Trang 4 trong 18 Đầu tiênĐầu tiên 1234567891014 ... Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 61 tới 80 trên 352

Ðề tài: CHÁNH PHẬT PHÁP LUẬN BÀN

  1. #61

    Mặc định

    Trời, đạo hữu phapchieumt dễ bị ma chướng làm cho nổi sân si lên rồi. A Di Đà Phật.
    Nên quán công đức biết bao lâu nay dày công tu tập, chỉ trong phút chốc như vậy rất dễ bị đổ sông đổ biển đạo hữu phapchieumt à, cố gắng lên nhé.

  2. #62

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Giga Xem Bài Gởi
    Trời, đạo hữu phapchieumt dễ bị ma chướng làm cho nổi sân si lên rồi. A Di Đà Phật.
    Nên quán công đức biết bao lâu nay dày công tu tập, chỉ trong phút chốc như vậy rất dễ bị đổ sông đổ biển đạo hữu phapchieumt à, cố gắng lên nhé.
    Người này học phật trên văn tự không có công phu hành trì. Nhung ban nga ngút troi xem ai cungz là rác ruoi. Tu thien bguyen thuy moi 6 thang ma đa di vao canh gioi tau hoa nhap ma. Moi vai nam truoc con lon ton hoc that son than quyen hoc cam xa roi hoc thien tinh song tu. Moi cuoi nam ngoai con luom lat to su thien. Dau nam bay hoc thien nguyen thuy quay ngat ra dap do tat ca giaonky kinh duen dai thua tu thien tinh mat xem ban dao nhu rac ruoi. Va là tổ sư nói dốc co biet gi vebthan thong ma noi 10 năm trước trừ tà diệt quỷ. Moi 3-4 nam ve truoc con lon ton đen nhà cậu an 3 lân de xem boi roi den nga co hang roi doi xin thinh xa loi. Cam on Gi Ga nhắc nhở mấy hạng trẻ trâu này mình gap hoai o ngoai doi va trong cac dien dan roi nen an tam di ko the thoi bay noi minh du mot cong long. Neu ko lat mat bo mat gia tao ke nay han se pha hoai chanh phap lam cac ban dao khac hoang mang ma ko buoc vao con duong nhu lai. Va de cho cai ga nay tinh ngo ko dam khua moi mua nep nua. Neu con dam noi tam bay nua thi minh se dang cac bai viet cu cua han de chi han xem han la mot nguoi tro tren khoac lac nhu the nao. A di đà phat!
    Last edited by phapchieumt; 23-06-2017 at 07:52 AM.
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  3. #63

    Mặc định

    Ha ha ha! Noname có xem ai là rác rưởi đâu nhỉ trừ đạo hữu nếu đạo hữu tự thấy như vậy? Xin đạo hữu cho dẫn chứng xem noname xem ai là rác rưởi nhé. Những môn noname đã từng học thì nhiều lắm kể không hết được. Nhờ vậy noname mới am tường vạn pháp. Tất cả những gì noname đã trải qua noname đều thấy không có gì để phải hổ thẹn với lòng mình, cũng coi như 1 thời hành hiệp kết bạn bốn phương. Ha ha ha ha!
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  4. #64

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nonamepas Xem Bài Gởi
    Ha ha ha! Noname có xem ai là rác rưởi đâu nhỉ trừ đạo hữu nếu đạo hữu tự thấy như vậy? Xin đạo hữu cho dẫn chứng xem noname xem ai là rác rưởi nhé. Những môn noname đã từng học thì nhiều lắm kể không hết được. Nhờ vậy noname mới am tường vạn pháp. Tất cả những gì noname đã trải qua noname đều thấy không có gì để phải hổ thẹn với lòng mình, cũng coi như 1 thời hành hiệp kết bạn bốn phương. Ha ha ha ha!
    Bạn Am tường vạn Pháp thì chắc bạn chứng Quả Phật rồi. Dạ Phật hiệu của ngài là gì để con xưng danh kiếm chút công Đức đi ạ.
    Mình thấy bạn đã quá cống cao rồi. Nếu không biết quay đầu, sám hối những gì bạn đã và đang làm trên diễn đàn này, sau này bạn sẽ hối hận, lúc đó muộn mất rồi.
    Last edited by Thiên Việt; 23-06-2017 at 10:34 AM.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  5. #65

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nonamepas Xem Bài Gởi
    Tiện đây để hôm nào noname sẽ có một bài viết về bùa chú ngải nghệ, hi vọng các đạo hữu sẽ có một cái hiểu chính xác hơn về năng lực của những pháp này. Thân chào!
    Viết về cái này bạn nên cẩn thận đó nghe..
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  6. #66

    Mặc định

    Xem ra ai cũng muốn chứng tỏ mình. Đâu ai muốn mình là hạng cắc ké trong xã hội. Điều này thật dễ hiểu. Nhưng biết đâu mình học được gì đó từ những bài viết của họ.

  7. #67

    Mặc định

    Trung Bộ Kinh, Kinh Số 42, Kinh Veranjaka của Phật Giáo Tiểu Thừa nói như vầy:

    Này các Gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông biết"; dầu cho người ấy không biết, người ấy nói: "Tôi biết"; dầu cho người ấy biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; hay dầu cho người ấy không thấy, người ấy nói: "Tôi thấy"; hay dầu cho người ấy thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy". Như vậy, lời nói của người ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Và người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia, nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ hòa hợp hay xúi dục những kẻ ly gián, ưa thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú phá hoại, nói những lời đưa đến phá hoại. Và người ấy là người nói lời thô ác. Bất cứ lời gì thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như vậy. Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích. Như vậy, này các Gia chủ, có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo.

    Và này các Gia chủ, thế nào là ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!" Lại có người có tâm sân, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: "Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không còn tồn tại!" Lại có người có TÀ KIẾN, có TƯỞNG ĐIÊN ĐẢO như: "Không có bố thí, không có kết quả của bố thí, không có tế lễ, không có cúng dường, các hành vi thiện ác, không có kết quả dị thục, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, trong đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chính hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau". Như vậy, này các Gia chủ, là ba ý hành phi pháp, phi chánh đạo. Như vậy do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các Gia chủ, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  8. #68

    Mặc định

    @huynh 123456789 : Những người trên mà huynh nói, sao giống tánh của tỳ na dạ ca quá, vì các vị tỳ na dạ ca cũng không ưa tu đạo, họ chỉ thích làm chướng nạn người tu đạo mà thôi

  9. #69
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,577

    Mặc định

    NN thấy trong cõi giới vô hình, có rất nhiều chúng sanh có rất nhiều ác tâm lắm. Họ không bao giờ muốn cho những chúng sanh khác an lạc đâu. Tuy nhiên, NN thấy bạn Nonamepas còn trẻ cho nên còn nhiều bồng bột lắm, cũng vì thế mà có những sự phát biểu rất là “trái chiều.”

    NN cũng mong rằng sau này bạn Nonamepas trưởng thành thêm nửa thì bạn sẽ có nhìn đúng đắn hơn và một khi bạn mà đã chửng chạt rồi thì nếu có một lần nào đó yên tịnh, bạn sẽ là như những gì mà NN đã làm ở topic “Sự Khác Biệt Danh Xưng?” đó. Ở đây, NN đã “làm” ra sự sai lầm để rồi mình phải “sám hối” cho những cái sai lầm của mình đó. Và NN khuyên bạn nên làm như NN đã làm vì cái chuyện như bạn đã nói rằng Đức Phật A Di Đà là không có thiệt đó.

    NN thất sự không quen biết huynh Phapchieumt đâu, tuy nhiên NN biết huynh PCMT cũng đã từng hộ niệm cho người tu theo Tịnh Độ trong lúc vãng sanh. Khỏi nói và chuyện có Đức Phật A Di Đà và những chuyện mầu nhiệm của Ngài có hay không thì huynh PCMT biết rất là rõ. Nếu không có thì huynh PCMT không bao giờ giận dữ khi nói về bạn Nonamepas đâu.

    Cho nên, bạn Nonamepas phải “sám hổi”, nếu không thì sau này có muốn sám hói cũng đã muộn rồi. Không những vậy, NN cũng khuyên những người sơ cơ, mới tu tập về đạo Phật. Nếu sau này mà mình có làm gì sai thì nên biết “sám hối” với chu Phật 10 phương.

    Thân
    NN
    To You With Love

  10. #70

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi khoatin6 Xem Bài Gởi
    @huynh 123456789 : Những người trên mà huynh nói, sao giống tánh của tỳ na dạ ca quá, vì các vị tỳ na dạ ca cũng không ưa tu đạo, họ chỉ thích làm chướng nạn người tu đạo mà thôi
    Vâng, đúng như vậy huynh khoatin6,

    Vì là là đời mạt pháp, nên nếu tu không kỹ thì rất dễ bị ma quỷ dựa nhập, nghe những lời xúi dục của nó, và nhất là khi nghe những lời giảng của các ác tri thức, nếu không có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thì rất dễ bị ma chướng che tâm. Xin hãy đừng xem thường, vì những lời nói đó có đầy ma lực, dù muốn không tin cũng rất khó, tuy biết nó sai nhưng vì bằng một cách nào đó ma lực đó luôn muốn phá hoại tâm mình, nên khi tu tập thường hay có những trạng thái nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng, phiền não…

    123456789 còn nhớ khi xem qua những bài Kinh như Tô Bà Hô Đồng Tử Sở Vấn, Tỳ Nại Gia Kinh… do vị cư sĩ Huyền Thanh dịch ra, thấy các chướng nạn mà các vị Tỳ Na Dạ Ca gây ra thật quá nguy hiểm rồi. Đến khi sau này khi nghe lời khuyên của thầy mình, và đã đọc Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói về 50 Ngũ Ấm Ma như 10 Ma Sắc, 10 Ma Thọ, 10 Ma Tưởng, 10 Ma Hành, 10 Ma Thức rồi thì lúc đó mới thật sự giật mình.

    123456789 lúc xưa khi tu tập, bị nhiều trở ngại cực kỳ. Cảm xúc lẫn lộn của nội tâm, tri kiến bất tịnh, suy nghĩ bậy bạ lung tung, ngoại cảnh chi phối… đủ thứ tùm lum hết. Nghĩ lại ở ngoài đời gặp nhiều phiền não khổ đau thì không nói rồi, bây giờ bước vào đạo thì lại gặp những tình trạng này nữa thật là mệt mõi, tưởng chừng như sắp bị tẩu hỏa nhập ma…

    Đến khi chịu không nổi nữa, 123456789 đến gặp thầy của mình và bạch những lỗi lầm rắc rối như vậy, thì ngài nhập định quán sát xong rồi bảo “Con tuy tu hành có chút công phu, nhưng không chịu giữ giới luật, suốt ngày cứ ăn thịt, ăn ngũ vị tân, nhậu nhẹt, rượu chè, gái gú… tùm lum đủ thứ như vậy mà mong rằng đừng chướng ngại hay ma chướng gì hết. Con phải nhớ là có Giới mới sanh ra Định, có Định rồi mới sanh ra Tuệ đúng đắn được”

    123456789 bạch lại rằng “Dạ thưa thầy, dù gì đi nữa, thì con vẫn là cư sĩ, đôi khi con cũng phải giao lưu bạn bè, ăn uống chung vui…. nếu mà kiêng cữ toàn bộ 100% thì vô cùng khó khăn đối với con, xin thầy từ bi hãy tìm cách giúp con vượt qua được những chướng nạn và ma chướng này”

    Thầy lại im lặng nhập định khoảng 5 phút, lúc đó 123456789 niệm Phật. Khi xuất định thầy bảo rằng “Đó cũng là do nghiệp chướng của con, từ này trở đi con phải ráng cô gắng giữ gìn giới luật. Và phải ráng đọc tụng chú Thủ Lăng Nghiêm đầy đủ 5 đệ trước khi công phu hành trì, để tịnh hóa những ác nghiệp, phá giới, ma chướng, và chướng ngại vật. Khi tụng chú này thì ngay cả loài Tỳ Na Dạ Ca thường xuyên gây chướng nạn cho người tu hành, cũng sẽ quay lại ủng hộ con, khiến con tu hành được thuận lợi. Lại có các vị Kim Cang Tạng Bồ Tát sẽ luôn ủng hộ theo con để giúp con thoát khỏi mọi ma chướng. Nếu con bị nhiều việc ràng buộc con cũng nên ráng làm sao mỗi ngày trì chú Thủ Lăng Nghiêm cho được một biến, vì nếu trì chú Thủ Lăng Nghiêm cũng được các Đức Phật ban cho con công đức, để công ăn chuyện làm cũng như việc tu hành của con sẽ ngày càng thuận lợi hơn. Lại trong lúc không có thời gian hành trì nghi quỹ lại xa nhà, mà tụng đọc chú Thủ Lăng Nghiêm thì công đức cũng giống như hành trì đầy đủ trong đạo tràng vậy. Con cũng nên thường xuyên niệm Phật để được sự phóng quang của Phật và sẽ có 25 vị Bồ Tát luôn bên cạnh ủng hộ con.”

    123456789 hỏi tiếp “Thưa thầy, thần chú Lăng Nghiêm này thật vi diệu không thể nghĩ bàn, nhưng cho con hỏi, hiện nay có nhiều bản khác nhau như Tiếng Hoa, Tiếng Viêt, Tiếng Phạn, và nhiều bản dịch khác nhau bởi các vị Sa Môn thuở xưa trong Đại Tạng Kinh vậy con nên chọn bản nào để trì tụng được chính xác và hiệu nghiệm nhất?

    Thầy đáp “Bản nào cũng tốt cả, tất cả điều là phương tiện để giúp chúng sanh ngộ vào thật tánh vốn bao trùm vạn pháp, và vượt ngoài ngôn ngữ. Chư Phật và Bồ Tát điều có Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni, nên trì tụng dù âm Phạn hay âm Việt, Hoa các ngài đều hiểu. Cái quan trọng nhất là con phải có lòng thành kính, tâm không hoài nghi là được. Linh nghiệm hay không là do lòng thành kính của con, vì muốn được linh nghiệm là phải có sự CHỨNG MINH của các ngài, mà âm thanh nào của chúng sanh các ngài cũng điều hiểu rõ nên con đừng hoài nghi, cái quan trọng chính là tâm thành kính và chân thành của con. Bằng chứng là những vị trì tụng Kinh Điển đã được dịch, và đã được cảm ứng rất nhiều. Như nghe đề Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà được thoát khổ địa ngục… tuy nhiên nếu được thì thầy khuyên con nên trì tụng bản của ngài Bát Lạt Mật Đế, vì ngài đã từ bi có Bồ Đề Tâm rộng lớn đã vì chúng sanh mà phải xẻ thịt nhét kinh vào để loan truyền cho thế gian, và bản Kinh của ngài đã được biên chép chính bản từ cung vua nên hoàn toàn chính xác. Và bản này cũng năm trong Kinh Nhật Tụng hằng ngày mà các sư thầy trong chùa điều tụng đọc.”

    123456789 hỏi tiếp “Vậy ngoại trừ những lợi ích trên, còn có công năng đặc biệt nào khác nữa không thầy?”

