hệ rất mật thiết với nhau, vì nó không có khởi đầu và không có chỗ kết thúc, thế nên nó không bị phá hoại hoặc gây chướng ngại.
Vấn đề: Làm sao mà Phật tánh hiển hiện khắp mọi thời...
Traleg Rinpoche: Quý vị có thể gọi đó là sự tương tục: Phật tánh hoặc sự bừng chiếu của tuệ giác, quý vị muốn gọi như thế nào cũng được.
Vấn đề: Có phải đó là khi ta định tâm và quán chiếu vào sự tương tục?
Traleg Rinpoche: Quý vị nhận ra sự tương tục khi đồng hành cùng nó. Có người không nhận ra được gì cả. Đó là những gì hành giả Kim cương thừa cho biết.
Vấn đề: Tại sao Trung quán tông quan niệm về Phật tánh vừa như là bản hữu, vừa như là Như Lai tạng?
Traleg Rinpoche: Do Bồ-đề tâm (s: bodhicitta). Họ không nói nhiều về Như Lai tạng, thực vậy. Như Lai tạng được ví như là cây gậy cho người mới nhập môn. Khi quý vị đã thâm nhập sâu vào giáo lý rồi, quý vị sẽ vượt qua ý niệm đó.
Vấn đề: Có phải Bồ-đề tâm (s: bodhicitta) chính là tâm giác ngộ?
Traleg Rinpoche: Bồ-đề tâm hoàn toàn khác biệt hẳn với mọi khái niệm. Bồ-đề tâm có nghĩa chính là năng lực của tâm từ bi.
Vấn đề: Nhưng phải chăng chính nó có một phẩm tính tích cực?
Traleg Rinpoche: Đúng như vậy! Nhưng nó khác hẳn nghĩa của Phật tánh (e: buddha-nature). Phật tánh được xem là vô thủy, vô chung, thanh tịnh không nhiễm ô bởi tâm thức mê vọng của chúng ta. Những phẩm tính đó lại không được dành cho Bồ-đề tâm. Thực vậy, họ cho rằng Bồ-đề tâm tuyệt đối là sự giác ngộ tối thượng. Điều ấy rõ ràng, nhưng cùng lúc, nó là một ý niệm khác. Các nhà Trung quán cho là như vậy. Bồ-đề tâm tuyệt đối là sự giác ngộ tối thượng, còn các nhà Du-già hành tông thì gọi đó là Phật tánh. Bồ-đề tâm tuyệt đối chính là Tánh không trong Trung quán.
Vấn đề: Liệu Bồ-đề tâm có mang phẩm tính xác định?
Traleg Rinpoche: Không nên xem Bồ-đề tâm tuyệt đối là xác định hoặc phủ định. Trung quán tông không bận tâm suy đoán về điều nầy.
Vấn đề: Nhưng Như Lai tạng có mang phẩm tính xác định nào chăng?
Traleg Rinpoche: Vâng, Hoàn toàn có. Trong Đại thừa tối thượng Tan-tra (mahayanauttara-tantra) đề cập rất nhiều. Trong đó nỗ lực minh họa Như Lai tạng bằng cách dùng nhiều hình tượng: phụ nữ nghèo hèn, vua chúa, vương tử, người mù tìm thấy ngọc trong rác. Toàn bộ kinh văn trên chứa đầy hình tượngnầy. Thế nên, Như Lai tạng là ý niệm hoàn toàn mang tính tích cực.
Vấn đề: Nếu Ngài muốn thay đổi những tập khí tiêu cực sang năng lực tích cực, có phải Ngài chuyển hóa các tập khí tiêu cực và từ đó loại hẳn chúng ra khỏi Phật tánh?
Traleg Rinpoche: Sự chuyển hóa được tiến hành không phải bằng sự loại trừ các tập khí tiêu cực. Đó là lí do tại sao Du-già hành tông và Kim cương thừa khác biệt với các tông phái Phật giáo khác. Theo các tông phái Phật giáo khác, các tập khí tiêu cực là cái luôn luôn bị chế ngự, hoặc đúng hơn là luôn luôn bị loại trừ. Du-già hành tông và Kim cương thừa cho rằng do chấp nhận những tập khí tiêu cực nầy, mà chúng ta có thể chuyển hóa được chúng. Quý vị không thể nào thông hiểu được các tập khí tiêu cực này bằng cái nhìn tiêu cực về nó. Quý vị phải nên đối xử với các tập khí tiêu cực của mình bằng thái độ tích cực. Do vậy nên sự chuyển hóa sẽ diễn ra tức thì. Như các nhà Du-già hành tông cho biết, tất cả đều sẽ được chuyển thành trí huệ.
Vấn đề: Chúng tôi làm thế nào để tiếp cận với bốn ý niệm mà Ngài vừa chỉ ra trong công phu tu tập?
Traleg Rinpoche: Các nhà Du-già hành tông và Kim cương thừa tin tưởng rằng tham lam, sân hận, si mê sẽ được chuyển hóa thành một tầng bậc cao hơn của trí huệ, do các Ngài đã thể nhập một cách sâu sắc ý niệm tánh không nên đã có ảnh hưởng đến cảm nhận của quý vị về pháp giới như thế nào đó.
Vấn đề: Đó chỉ là khái niệm để nhận thức hay là mỗi người phải có công phu tu tập chuyên biệt?
Traleg Rinpoche: Quý vị phải có công phu tu tập chuyên biệt, thực vậy. Như tôi đã nói, khi các nhà Du-già hành tông và Kim cương thừa đã lập nên hệ thống học thuyết, thì giáo lý ấy phải có giá trị thực tiễn về mặt hành trì. Sẽ vô ích khi ngồi không mà suy gẫm về thế giới.
Nhuận Châu dịch
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks