Thực hiện bước đột phá:

Thuốc giải độc cho sự thiếu hiểu biết là tri thức (vijja), được định nghĩa như là kiến thức hiểu biết về Tứ diệu đế. Sự thâm nhập bước đầu tiên của Tứ Diệu Đế xảy ra với sự đạt được là sự chứng ngộ thánh quả Dự lưu, được gọi là sự đột phá về Pháp (dhatnmabhisamaya) hay còn gọi là đắc được pháp nhãn. Để làm cho bước đột phá này không dễ dàng, nhưng nếu không làm như vậy thì không thể chấm dứt được đau khổ. Do đó, Đức Phật lại thúc giục các đệ tử ‘thực hiện một nỗ lực phi thường’ (make an extraordinary effort) để đạt được sự đột phá về chân lý.[15] “Sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ... khi như thật giác ngộ Thánh đế về nguyên nhân của khổ, khi như thật giác ngộ Thánh đế về sự diệt khổ, sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt, ta sẽ chơn chánh đoạn tận Khổ đau; sự kiện này có xảy ra.”[16]

Theo Câu Xá Luận, Biết rõ về Tứ thánh đế được gọi là Tận trí và Vô sinh trí. “Tận trí là gì? – khi tự biết được ‘ta đã biết rõ về khổ, ta đã đoạn trừ tập, ta đã làm cho diệt hiện khởi, ta đã tu tập đạo, và từ đó xuất phát sự hiểu biết (jñāna, trí) (tad upādāya yaj jñāna), sự nhìn thấy (darśana, kiến), sự sáng suốt (vidyā, minh), sự giác ngộ (bodhi, giác), sự liễu giải (budhi), sự phân biệt (prajñāna), sự sáng tỏ (āloka), sự quán thông (vipaśanā) thì gọi là Tận trí.” Vô sinh trí là gì? - khi tự biết được: “ta đã biết rõ về khổ và không còn phải tìm hiểu về khổ nữa…, ta đã tu tập đạo và không còn phải tu tập gì nữa’, và từ đó xuất phát sự hiểu biết, v.v. thì gọi là vô sinh trí.

Do vậy đối với bốn chân lý, khổ, tập, diệt, và đạo chúng ta cần như thật rõ biết, thâm nhập để không còn trầm luân trong luân hồi sanh tử chịu nhiều đau khổ, và không bị rơi xuống vực thẳm của sinh, lão, bệnh và tử.

Đoạn tận lậu hoặc: Sự đoạn tận lậu hoặc (āsava) là mục đích cuối cùng của trí tuệ trong đề mục đất của tuệ về ‘Tứ diệu đế’. Khi các hành giả thực hiện bước đột phá và thấy rõ về giáo lý Tứ Diệu Đế, nhưng nhiều vấn đề vẫn còn ở phía trước, đó là đối với mỗi chân lý cần áp đặt một nhiệm vụ phải được hoàn thành để giành chiến thắng trong trong sự chứng ngộ các quả vị tu tập. Cụ thể, sự thật về khổ đau, bao gồm năm uẩn, phải được hiểu đầy đủ (pariññeyya). Sự thật về nguồn gốc của đau khổ, ái, cần phải đoạn trừ (pahatabba). Sự thật của sự đoạn diệt, Niết Bàn, phải được nhận ra (sacchikatabba). Và sự thật về con đường đưa đến đoạn tận khổ đau, Bát Chánh Đạo, phải được tu tập (bhavetabba).

Cần phải được áp dụng thực tập con đường đưa đến cho hoàn thành tất cả bốn nhiệm vụ, lúc này vị thánh đệ tử bắt đầu đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc. Quá trình này bắt đầu bằng sự thâm nhập cùng Bốn Thánh Đế và do đó đức Phật nói rằng sự đoạn tận các lậu là dành cho những người biết và thấy rõ về Bốn Thánh Đế.[17]

“Với người biết, với người thấy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố các lậu hoặc được đoạn tận, không phải với người không biết, với người không thấy. Và do biết gì, do thấy gì, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận? Do biết, do thấy: ‘Đây là Khổ’, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận. Do biết, do thấy: ‘Đây là Khổ tập’... ‘Đây là Khổ diệt’... Do biết, do thấy: ‘Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt’, các lậu hoặc được đoạn tận.”[18]

Như vậy, giống như một bác sĩ giỏi cố gắng khám phá ra căn bệnh nan y và đưa ra phương thuốc chữa trị. Đức Phật, vị bác sĩ tâm linh vĩ đại, đã cố gắng tìm ra nguyên nhân cuối cùng của khổ đau trên thế gian. Ngài đã tìm ra nguyên nhân gây đau khổ đó là vô minh và tham ái, từ đó dạy cho mọi người cần phải đoạn trừ chúng để chứng ngộ thánh trí giác ngộ. Vì vậy, giáo lý Tứ diệu đế với hai tầng nhân quả (thế và xuất thế) đã được so sánh với một sự phát hiện căn bệnh y khoa, chẩn đoán, chữa bệnh theo y học hiện đại.

Chi chú:

[1] Trung Bộ I, kinh Tượng Tích Dụ, Đại Kinh, trang, 184.

[2] Maurice Walshe (trans.), Dīgha Nikāya, The Long Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2012, p. 239.

[3] F. L. Woodward, The Book of the Kindred Sayings, Vol.V, Motilal Banarsidass, Delhi, 2005, p. 357.

[4] Ibid., p. 357.

[5] Ibid, p. 357.

[6] Ibid, p.357.

[7] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, 1854.

[8] Ibid., pp. 1851-52.

[9] Bhikkhu Khantipālo, (trans.), The Buddha’s Last Bequest, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 2008, p.12.

[10] S.V.437. Woodward. Vol.5, p. 370, See, Harcharan Singh Sobti, Nibbāna in Early Buddhism, EBL, Delhi, 2011, p. 122.

[11] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, p.1858.

[12] Ibid, p.1852.

[13] Tỳ Khưu Bodhi, Những lời Phật dạy, (Bình Anson dịch), NXB, Thanh Niên, 2016, p. 460-61.

[14] Opcit, p. 1866.

[15] Bhikkhu Bodhi, In the Buddha’ Word, An Anthology of Discourses from the Pāli Canon, Wisdom publications, Boston, 2005, p. 317.

[16] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, p. 1858.

[17] Opcit, p. 312.

[18] Opcit, p. 1855.

(Thích Trung Định)