    Thầy đáp “Hiện nay trên thế giới, thầy thấy rất nhiều người sử dụng đủ loại bùa phép trong thế giới tâm linh để có nhiều lợi ích trong vấn đề kinh doanh, ăn nói, tình cảm, và quyền lực vượt trội nổi bật…. đủ thứ hết. Những loại bùa phép ấy tùy theo loại mà đã được các loài tinh linh, các vị Chư Thiên, các vị Thần Linh… ban lực gia trì trong đó, nên linh ứng cực kỳ. Tuy nhiên nếu con trì chú Thủ Lăng Nghiêm, sẽ luôn được các ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát cùng với tất cả Chư Thiên Long Bát Bộ hộ trì nên dù có thể con có bị ảnh hưởng bởi mặt tích cực nhưng sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các thế lực đó hãm hại dù là mãy may cọng tóc và quyền lực không thể vượt trội hơn mình. Vì các vị trong thế giới tâm linh đều ủng hộ yêu mến người trì chú Thủ Lăng Nghiêm”

    123456789 đáp: “Nam Mô A Di Đà Phật, con xin cám ơn thầy”

    Thầy dạy: “Giới Luật là nền tảng Phật Giáo, vô cùng quan trọng con hãy ráng cố gắng gìn giữ. Đừng có tưởng rằng ta có chú rồi, tha hồ muốn làm gì thì làm cũng giống như quan ác muốn dựa dẫm thế lực của vua để làm chuyện bậy, kết cuộc rồi cũng phải tự mình gánh lấy hậu quả nặng nề. Trong Kinh Velama của Tiểu Thừa cũng nói cúng dường Đức Phật cùng Chư Đệ Tử của Phật và Quy Y Tam Bảo cộng gộp tất cả lại công đức vẫn không bằng người phát tâm thọ trì Ngũ Giới. Vì vậy khi phá giới tội lỗi không thể tưởng tượng nổi được. Hãy nhớ lấy và đừng quên!”

    123456789 “Dạ”



    Và sau đó 123456789 lại gặp thầy Tây Tạng bổn sư hỏi ngài về cách để thoát ly khỏi chướng ngại và ngài đáp:

    “Con phải có Bồ Đề Tâm rộng lớn vì tất cả chúng sanh khi trì chú. Và con cũng nên thực hành pháp của chư tôn Phẫn Nộ khi nhận được quán đảnh và khẩu truyền của dòng truyền thừa để xua đuổi hết tất cả mọi ma chướng, và chướng ngại vật.”

    Và thầy đã ban sự khẩu truyền và hướng dẫn 123456789, nhưng 123456789 cảm thấy hồi hộp nếu thực hành tôn Phẫn Nộ nên chỉ xin nhận được sự ban ân phước của thầy thôi.

    Tuy nhiên nếu ai có đủ duyên lành nhận được sự quán đảnh và tu tập thì công lực cực kỳ mạnh. Ngài Khenchen Jigme Phuntsok Rinpoche có kể lại rằng:

    “Mipham Rinpoche đã biên soạn một bản luận giải gây tranh cãi, gọi là Ngọc Báu Soi Sáng, về chương chín cuốn Nhập Bồ Tát Hạnh của Tổ Tịch Thiên. Khi bản luận giảng đến các quận Sharkha, U và Tsang, lãnh đạo nhiều tu viện ở đó hiểu sai lập luận của Mipham Rinpoche và họ buộc chư tăng của họ đồng ý với điều này. Toàn bộ Tăng đoàn Sera, Drepung và Ganden, ba trụ xứ chính của truyền thừa Gelukpa, đã vân tập và cử hành các Pháp tu phẫn nộ nhằm tiêu diệt Mipham Rinpoche. Từ truyền thống Kinh thừa, họ tiến hành các Pháp tu chẳng hạn Xua Đuổi Ma Vương, và từ truyền thống Kim Cương thừa, họ tiến hành các Pháp tu chẳng hạn Sáu Mươi Pháo Đài Sắt.

    Mặc dù họ cố gắng làm hại thân thể của Mipham Rinpoche, hành động này đem đến những kết quả không mong đợi của việc đem lại lợi lạc và làm tăng danh tiếng và hoạt động của Ngài. Những kẻ thù của Ngài thấy rằng chư Hộ Pháp của họ nổi dậy và trả thù chống lại họ - những vũ khí từ các ý niệm và hành động xấu xa của họ quay ngược lại, và nhiều tu sĩ chết vì các bệnh về cổ họng. Vài vị bất ngờ bị khuất phục bởi những tinh linh xấu xa hoang dại và phẫn nộ, trong khi số khác trở nên điên dại, bị câm hay hôn mê. Khi vị tiên tri Nechung được tham vấn, ông ấy giải thích nguyên nhân khiến những chuyện tồi tệ này xảy ra và Đức Dalai Lama đã cử sứ giả cùng với những lời xin lỗi đến Mipham Rinpoche.

    Mipham Rinpoche nói rằng, “Bởi Ta luôn được bảo hộ bởi Đức Yamantaka, Ta chẳng thể bị ảnh hưởng bởi tà thuật. Tuy nhiên, các thực hành phẫn nộ mà những tu sĩ này cử hành mạnh mẽ đến mức, nếu họ hướng nó về Núi Tu Di, nó sẽ hoàn toàn sụp đổ”.





    123456789 đã trì chú Thủ Lăng Nghiêm và niệm Phật, sau 2 tháng kể từ đó mọi thứ bắt đầu tiến triển một cách tốt đẹp. Công việc trong sở làm thì hòa thuận với các đồng nghiệp, không còn bị kiếm chuyện nữa. Gia đình thì vui vẻ hòa thuận. Công phu tu tập không còn bị những điều ma chướng làm phiền não cực kỳ dữ dằn nữa. Tuy nhiên thỉnh thoảng mình cũng còn bị phiền não trong nội tâm, nhưng không có cái kiểu tấp nập lia lịa trong ngoài như ngày xưa nữa. Và chỉ cần trì chú Lăng Nghiêm một cái là giải quyết ngay vấn đề.

    Mãi sau một thời gian khi duyên lành chín mùi mới đọc được Kinh Thủ Lăng Nghiêm, thấy những lời thầy nói khi xưa hoàn toàn chính xác như Kinh, và bản thân cũng đã trải qua kinh nghiệm, nên 123456789 đành mạo muội xin chia sẽ chút ít tại đây để ai có duyên đọc được thì được lợi ích vậy.

    123456789 thấy huynh khoatin6 có tâm lượng rộng lớn chia sẽ Mật Điển vi diệu với mọi người để cùng nhau được lợi lạc. Và lại còn trì chú hồi hướng giúp người vượt qua chướng nạn nữa, Bồ Đề Tâm của huynh thật rộng lớn hiếm ai sánh kịp. 123456789 kính chúc huynh luôn được nhiều lợi lạc, sức khỏe, và luôn tinh tấn trong việc tu tập.



    Kinh Thủ Lăng Nghiêm Quyển 7 dạy như sau:

    Sau khi Như Lai diệt độ, ở đời mạt pháp, nếu có người nào đối với thần chú này, hoặc tự mình trì tụng, hoặc dạy người khác trì tụng, thì người ấy, lửa không thể thiêu đốt, nước không thể nhận chìm, tất cả những thứ độc nặng nhẹ đều không thể làm hại; dù cho những loài như trời, rồng, quỉ thần, hay ma mị, muốn dùng ác chú để ám hại cũng không làm gì được. Tâm người đó đã được chánh định thì tất cả bùa chú, trùng độc, thuốc độc, hóa chất độc, cây cỏ độc, côn trùng độc, rắn độc, tất cả muôn thứ độc như thế, khi vào miệng người đó liền trở thành vị cam lồ. Tất cả ác tinh cùng ác quỉ, ác thần, thường ôm tâm độc ác hại người, nhưng đối với người ấy thì không thể khởi niệm ác được. Các quỉ vương ác độc như Tần-na, Dạ-ca, cùng quyến thuộc của chúng, vì từng mong nhờ thâm ân giáo hóa của Phật, nên thường ủng hộ, che chở cho người trì tụng thần chú này.

