"Tôi yêu những hình ảnh quê hương của bàn thờ ông thiên trước sân mỗi nhà trong xóm quê, của bà mẹ già lụm cụm thắp hương khấn vái tổ tiên trong đêm giao thừa, của lễ hội đình nhộn nhịp với nhang đèn tượng mã rực rỡ.
Tôi yêu những mẩu chuyện mộc mạc của bà lão cúng ông địa nãi chuối khi tìm ra bầy gà tưởng đã đi lạc mất, của anh tài xế xe đò đốt giấy tiền vàng bạc cho cô hồn trước đầu xe mỗi sáng để đừng gặp tai nạn, của bác ngư phủ không cho vợ đặt chân lên thuyền khi đang trong kỳ kinh nguyệt vì sợ xui xẻo.
Tôi hiểu được khi một người mắc bệnh ung thư ở giai đoạn cuối cùng thì không có gì cần thiết và quan trọng hơn lời hứa hẹn rằng cái chết sắp đến với họ thật ra chỉ là giai đoạn chuyển tiếp vì rồi họ sẽ vẫn còn hiện hữu ở một cõi thế giới nào khác toàn vẹn và vĩnh cửu hơn.
Tôi hiểu rằng đối với một người mẹ đang bồng trên tay đứa con vừa qua đời, chỉ có niềm tin rằng đứa con nầy vẫn còn tồn tại đâu đó và bà rồi sẽ có dịp gặp lại nó một ngày trong tương lai mới có thể xoa dịu phần nào được sự đau đớn tột cùng của bà.
Tôi thông cảm rằng những người đang sống cuộc đời bần hàn, khốn khổ có thể cảm thấy an ủi ít nhiều khi tin rằng Thượng Đế toàn năng từ bi của họ vì lý do huyền bí gì đó đã sắp đặt cho cuộc đời họ như vậy (nếu họ là một tín đồ Thiên Chúa Giáo), hoặc vì kiếp trước họ đã làm nhiều điều tội lỗi nên kiếp nầy họ đành phải trả cho hết nghiệp dữ đó (nếu họ là một tín đồ Phật Giáo).
Tôi nhìn thấy được giá trị và sự quan trọng của các niềm tin trên. Tôi hiểu rằng đây là một loại thuốc an thần cần thiết để giúp những người nầy đối phó với các nỗi sợ hãi, khổ đau, mất mát trong đời sống họ.
Tuy vậy, ở một mức độ tri thức khác tôi không có kiên nhẫn với những người quảng bá và duy trì các điều tệ hại và tai hại xảy ra trong tín ngưỡng nói chung và nhất là trong các tổ chức tôn giáo nói riêng.
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình đạo Phật tiêu biểu. Cũng giống như hầu như tất cả mọi đứa trẻ khác, tôi theo đạo của gia đình tôi. Tôi cũng bắt chước theo người lớn ăn chay, đi chùa, lạy Phật, làm phước. Có một lúc, hoàn cảnh đưa đẩy tôi tiếp cận với Thiên Chúa Giáo. Vì vậy có thể nói là tôi khá quen thuộc với những niềm tin cơ bản của hai đạo nầy. Nhưng có thể nói rằng trong hơn ba mươi năm đầu tiên trong đời tôi đã sống như là một người theo đạo Phật “bình thường”.
Thật ra ngay từ lúc đó tôi đã có vài mối nghi ngờ và bất đồng ý về một số điều giảng dạy trong các đạo nầy. Tuy vậy, cũng như bao nhiêu người khác, tôi không bao giờ dám thắc mắc hay chất vấn vì tôi đã được dạy dỗ từ bé rằng tất cả những gì thuộc về tôn giáo đều là “thiêng liêng” và phải được kính nễ.
Đến một cỡ tuổi nào đó, người ta thường để dành nhiều thì giờ hơn cho lãnh vực tâm linh. Có lẽ đó là lúc mà họ chợt nhận thấy sự mong manh và ngắn ngủi của đời sống. Có lẽ đó là lúc mà ngoài những bận bịu, đam mê, cám dỗ thường ngày trong đời sống thì sự chết bất chợt bắt đầu trực tiếp hay gián tiếp lảng vảng đâu đó trong tiềm thức và tư duy của họ.
Khi giai đoạn nầy xảy đến với tôi, tôi bắt đầu tự tìm tòi, học hỏi tích cực về tôn giáo; bắt đầu là Phật Giáo rồi kế đó là Thiên Chúa Giáo. Thuở nhỏ tôi nói chung là một học sinh giỏi. Tôi siêng học, nhất là các môn tôi ưa thích như toán, vật lý, hóa học, triết lý và sau nầy, luận lý học. Các môn học trên đem lại cho tôi một khả năng phân tích và suy luận cơ bản khá vững chắc.
Có lẽ vì thế mà khi tìm học về tôn giáo thì tôi một nửa để thỏa mãn nhu cầu tâm linh và một nửa với tinh thần của một khảo cứu gia. Tôi bắt đầu tự tìm tòi học hỏi thêm về lãnh vực tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo. Và thay vì chỉ đọc những tài liệu viết bởi các tác giả tôn giáo mà thôi, tôi cũng đọc những tài liệu viết bởi các tác giả “ngoại đạo” nữa. Nhờ vậy mà tôi có sự so sánh giữa những quan điểm khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Theo sự hiểu biết của tôi, một trong những lời dạy cơ bản nhất của Thích Ca Mâu Ni là “Hãy dùng tri thức mà tự suy nghĩ để tìm hiểu về chân lý; đừng nhắm mắt mù quáng nghe theo lời của bất cứ ai, kể cả của Ta”. Tôi dùng lời dạy trên của Thích Ca Mâu Ni làm tôn chỉ gối đầu. Tôi không chấp nhận một tín điều, một lời giảng dạy, một lý thuyết nào vô điều kiện. Tôi luôn luôn thắc mắc, chất vấn, phân tích, tranh luận với mọi người - và quan trọng nhất là với chính tôi.
Tôi liệt kê ra những câu hỏi như “chuyện gì xảy ra sau khi chết?”, “có linh hồn hay không?”, “ma quỷ thần thánh Trời Phật có thật không?”, “con người từ đâu đến?”, v.v. rồi tự tìm tòi và đúc kết các lý thuyết khác nhau lại để cố đưa ra những câu trả lời cho chính tôi. Các câu trả lời nầy nhiều lúc thay đổi theo thời gian và theo những kiến thức mới hơn, những cách suy nghĩ khác hơn của tôi. Nói cách khác, các câu hỏi lẫn các câu trả lời của tôi tiến hóa theo kiến thức và sự suy nghĩ của tôi.
Qua một quá trình tìm tòi, phân tích, suy luận dài thì các lý thuyết và câu trả lời của tôi dần dần quy tụ về một hướng. Và hướng nhìn nầy không cho phép tôi chấp nhận đại đa số những gì mà các tôn giáo nói chung (nhất là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo nói riêng) đang quảng bá và truyền dạy.
Vào khoảng đầu thập niên 1990, tôi có dịp quen biết một tu sĩ Phật Giáo du mục người Anh pháp danh Abhinyana (đã từ trần vài năm trước). Tư tưởng của ông ấy nói chung là “Nếu thấy điều xằng bậy trong lãnh vực tôn giáo, tín ngưỡng mà không mạnh dạn lên tiếng phê bình, chỉnh sửa thì không làm tròn trách nhiệm của một người tự xưng là đi theo con đường Phật pháp”. Có lẽ đây là lần đầu tiên mà tôi gặp một tu sĩ làm chuyện nầy, và có lẽ đây là bước ngoặc thay đổi hẳn cách nhìn của tôi về phương diện tâm linh.
Từ đó tôi trở thành một người vô tôn giáo."
(Nguyễn Nhân Trí - còn tiếp)
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks