(Tiếp theo) Như đã nói, tôi công nhận nhiều ích lợi và điều tốt lành đem đến bởi tôn giáo. Tuy vậy, những mê tín dị đoan, những điều huyễn hoặc tà mị, lường gạt bóc lột, đàn áp, cưỡng bách, tàn ác, vô đạo đức, v.v. liên quan đến triết lý nền tảng của Thiên Chúa Giáo và nhiều lãnh vực thực hành của cái gọi là Phật Giáo ngày nay cần được mọi người nhìn thấy và công nhận.


Tôi không muốn chấp nhận những điều trên vì chúng có nhiều ảnh hưởng xấu cho xã hội và con người, trong đó có tôi và các thế hệ con cháu của tất cả chúng ta.


Nếu chữ “tín đồ” có thể dùng để chỉ mọi người tin theo một hệ thống tín ngưỡng hay tôn giáo nào đó, kể cả Phật tử, con chiên lẫn tăng ni, tu sĩ, linh mục, v.v. thì, theo tôi, tín đồ vì đã bị thuần hóa từ nhỏ bởi quan niệm “bất cứ điều gì liên quan đến tôn giáo, kể cả các lãnh tụ và tổ chức tôn giáo, đều là thiêng liêng và do đó bất khả xâm phạm” nên họ không muốn, và không dám, đối diện các vấn đề trên. Tôi thông cảm, nhưng không muốn chấp nhận, điều nầy.


Có những người tự cho là “trí thức” (hay đáng lẽ biết sử dụng lý trí và kiến thức của họ) nhưng lại trực tiếp lẫn gián tiếp bảo vệ cũng như truyền bá những tư tưởng cổ hủ và huyễn hoặc. Tôi ngao ngán và bực bội trước sự thiếu văn hóa, lẫn thiếu trách nhiệm, của họ.


Nói chung, tôi cho rằng những mê tín dị đoan, những điều huyễn hoặc tà mị, lường gạt bóc lột, đàn áp cưỡng bách, tàn ác, vô đạo đức, v.v. nói trên là một dạng gông cùm của tâm linh con người. Qua lịch sử và đời sống xã hội, tôi nhìn thấy đầy rẫy chung quanh tôi tác hại của chúng.


Nhận định đó đã giúp tôi có thể tẻ hướng đi riêng theo một con đường khác và thoát ra khỏi những gông cùm ấy.


Có người hỏi tại sao tôi phê bình, chỉ trích tôn giáo. Họ cho rằng tôi làm như vậy là không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người khác.


Theo tôi thì phê bình, chỉ trích tôn giáo, và nhiều sự kiện liên quan đến tín ngưỡng, không có nghĩa là không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người khác. Tương tự, tôi tôn trọng quyền tự do bài bạc, uống rượu của người khác nhưng không có nghĩa là tôi không phê bình, chỉ trích những sự kiện tai hại liên quan đến bài bạc và nghiện ngập.


Đối với tôi thì bài bạc, rượu chè và tôn giáo đều là những sản phẩm của con người. Bài bạc, rượu chè có giá trị tiêu khiển, giải trí nhưng cũng có những tai hại của chúng. Những tai hại nầy vì rõ rệt về vật chất nên nhiều người nhìn thấy được. Tôn giáo có những giá trị tâm linh, tinh thần nhưng tương tự cũng có những mặt tệ hại, tai hại của nó. Điều khác biệt là những tai hại của tôn giáo vì phức tạp và không hiển nhiên nên nhiều người không nhận thấy. Điều khác biệt nữa là vì tôn giáo được xem là “thiêng liêng” nên được nhiều người bảo vệ, che chở.


Hơn nữa, nếu tự do tín ngưỡng là quyền của một người được tin vào một điều gì đó thì nó cũng là quyền của một người khác được không tin vào một điều ấy. Nếu tín đồ được quyền phơi bày niềm tin của họ một cách công khai (thí dụ như xây dựng nhà thờ hay chùa chiềng, tham dự các buổi lễ hội cúng bái, bàn luận về giáo lý, v.v.) một cách thoải mái thì những người vô tôn giáo cũng phải có quyền được phát biểu công khai những tư tưởng phi tín ngưỡng của họ mà không lo sợ bị kỳ thị hay áp bức.


Có người hỏi tôi dựa vào tiêu chuẩn nào khi phê phán những người dùng đức tin của họ để lý luận.


Câu trả lời của tôi là tôi dùng cùng chung một tiêu chuẩn mà những người nầy vẫn dùng hàng ngày cho tất cả mọi lãnh vực khác trong đời sống của họ. Họ và tôi đều cùng dùng lý trí kết hợp với kiến thức khoa học và nguyên tắc lý luận cơ bản để suy xét, phân tích, kiểm chứng, so sánh, v.v trước khi đi đến bất cứ kết luận hay quyết định gì trong bất cứ lãnh vực gì liên quan đến từ vấn đề giao dịch, thương mãi,đầu tư cho đến các vấn đề sinh hoạt, vật chất lẫn tinh thần như ăn mặc, mua sắm, đi đứng, giao thiệp, hôn nhân, giáo dục, văn hóa, giải trí, v.v. và v.v.


Đối với tôi thì điều đáng buồn là thế mà khi bàn luận về lãnh vực tín ngưỡng thì những tín đồ nầy lại loại bỏ tất cả các phương tiện suy luận trên để thay thế chúng bằng khái niệm “đức tin”. Khái niệm “đức tin” nầy trong tôn giáo đòi hỏi một sự tin tưởng vô điều kiện bằng cách gạt bỏ mọi suy luận dựa trên cơ sở thực tế.


Có người gán đặt là tôi có ý định muốn bài trừ, dẹp bỏ tôn giáo.


Theo tôi thì việc tiêu diệt tôn giáo chỉ là mơ mộng của các chuyên gia vô thần. Tôn giáo đã và sẽ mãi mãi hiện diện với con người. Tôn giáo có nhiều ích lợi lớn: trong nhiều trường hợp, nó đem đến sức mạnh và đoàn kết con người với nhau. Ích lợi quan trọng nhất của tôn giáo là có tác dụng như một loại thuốc an thần hay giảm đau cho nhân loại. Có điều là thuốc an thần hay giảm đau nào cũng có phản ứng phụ và những trường hợp lạm dụng. Khi phê bình về tôn giáo và tín ngưỡng ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh về những phản ứng phụ của chúng và những trường hợp lạm dụng mà thôi.


Chẳng những thế, tôi cũng không có tham vọng thuyết phục làm người khác từ bỏ niềm tín ngưỡng và tôn giáo của họ. Tôi chỉ muốn trình bày về bản chất thật sự của tín ngưỡng và cái bề mặt đen tối, tai hại của tôn giáo cho người khác thấy mà thôi. Không ai có thể làm ai khác từ bỏ niềm tin của họ được. Chỉ khi nào một người tự chất vấn và tự nhận thấy bản chất thật của tôn giáo rồi và nếu muốn thì may ra một ngày nào đó họ tự thay đổi cái nhìn về tâm linh của họ.


Tôi dùng chữ “may ra” ở trên là vì ngay cả khi một người đã nhận thấy tôn giáo của họ có các khuyết điểm nghiêm trọng nhưng trong đa số trường hợp họ không thể thay đổi gì cả. Phần lớn những người nầy sẽ lo sợ sự chống đối của gia đình của họ, không muốn đối phó với áp lực của cộng đồng và xã hội, không muốn bị kỳ thị là người“vô thần”, v.v. Cái lý do lớn nhất thường là họ không có đủ can đảm chịu nhận là họ và gia tộc lẫn cả truyền thống của họ đã sai lầm trong vấn đề nầy. Phản kháng lại niềm tin và tôn giáo của chính mình cần có rất nhiều can đảm, nhất là để làm điều đó công khai.


Tuy vậy, tôi hy vọng là có những người nếu họ đã hiểu rõ bản chất thật sự của tín ngưỡng thì họ sẽ bớt e dè, sợ sệt để chất vấn, tìm hiểu các vấn đề đáng được chất vấn, tìm hiểu trong tôn giáo của họ. Tôi biết có nhiều người đã mang những nghi ngờ, đã nhận thấy những khuyết điểm trầm trọng trong tôn giáo của họ nhưng vẫn còn đang ngần ngại không biết phải nghĩ sao hay làm gì. Khi đọc qua những quan điểm của tôi thì hy vọng họ có thể sẽ tự tin hơn để củng cố thêm được cái nhìn của họ và tự đi đến những kết luận riêng cho chính họ.


Kế đó, tôi cũng hy vọng là có những người nếu họ nhận thấy được cái bề mặt đen tối, tai hại của tôn giáo thì họ sẽ hành sử và áp dụng niềm tín ngưỡng của họ vào đời sống một cách thích hợp hơn.


Thí dụ, họ sẽ tự giải thoát họ ra khỏi những tín điều cổ hũ, vô lý trong tôn giáo của họ. Thí dụ, họ sẽ không còn sợ sệt bởi những hăm dọa hoang đường hay bị dẫn dụ bởi các hứa hẹn ảo tưởng trong kinh sách. Thí dụ, họ sẽ không còn tôn thờ các tăng sư, linh mục một cách mê muội và nhắm mắt nghe theo các lời giảng dạy của những người nầy một cách mù quáng. Thí dụ, họ sẽ không còn bị gạt gẫm, tự gạt gẫm và góp phần truyền bá sự gạt gẫm nầy đến người khác và các thế hệ con cháu của họ.


Tuy nhiên, đây phải là quyết định riêng của mỗi cá nhân. Nếu họ muốn thì họ phải tự bước tới về hướng đi mà họ lựa chọn. Tôi chỉ có thể nói về dòng suối của tôi; những ai đang khát nước cần phải tự tìm đường đến dòng suối của họ để uống.


Theo tôi, chúng ta ai cũng cần có trách nhiệm phải nhìn thấy những tệ nạn sai trái trong tôn giáo và giúp cho mọi người khác nhìn thấy những tệ nạn sai trái nầy. Nếu không thì làm sao có hy vọng gì nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống xã hội? Nếu mỗi thế hệ của cả dân tộc càng ngày càng tràn ngập những người tối ngày chỉ biết đi chùa bái lạy cầu phước, cúng vong hay vào nhà thờ khấn nguyện cho linh hồn họ được cứu rỗi thì tương lai dân tộc đó sẽ đi đến đâu?


Về mặt giải quyết các vấn đề trong xã hội, dân tộc đó sẽ trở thành những người thay vì suy nghĩ, nghiên cứu tìm ra giải đáp hay tranh đấu và tìm phương hướng hành động thì họ chỉ biết dựa vào những sức mạnh vô hình hoang tưởng. Nếu cúng bái và cầu nguyện đem lại kết quả thì tại sao vẫn còn những chết chóc, khổ đau, bất hạnh cũng như vô số điều bất công, dã man xảy ra hàng ngày ngay cho những tín đồ sùng đạo nhất?


Về mặt trí tuệ, thay vì nhận diện những việc lường gạt, bóc lột, lạm dụng quyền hành vì tư lợi để tích cực cải sửa thì họ lại e sợ bị mất phước đức hay bị mang tội nếu phê bình các tu sĩ, tăng sư (“Ai làm sai trái thì họ có tội còn tui chỉ biết đọc kinh, lần chuỗi”). Họ sẽ trở thành một dân tộc được huấn luyện biết vâng lời vô điều kiện bất kể sai đúng miễn là họ được an thân. Họ cũng sẽ là những thế hệ được dạy dỗ phải từ bỏ lý trí và khả năng suy xét để lệ thuộc một cách tiêu cực vào sự phán đoán kể cả vô căn cứ của kẻ khác.

(còn tiếp)