    A Nan! Thầy nên biết, thần chú này thường có tám vạn bốn ngàn na-do-tha hằng-sa câu-chi chủng tộc Bồ-tát Kim-cang-tạng, mỗi mỗi đều có các chúng Kim-cang quyến thuộc, ngày đêm theo hộ vệ. Giả sử có người chưa vào chánh định, trong lúc tâm đang tán loạn mà còn nhớ tụng trì chú này, người đó vẫn được các thần Kim-cang tùy tùng ủng hộ; huống nữa là người đã quyết chí phát tâm bồ đề, thì nhất định được chư vị Bồ-tát Kim-cang-tạng đem tâm tinh thành âm thầm khải phát thần thức, khiến cho người này tức thời nhớ lại tám vạn bốn ngàn hằng sa kiếp, biết khắp mọi việc, không có gì nghi hoặc. Từ kiếp đầu tiên phát tâm cho đến thân sau cùng, đời đời không sinh làm các loài như dược-xoa, la-sát, phú-đan-na, ca-tra-phú-đan-na, cưu-bàn-trà, tì-xá-già, vân vân..., cùng các loài ngạ quỉ có hình hoặc không có hình, có tư tưởng hoặc không có tư tưởng; đó toàn là những nơi xấu ác. Người thiện nam ấy, đối với thần chú này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc sao chép, hoặc đeo, hoặc cất giữ, hoặc dùng nhiều cách để cúng dường, thì kiếp kiếp không sinh vào những chốn khổ đau, những nơi bần cùng hạ tiện. Những người như thế, dù cho chính mình không làm việc phước, nhưng nhờ công đức trì chú này, các đức Như Lai trong mười phương, có bao nhiêu công đức đều cho họ hết. Do đó, trong vô số hằng sa kiếp không thể tính đếm, họ thường được sinh cùng một chỗ với chư Phật, vô lượng công đức nhóm tụ, đồng chỗ huân tu, như chùm trái ác-xoa, vĩnh viễn không phân lìa.

    Vì vậy cho nên, thần chú này có thể khiến cho người phá giới mà giới căn vẫn thanh tịnh; người chưa đắc giới khiến cho đắc giới; người chưa tinh tấn khiến cho tinh tấn; người không có trí tuệ khiến được trí tuệ; người không thanh tịnh thì chóng được thanh tịnh; người không trì trai giữ giới thì tự thành trai giới.

    Này A Nan! Người thiện nam ấy thọ trì thần chú này, giả sử lúc trước chưa thọ trì mà có phạm cấm giới, thì sau khi đã thọ trì, các cấm giới đã phạm, dù nặng dù nhẹ, nhất thời đều tiêu diệt; giả sử lúc trước đã từng uống rượu, ăn năm loại rau cay hôi, các thứ bất tịnh, bây giờ thọ trì chú này, chư Phật và chư Bồ-tát, thần Kim-cang, trời, tiên, quỉ thần đều không coi đó là lỗi lầm; dù mặc y phục rách nát, không sạch, thì mỗi cử chỉ đi đứng cũng đều trong sạch; dù không lập đàn, không vào đạo tràng, cũng không hành đạo, mà thọ trì chú này, vẫn có công đức giống như người vào đàn hành đạo. Người tạo trọng tội ngũ-nghịch phải đọa địa ngục vô-gián, tì kheo phạm trọng tội tứ-khí, tì kheo ni phạm trọng tội bát-khí, khi tụng trì thần chú này rồi, các nghiệp nặng kia đều bị tiêu trừ hết, giống như trận gió mạnh thổi tan đống cát, không còn sót lại một chút gì.

    Này A Nan! Giả sử có chúng sinh từ vô lượng kiếp đã tạo bao nhiêu tội chướng nặng nhẹ mà trong đời trước chưa kịp sám hối, nếu nay được đọc tụng sao chép thần chú này, đeo giữ trên mình, hay để nơi chỗ ở như nhà, trại, vườn, quán, thì bao nhiêu nghiệp tích chứa lâu đời kia đều bị tiêu sạch, như nước sôi làm tan tuyết, chẳng bao lâu sẽ chứng ngộ vô sinh nhẫn.

    Lại nữa, này A Nan! Giả sử có người nữ chưa sinh con, nay mong cầu có thai, nếu chí tâm nhớ nghĩ đến thần chú này, hoặc đeo giữ thần chú này trên người, thì sẽ sinh được con trai hoặc con gái có đầy đủ phước đức trí tuệ. Người cầu sống lâu tức được sống lâu; cầu phước báo sẽ chóng được viên mãn; cho đến cầu thân thể kiện khang, hình mạo đoan chánh, sức lực cường tráng, cũng đều được viên mãn. Sau khi mạng chung, tùy theo ý nguyện, sẽ được vãng sinh về các Phật độ trong mười phương; chắc chắn không sinh về những nơi biên địa hạ tiện, huống nữa là các chốn địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh!

    Này A Nan! Nếu ở quốc độ nào, mà trong đó, các châu huyện thôn ấp bị nạn đói khát dịch lệ hoành hành, hoặc bị chiến tranh giặc cướp nhiễu hại, nói chung là tất cả các nơi nào bị ách nạn, nếu chép thần chú này treo trên bốn cửa thành, ở những nơi thờ phượng, trên các lá phướn, tất cả dân chúng đều đối trước thần chú cung kính lễ bái, nhất tâm cúng dường; mỗi người đều đeo thần chú trên mình, hoặc treo nơi nhà ở, thì tất cả tai ách đều được tiêu trừ hết.

    Này A Nan! Bất cứ nơi chốn nào có thần chú này thì trời rồng hoan hỉ, mưa thuận gió hòa, ngũ cốc sung túc, muôn dân an cư lạc nghiệp. Thần chú này cũng có công năng trấn áp tất cả ác tinh, dù chúng hiện ra các điềm quái dị ở phương nào, cũng không thể khởi lên tai chướng được; dân chúng không bị chết oan, chết yểu, xiềng xích gông cùm không đụng vào thân, giấc ngủ an lành, không có ác mộng.

    Này A Nan! Thế giới Ta-bà này có tám vạn bốn ngàn ác tinh tai biến, trong đó có hai mươi tám đại ác tinh đứng hàng đầu; lại có tám đại ác tinh làm chủ toàn thể ác tinh, xuất hiện trong đời bằng nhiều hình trạng, gây nhiều tai họa dị thường cho chúng sinh. Vậy mà, bất cứ nơi chốn nào có thần chú này, tất cả những tai họa ấy đều bị tiêu diệt, trong vòng rộng mười hai do tuần, tất cả các tai ách hung dữ vĩnh viễn không thể xâm nhập.

    Vì vậy cho nên Như Lai tuyên dạy thần chú này để bảo hộ những người mới phát tâm tu học ở đời vị lai, được vào chánh định, thân tâm thư thái, vô cùng an ổn, không bị tất cả ma quân quỉ thần và những oan khiên nghiệp họa tích chứa từ lâu đời đến khuấy phá làm hại. Thầy và những vị hữu học trong pháp hội này, cùng những người tu hành ở đời vị lai, hãy y theo cách thức lập đàn tràng Như Lai đã dạy, trì giới đúng như pháp, thỉnh được thanh tịnh tăng chủ trì việc thọ giới, chí thành hành trì tâm chú này, không sinh lòng nghi hối. Những người thiện nam tu trì đúng như thế, mà ngay nơi cái thân cha mẹ sinh ra này, nếu tâm địa không được khai thông, thì những lời dạy của các đức Như Lai trong mười phương đều là vọng ngữ!

    Đức Phật dạy những lời ấy rồi, vô lượng trăm ngàn thần Kim-cang trong pháp hội, cùng đứng lên ở trước Phật, chắp tay đảnh lễ, bạch rằng: “Như đức Thế Tôn đã dạy, chúng con sẽ thành tâm bảo hộ những người tu hành để đạt đến chánh định như thế.”

    Các vị trời Phạm Vương, Đế Thích và Tứ Vương cũng đồng đảnh lễ đức Phật, bạch rằng: “Nếu thật có những người tu học đúng như vậy, chúng con sẽ tận tâm chí thành bảo hộ họ, khiến cho trong một đời đạt được chí nguyện.”

    Lại có vô lượng đại tướng dược-xoa; vua các loài la-sát, phú-đan-na, cưu-bàn-trà, tì-xá-già; các đại quỉ vương như tần-na, dạ-ca, cùng các quỉ soái, cũng ở trước Phật, chắp tay đảnh lễ, bạch rằng: “Chúng con cũng xin nguyện hộ trì những người tu hành ấy, khiến cho họ chóng được viên mãn tâm bồ đề.”

    Lại có vô lượng thiên tử nhật, nguyệt, thần mưa, thần mây, thần sấm, thần điện, thần tuần tra các việc thiện ác hằng năm, chư tinh tú và quyến thuộc, cũng đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Chúng con cũng xin bảo hộ những người tu hành như thế, làm cho đạo tràng được an ổn, không để xảy ra những điều sợ sệt.”

    Lại có vô lượng thần núi, thần biển, thổ địa; các thần lội dưới nước, đi trên đất, bay trên không; các thần cây, rừng, cỏ, lúa, vân vân...; thần chủ về gió; chư thiên cõi Vô-sắc, cũng cùng lúc cúi đầu trước đức Phật, bạch rằng: “Chúng con cũng nguyện bảo hộ những người tu hành như thế, cho đến khi thành đạo bồ đề, không bao giờ gặp phải ma sự.”

    Lúc bấy giờ, tám vạn bốn ngàn na-do-tha hằng-sa câu-chi Bồ-tát Kim-cang-tạng ở trong pháp hội, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như bọn chúng con, công nghiệp tu tập đã thành đạo Bồ đề từ lâu, nhưng không nhập niết bàn, mà vẫn thường theo thần chú này để cứu hộ những người chân chánh tu hành pháp chánh định trong đời mạt pháp. Bạch đức Thế Tôn! Những người tu tâm cầu chánh định như thế, dù ngồi ở đạo tràng, hay đi kinh hành ở chỗ khác, cho đến tán tâm dạo chơi nơi xóm làng, thì đồ chúng của chúng con vẫn luôn theo bên cạnh để hộ vệ họ; dù cho Ma vương hay trời Đại Tự Tại muốn tìm cách khuấy phá họ, cũng không thể được; các loại quỉ thần kém cỏi phải tránh xa họ ngoài mười do tuần, trừ phi chúng phát tâm bồ đề, muốn thân cận họ để tu học. Bạch đức Thế Tôn! Những loài ác ma và quyến thuộc của chúng, muốn đến nhiễu hại những người tu hành ấy, chúng con sẽ dùng chày báu đánh chúng nát như tro bụi, khiến cho họ tu hành được thành tựu như nguyện.”


    Nam Mô A Di Đà Phật
    Last edited by 123456789; 25-06-2017 at 07:08 AM.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  11. #71

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nhat_Nguyet Xem Bài Gởi
    Không những vậy, NN cũng khuyên những người sơ cơ, mới tu tập về đạo Phật. Nếu sau này mà mình có làm gì sai thì nên biết “sám hối” với chu Phật 10 phương.
    LỢI ÍCH KHI TRÌ TỤNG CHÚ ĐẠI BI

    Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong trăm ngàn muôn ức kiếp kiếp sanh tử.

    Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng?

    Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!

    Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.

    Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền địnhvì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh.Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!

    (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni)
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  12. #72

    Mặc định

    Chào đạo hữu 123456789,

    Mình thật sự tán thán công đức của bạn khi chia sẻ những lợi ích của chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi.
    Nói về 2 chú này thì quả thực đối với những ai đã tìm hiểu Phật pháp từ lâu thì đều biết đến công năng bất khả tư nghì của nó.
    Bản thân người tụng chú cũng không cần phải cầu xin điều gì, chỉ cần tụng chú với tâm thành kính ắt sẽ có được những cảm ứng không thể nào nói được.

    A Di Đà Phật,
    Cầu mong 10 phương chư Phật phù hộ độ trì cho tất thảy chúng sanh đều có duyên gặp, biết, thọ trì và xiển dương chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi này để làm lợi lạc cho khắp pháp giới chúng sanh đến vô lượng kiếp

  13. #73

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Giga Xem Bài Gởi
    Chào đạo hữu 123456789,

    Mình thật sự tán thán công đức của bạn khi chia sẻ những lợi ích của chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi.
    Nói về 2 chú này thì quả thực đối với những ai đã tìm hiểu Phật pháp từ lâu thì đều biết đến công năng bất khả tư nghì của nó.
    Bản thân người tụng chú cũng không cần phải cầu xin điều gì, chỉ cần tụng chú với tâm thành kính ắt sẽ có được những cảm ứng không thể nào nói được.

    A Di Đà Phật,
    Cầu mong 10 phương chư Phật phù hộ độ trì cho tất thảy chúng sanh đều có duyên gặp, biết, thọ trì và xiển dương chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi này để làm lợi lạc cho khắp pháp giới chúng sanh đến vô lượng kiếp
    Nam Mô A Di Đà Phật,

    123456789 kính chúc đạo hữu Giga thân tâm luôn thường được an lạc.

    123456789 nghĩ rằng chúng sanh tùy duyên tu các pháp môn khác nhau, chung quy rồi kết cuộc cũng mang lại sự giải thoát. Nhưng trong thời mạt pháp này Pháp Môn Niệm Phật thật sự rất quan trọng. Trên thật tế đã có rất nhiều bằng chứng rất rõ ràng rất nhiều người đã được thành tựu và vãng sanh giải thoát. Và lợi ích của sự niệm Phật cũng được khắp Tam Tạng Kinh Điển Phật Giáo nói như sau:

    MƯỜI CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT

    Trong kinh nói: “ Người nào chí tâm niệm Phật, được mười món công đức như sau:

    1.- Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức A-Di-Đà phóng quang nhiếp thọ.
    2.- Thường được các vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.
    3.- Ngày đêm thường được chư Thiên cùng Đại lực Thần tướng ẩn hình ủng hộ.
    4.- Tất cả Dạ-xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
    5.- Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.
    6.- Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán rằng buộc.
    7.- Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A-Di-Đà.
    8.- Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
    9.- Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kính Phật.
    10.- Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây phương Tam-Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh-Độ hưởng sự an vui không cùng!"

    - Đức Phật dạy: “Một tiếng niệm Phật vừa lọt qua tai, vĩnh viễn gieo thành Phật chủng trong tám thức điền. Thời đại chánh pháp giải thoát thành tựu. Thời đại tượng pháp thiền định thành tựu. Thời đại mạt pháp niệm Phật thành tựu”



    ”Tam tạng mười hai bộ kinh gói gọn trong một câu Nam Mô A Di Đà Phật”.
    KINH ĐẠI BÁT NHÃ

    "Nên xưng như vầy: Nam Mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật, nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc mạng chung, thấy kim liên hoa dường như mặt nhật trụ trước người ấy. Như khoảng một niệm, liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới."
    KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT

    ”Người tu hành chỉ niệm Nam Mô A Di Đà Phật, đó gọi là thiền thâm diệu vô thượng. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật chính là thiền, mà thiền này lại là vô cùng sâu xa. Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
    KINH ĐẠI TẬP

    "Nếu có chúng sanh tin tưởng sâu xa kinh này, niệm Nam Mô A Di Đà Phật, nguyện vãng sanh thì đức Phật A Di Đà trong thế giới Cực Lạc kia bèn sai:
    1. Quán Thế Âm Bồ Tát,
    2. Đại Thế Chí Bồ Tát,
    3. Dược Vương Bồ Tát,
    4. Dược Thượng Bồ Tát,
    5. Phổ Hiền Bồ Tát,
    6. Pháp Tự Tại Bồ Tát,
    7. Sư Tử Hống Bồ Tát,
    8. Đà La Ni Bồ Tát,
    9. Hư Không Tạng Bồ Tát,
    10. Đức Tạng Bồ Tát,
    11. Bảo Tạng Bồ Tát,
    12. Kim Tạng Bồ Tát,
    13. Kim Cang Bồ Tát,
    14. Sơn Hải Huệ Bồ Tát,
    15. Quang Minh Vương Bồ Tát,
    16. Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát,
    17. Chúng Bảo Vương Bồ Tát,
    18. Nguyệt Quang Vương Bồ Tát,
    19. Nhật Chiếu Vương Bồ Tát,
    20. Tam Muội Vương Bồ Tát,
    21. Tự Tại Vương Bồ Tát,
    22. Đại Tự Tại Vương Bồ Tát,
    23. Bạch Tượng Vương Bồ Tát,
    24. Đại Oai Đức Vương Bồ Tát,
    25. Vô Biên Thân Bồ Tát,
    Hai mươi lăm Bồ Tát ấy ủng hộ hành giả, dù đi hay đứng, dù nằm hay ngồi, dù ngày hay đêm, trong hết thảy thời, hết thảy nơi, chẳng cho ác quỷ, ác thần được thừa dịp làm hại."
    KINH PHẬT THUYẾT THẬP VÃNG SANH A DI ĐÀ PHẬT QUỐC

    - "Nếu kẻ nghiệp chướng nặng,
    Không nhân sanh Tịnh Độ,
    Nương nguyện lực Di-đà,
    Nhất định được vãng sanh.
    Nếu người tạo nhiều tội,
    Đáng lẽ đọa địa ngục,
    Vừa nghe danh Di-đà,
    Lò lửa thành ao sen.
    Nếu niệm A-di-đà,
    Liền tiêu vô lượng tội,
    Hiện đời được an vui,
    Mai sau sanh cõi Tịnh.".
    KINH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT VÃNG SANH TỊNH ĐỘ BẢN DUYÊN

    Đức Phật bảo Ca Diếp Bồ tát: "Nếu có trai lành gái thiện naò, thường hay chăm lòng chuyên cần niệm Phật, hoặc nơi núi rừng, hoặc nơi xóm làng, hoặc ngày đêm, hoặc ngồi nằm, các đức Phật Thế Tôn thường thấy người này như hiện trước mắt.
    KINH NIẾT BÀN

    Đức Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy: "Các Phật Như Lai lấy pháp giới làm thân, cho nên vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh; vậy nên các ngươi mỗi khi tâm tưởng Phật, tâm nầy tức là 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Tâm này phải làm Phật vì tâm này là Phật. Các đức Phật là biển chánh biến tri, từ tâm tưởng mà sanh ra.

    Nếu ai biết niệm Phật, thì phải biết người naỳ là hoa sen báu trong loài người, Đức Quan Thế Âm Bồ tát, Đức Đại Thế Chí Bồ tát là bạn thù thắng của người ấy, và thường ở đạo tràng sanh trong nhà các đức Phật.
    KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ

    Nếu ai hay chăm lòng niệm Phật luôn, thẳng ngồi chánh định, quán tưởng sắc thân Phật, nên biết người này lòng như lòng Phật cùng Phật không khác. Tuy còn ở trong phiền não mà chẳng bị các điều ác che lấp, sang qua đời sau họ sẽ rưới những trận mưa đại pháp.
    KINH QUÁN PHẬT

    Nếu người trì Phật danh, chẳng sanh tâm khiếp sợ, có trí huệ mà chẳng dua vậy, thường ở ngay trước các đức Phật.
    KINH THẬP NHỊ PHẬT DANH

    Nếu có người, ngày ngày xưng tụng danh hiệu Như Lai, những chúng sanh ấy có thể xa lìa chốn tối tăm, lần lữa đốt được các phiền não. Như vậy xưng niệm nam mô Phật, thì ngữ nghiệp chẳng luống công. Như vậy ngữ nghiệp gọi là tay cầm cây đuốc lớn hay soi phá các phiền não tối tăm.
    KINH BẢO TÍCH

    Quy y, cung kính nhớ tưởng Phật chắc được ra khỏi sanh tử, đến Niết bàn. Cho đến, hoặc có trai lành gái thiện, ít nhất một phen xưng: "nam mô Phật đà đại từ bi" thì trai lành gái thiện này hết ngằn mé sanh tử, căn lành không cùng tận, sanh ở trong cõi trời thường hưởng quả giàu vui. Cuối cùng vào cảnh giới Niết bàn.
    KINH BÁT NHÃ

    Vua Tịnh Phạn đại vương thưa Phật rằng: "Công đức niệm Phật tướng trạng ra sao?" Đức Phật thưa lại vua cha rằng: "Như đám rừng cây y lan, chu vi rộng chừng 40 do tuần mà chỉ có một cây ngưu đần chiên đàn tuy đã có rễ, mộng mà chưa mọc khỏi đất. Loại y lan chỉ có hôi thúi mà không mùi thơm; nếu ai ăn phải hoa, trái nó thì phát cuồng mà chết mất. Về sau mộng rễ chiên đàn dần dần sanh trưởng thành cây, mùi thơm ngào ngạt liền át mùi thúi rừng y lan thảy đều thơm đẹp. Chúng sanh nghe thâ? đều cho là hiếm có.

    Đức Phật lại thưa với Phụ vương rằng: "Tất cả chúng sanh còn ở trong sanh tử, thành tâm niệm Phật cũng chính như thế. Chỉ hay chăm niệm luôn chẳng dứt, quyết định sanh ngay cõi Phật. Đã được vãng sanh tức có thể cải biến tất cả điều ác trở thành đại từ bi như gỗ trầm hương chiên đàn biến cải mùi hôi rừng y lan."
    KINH QUÁN PHẬT TAM MUỘI

    Vua Di Lan hỏi ngài La Hớn Na Tiên Tỳ Kheo rằng: "Nói người làm ác đến trăm năm, đến khi sắp chết nếu biết niệm Phật, chết rồi sanh về cõi trời. Lời nói này tôi không tin nổi.

    Lại nữa, một lần sát sanh, chết đọa vào địa ngục, tôi cũng không tin nổi."

    Ngài Na Tiên trả lời: "có người cầm cục đá nhỏ để trên mặt nước, đá ấy nổi hay chìm?"

    Vua trả lời: "Chìm."

    Ngài nói: "như đem trăm cục đá lớn để trên thuyền, chiếc thuyền ấy chìm hay không?"

    Vua nói: "chẳng chìm."

    Ngài nói: "trăm hòn đá lớn trong thuyền, nhờ thuyền nó chẳng chìm. Người tuy có tội lớn, nếu một khi biết niệm Phật, thì nhờ Phật chẳng đọa địa ngục, lại được sanh lên trời, sao lại chẳng tin nổi? Hòn đá nhỏ chìm ngập như người làm ác chẳng biết niệm Phật, chết đọa điạ ngục sao lại chẳng tin?"

    Nhà vua khen: "Hay quá, ngài nói hay quá."
    KINH NA TIÊN TỲ KHEO

    Đức Phật bảo A Nan: Thợ bắt cá vì muốn được cá nên gắn mồi lưỡi câu thả vào ao nước cho cá nuốt mồi: cá đã nuốt mồi, tuy còn ở dưới ao nhưng chẳng bao lâu sẽ bị bắt lên. Nầy A Nan, tất cả chúng sanh đối với các đức Phật được sanh lòng kính tin trồng các căn lành, tu hạnh bố thí, cho đến phát tâm được một niệm kính tin, tuy còn bị các nghiệp ác bất thiện ngăn che đọa trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Các Đức Phật Thế Tôn lấy Phật nhãn xem các chúng sanh nầy vì đã phát tâm thù thắng, nên cứu vớt ra khỏi địa ngục. Đã cứu vớt xong, đem để trên bờ Niết bàn.
    KINH ĐẠI BI

    Người tu nhứt hạnh tam muội, nên ở chỗ vắng lặng, bỏ các loạn ý, buộc tâm nơi Phật lý, tưởng niệm một đức Phật, niệm niệm nối nhau, chẳng cho trễ nãi, chừng trong một niệm tức hay thấy mười phương Phật, được đại biện tài.
    KINH VĂN THÙ BÁT NHÃ

    Nếu kẻ nghiệp chướng nặng
    Không nhân sanh Tịnh Độ
    Nương nguyện lực Di-đà
    Nhất định được vãng sanh.
    Nếu người tạo nhiều tội
    Đáng lẽ đọa địa ngục
    Vừa nghe danh Di-đà
    Lò lửa thành ao sen.
    Nếu niệm A-di-đà
    Liền tiêu vô lượng tội
    Hiện đời được an vui
    Mai sau sanh cõi Tịnh.
    KINH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT VÃNG SANH TỊNH ĐỘ BẢN DUYÊN

    “Này A Nan! Nếu có chúng sanh muốn được hiện đời thấy được Phật Vô Lượng Thọ, nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành các công đức, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sanh. Có bài tụng rằng:

    “Nếu nghe đức hiệu A Di Đà
    Hoan hỉ tán ngưỡng lòng nương về
    Cho đến một niệm được lợi lớn
    Là vì có được châu công đức.
    Dù đầy đại thiên lửa cháy lớn
    Cũng phải đi đến nghe Phật danh
    Nghe A Di Đà chẳng lui sụt
    Cho nên một lòng chí thành lễ”.
    KINH A DI ĐÀ

    “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng: Ta sẽ vì các ông mà diễn nói thế giới An Lạc ở phương Tây, hiện nay có Phật hiệu A Di Đà, nếu Tứ chúng có thể thọ trì danh hiệu Phật kia, giữ chắc trong lòng, nhớ tưởng không quên, trong 10 ngày 10 đêm trừ bỏ tán loạn, siêng năng tu tập niệm Phật tam muội. Nếu có thể làm cho mỗi niệm tiếp nối không dứt, trong 10 ngày chắc được thấy đức Phật A Di Đà liền được vãng sanh.”
    KINH CỔ ÂM ĐÀ LA NI

    “Nếu người khi lâm chung, không thể niệm Phật, chỉ biết hướng kia có Phật ý muốn vãng sanh, cũng được vãng sanh.”
    KINH PHÁP CỔ

    “Nếu có người đã lâm chung, hoặc chết đọa vào địa ngục. Quyến thuộc trong gia đình vì người mất mà niệm Phật, hoặc chuyển tụng cầu phước, người mất có thể ra khỏi địa ngục vãng sanh Tịnh độ. Huống chi người ấy hiện tại tự có thể tu niệm làm sao không được vãng sanh.
    KINH THẬP PHƯƠNG TÙY NGUYỆN VÃNG SANH

    “Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhơn nào thường hay buộc ý xưng niệm danh hiệu Chư Phật, thì mười phương chư Phật và tất cả Hiền Thánh thường thấy người này như luôn hiện trước mặt, nên biết người này tùy theo ý nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ trong 10 phương.”
    KINH ĐẠI PHÁP CỔ

    “Vì sao gọi là đại bi? Nếu người chuyên niệm danh hiệu Phật không gián đoạn, người ấy mạng chung chắc sanh về cõi An Lạc. Nếu có thể lần lượt khuyên người cùng nhau niệm Phật, người ấy được gọi là người đại bi.”
    KINH ĐẠI BI

    “Phật bảo này Đại Vương! Giả sử nhà vua cứ mỗi nửa tháng, mở tất cả kho lớn đem bố thí cho tất cả chúng sanh, chỗ được công đức đó không bằng có người xưng danh hiệu Phật một lời, công đức người này hơn người kia không thể so lường.”
    KINH NIẾT BÀN

    “Này A Nan! Có người cúng dường y phục, ngọa cụ, y dược cho chúng sanh khắp cõi Diêm Phù Đề này, công đức người ấy có nhiều chăng? A Nan thưa: Bạch Thế Tôn rất nhiều không thể kể xiết. Phật bảo: Này A Nan! Nếu có chúng sanh tâm lành tiếp nối xưng danh hiệu Phật nhỏ bằng hạt sửa, công đức người ấy hơn kẻ bố thí kia không thể so lường.”
    KINH TĂNG NHẤT A HÀM

    “Nếu người tâm tán loạn niệm Phật cũng được dứt khổ, phước đức không thể kể hết. Nếu người dâng hoa cúng Phật niệm Phật, cũng dứt hết khổ, phước đức không thể kể hết. Nên biết niệm Phật lợi ích rất lớn, không thể nghĩ bàn.”
    KINH ĐẠI PHẨM

    "Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí Giải Siêu Việt của Danh Hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Thật vậy, nhờ cần mẫn xưng niệm Phật Hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lương, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ Đề Thật Tướng, đưa hành giả thẳng vào Cảnh Giới Thánh Tri Tự Chứng.Bởi vậy, phải nói rằng: Niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng Danh Hiệu Như Lai mà thâm nhập Như Lai Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa hư dối trở nên Viên Giác Tánh. Các hạng chúng sinh thời mạt pháp phải siêng năng thọ trì.

    Này Vi Đề Hy, Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn trọn đời giáo hóa điều phục chúng sinh, đa ban bố tám vạn bốn ngàn pháp môn tu tập. Nhưng, trong đó, Niệm Phật là thù thắng đệ nhất.

    Vi Đề Hy, trong quá khứ vô lượng vô biên na do tha kiếp, các Đức Phật Như Lai đa dùng hằng hà sa phương tiện, thí dụ, ngôn thuyết để diễn bày vô số pháp tu tập, đưa hết thảy chúng sinh vào Nhất Thừa Đạo. Nhưng, duy chỉ có Niệm Phật là viên đốn đệ nhất."

    Danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật vốn đầy đủ vô lượng vô biên hằng hà sa công đức, vô lượng vô biên hằng hà sa ý nghĩa, vô lượng vô biên hằng hà sa lực dụng, cứu cánh, cảnh giới, giác tánh... dẫu trăm ngàn muôn ức na do tha vi trần đại kiếp, cũng không thể diễn nói hết được. Nay vì chúng sanh nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, mà tôi sẽ lược nói, để chúng sanh thu hoạch nhiều lợi ích.

    Này Phật tử! Nam mô A Di Đà Phật nghĩa là gì?

    Nam mô là thủy giác. A Di Đà là tương tục giác, Phật là bản giác.

    Nam mô là năng niệm, A Di Đà là tương tục niệm, Phật là sở niệm.

    Nam mô là giới luật, A Di Đà là Thiền định, Phật là Trí tuệ.

    Nam mô là thế gian giới, A Di Đà là pháp giới, Phật là vô sai biệt giới, vô sở hữu cảnh giới, vô trụ xứ cảnh giới.

    Nam mô là thường, A Di Đà là tịch, Phật là quang.

    Nam mô là diệu quan sát trí, A Di Đà là bình đẳng tánh trí, Phật là đại viên cảnh trí, vô tận sở hữu trí.

    Nam mô là phi hữu, A Di Đà là phi vô, Phật là Không tánh, phi hữu phi vô định tánh.

    Nam mô là như thực hữu, A Di Đà là như thực không, Phật là như thực bất không.

    Nam mô là sai biệt trí, A Di Đà là vô sai biệt trí, và Phật là pháp hải tuệ công đức vô tận tạng viên mãn trí.

    Nam mô là phương tiện lực, A Di Đà là cứu cánh lực, và Phật là dung thông phương tiện siêu việt cứu cánh lực.

    Nam mô là ly trần, A Di Đà là ly căn, Phật là ly thức.

    Nam mô là chuyển y tạng, A Di Đà là vô tận thiện căn tạng, Phật là quyết định chính giác tạng.

    Nam mô là ly cấu tạng, A Di Đà là Niết bàn tạng, Phật là như huyễn Giải thoát tạng.

    Nam mô là trang nghiêm Phật quốc độ, A Di Đà là thành tựu vô biên Phật quốc độ, Phật là như huyễn thập phương Hoa Tạng Thế Giới Hải.

    Nam mô là gia trì lực, A Di Đà là tiếp dẫn lực, Phật là tự tánh tương ưng nhiếp thọ lực.

    Nam mô là khai thị vô lượng trí, A Di Đà là thâm nhập chính giác trí, Phật là quang minh phổ chiếu trí.

    Nam mô là thế gian giải, A Di Đà là giác ngộ giải, Phật là nhất thiết trí biến chiếu thập phương viên mãn giải.

    Này Phật tử, danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật có vô lượng vô biên bất khả thuyết ý nghĩa thâm mật vi diệu như thế, dẫu ba đời mười phương chư Phật diễn nói cũng không cùng tận.

    Danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT chính là KHÔNG TÁNH, là VÔ SỞ ĐẮC, là VÔ SỞ Y, VÔ CẤU NHIỄM, là VÔ SỞ TƯƠNG ƯNG, VÔ SỞ BỘI NGHỊCH, VÔ CÔNG DỤNG HẠNH, là VÔ SỞ CẦU HẠNH, VÔ TẬN TẠNG, HƯ KHÔNG TẠNG, ĐÀ RA NI TẠNG, GIẢI THÂM MẬT CỤ TÚC TẠNG, TỊCH TỊNH TẠNG, THANH TỊNH VI DIỆU TẠNG, MINH TRIẾT TẠNG, LY TRẦN TẠNG, LY THỨC TẠNG, LY CẤU TẠNG, KHẢ ÁI NHẠO TẠNG, là LY CHỦNG CHỦNG TRẦN CẤU TẠNG, LY UẨN TẠNG, VÔ CHƯỚNG NGẠI TẠNG, VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG… VÔ TẬN THIỆN CĂN TẠNG, NIẾT BÀN TẠNG, là NHƯ HUYỄN TAM MUỘI VÔ VI TẠNG, THÀNH TỰU PHẬT ĐỘ TẠNG, là QUYẾT ĐỊNH VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ TẠNG, PHỔ HIỀN BẤT-TƯ- NGHỊ GIẢI-THOÁT TẠNG…
    KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT

    Long Thọ Bồ Tát khai thị:

    "Môn Niệm Phật tam muội hay dứt trừ tất cả phiền não nghiệp chướng đời này cùng đời trước. Các tam muội khác, có môn trừ được nghiệp dâm mà không thể trừ nghiệp sân. Có môn trừ được nghiệp sân, si mà không thể trừ nghiệp tham, dâm. Có môn trừ được tham, sân, si, nhưng chẳng thể trừ những tội nghiệp đời trước. Niệm Phật tam muội có thể trừ sạch nghiệp tham, sân, si, cùng tất cả trần duyên phiền não và tội chướng đời trước.

    Lại nữa, Niệm Phật tam muội hay sanh trí huệ phước đức rộng lớn, có thể độ chúng sanh. Chư Bồ Tát nếu muốn độ sanh mà tu các môn tam muội khác, tất kết quả rất chậm kém. Bởi các môn tam muội khác phước đức không bằng Niệm Phật tam muội. Tại sao thế? Vì Phật là đấng Pháp Vương, phước huệ đều viên mãn, nên vô lượng phước đức trí huệ của hành giả, tất phải từ nơi Phật mà tăng trưởng và thành tựu mau chóng.

    Lại nữa, do vì niệm Phật luôn, tâm không rời Phật, nên hành giả thường được gặp chư Phật..."
    LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  14. #74

    Mặc định

    Pháp chỉ là phưong tiện dẫn dắt chung sanh tìm ve bản lai diện muc của mình. Tu là sửa tu sửa tâm tánh diệt trì tham san si vượt qua phiền não chương ngai. Các bạn đạo sơ cơ hoac ngươi tu bản ngã cao lại hay dính mắc chổ chấp pháp ma vô tình tao nghiệp rất nặng nề mà không biết. A di đà phật.
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  15. #75

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phapchieumt Xem Bài Gởi
    Pháp chỉ là phưong tiện dẫn dắt chung sanh tìm ve bản lai diện muc của mình. Tu là sửa tu sửa tâm tánh diệt trì tham san si vượt qua phiền não chương ngai. Các bạn đạo sơ cơ hoac ngươi tu bản ngã cao lại hay dính mắc chổ chấp pháp ma vô tình tao nghiệp rất nặng nề mà không biết. A di đà phật.
    Lúc trước khi 123456789 có trích Kinh Veranjaka là vì biết Nonamepas đang bị chấp một bên theo Tiểu Thừa vì vậy mà bạn Nonamepas đã đi phỉ báng bậy bạ lung tung, nên 123456789 trích như vậy để Nonamepas tự kiểm điểm lại có thực hành đúng theo con đường mình đang theo hay không thôi. Chứ 123456789 hoàn toàn không có ý ám chỉ đạo hữu hay bất cứ ai hết đâu. Nếu 123456789 có lỡ mạo phạm thì mong đạo hữu thứ lỗi nhé.

    Nam Mô A Di Đà Phật
    Last edited by 123456789; 25-06-2017 at 05:51 PM.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  16. #76

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi 123456789 Xem Bài Gởi
    Lúc trước khi 123456789 có trích Kinh Veranjaka là vì biết Nonamepas đang bị chấp một bên theo Tiểu Thừa vì vậy mà bạn Nonamepas đã đi phỉ báng bậy bạ lung tung, nên 123456789 trích như vậy để Nonamepas tự kiểm điểm lại có thực hành đúng theo con đường mình đang theo hay không thôi. Chứ 123456789 hoàn toàn không có ý ám chỉ đạo hữu hay bất cứ ai hết đâu. Nếu 123456789 có lỡ mạo phạm thì mong đạo hữu thứ lỗi nhé.

    Nam Mô A Di Đà Phật
    Kính 123456789,
    mình không có nói bạn mình chỉ nói chung các đạo hữu sơ cơ hoặc các bạn đạo tu lâu rồi mà bản ngã chất chứa sâu dày. Chúc bạn tinh tấn an lạc. A di đà Phật!
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  17. #77
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Tóm tắt video: Theo truyền thống của Vệ Đà, khi một người mất đi, sau khi trà tỳ (hỏa táng), người thân dùng cây đập vỡ phần sọ còn lại. Vì họ tin rằng khi đập vỡ mảnh xương sọ, thì cùng lúc cánh cửa bên kia thế giới của người chết sẽ mở ra để người chết được đầu thai. Đức Vua nằm mộng thấy cha mình và được các vị Bà La Môn nói rằng: đó là linh hồn của cha, chưa được an nghĩ. Nên vua lập tế đàn và cầu cúng theo nghi thức Bà La Môn, đồng thời Vua thỉnh Đức Phật cùng tham dự.

    Đức Phật nhận lời. Ngài làm theo "nghi thức" của Ngài là nhờ Vua tìm 2 cái bình: 1 cái chứa đầy bơ sữa, 1 cái chứa những hòn đá cuội. Xong, đức Phật bảo Vua thả xuống nước và đập vỡ chúng ra (Vua nghĩ "nghi thức" này của Phật như việc đập sọ người chết bên trên). Sau khi 2 cái bình vỡ ra, bơ sữa nhẹ thì nổi lên trên, đá nặng thì chìm xuống dưới. Và Ngài đi đến kết luận...


    => Lẽ ra Đức Phật nên dạy tụng chú Vãng Sanh thì đúng hơn, đúng không ạ ?

  18. #78

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi smc Xem Bài Gởi
    Tóm tắt video: Theo truyền thống của Vệ Đà, khi một người mất đi, sau khi trà tỳ (hỏa táng), người thân dùng cây đập vỡ phần sọ còn lại. Vì họ tin rằng khi đập vỡ mảnh xương sọ, thì cùng lúc cánh cửa bên kia thế giới của người chết sẽ mở ra để người chết được đầu thai. Đức Vua nằm mộng thấy cha mình và được các vị Bà La Môn nói rằng: đó là linh hồn của cha, chưa được an nghĩ. Nên vua lập tế đàn và cầu cúng theo nghi thức Bà La Môn, đồng thời Vua thỉnh Đức Phật cùng tham dự.

    Đức Phật nhận lời. Ngài làm theo "nghi thức" của Ngài là nhờ Vua tìm 2 cái bình: 1 cái chứa đầy bơ sữa, 1 cái chứa những hòn đá cuội. Xong, đức Phật bảo Vua thả xuống nước và đập vỡ chúng ra (Vua nghĩ "nghi thức" này của Phật như việc đập sọ người chết bên trên). Sau khi 2 cái bình vỡ ra, bơ sữa nhẹ thì nổi lên trên, đá nặng thì chìm xuống dưới. Và Ngài đi đến kết luận...


    => Lẽ ra Đức Phật nên dạy tụng chú Vãng Sanh thì đúng hơn, đúng không ạ ?
    Trong Tạng Nikaya Kinh Tiểu Bộ tập 2 truyện Ngạ Quỷ số 5 Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường (Tirokuddapeta) nói “Nhà vua ra lệnh chuẩn bị lễ cúng dường hào phóng, và thông báo thời giờ lên đức Thế Tôn, Ngài liền đến Hoàng cung. Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: 'Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món gì đó', rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào.

    Sau đó đức Thế Tôn làm cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này: “Mong công đức này dành cho quyến thuộc ta”. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ. Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh.

    Nhà vua dâng lễ cúng dường cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm rồi hồi hướng công đứng lễ vật ấy cho chúng. Trong chốc lát liền xuất hiện cho chúng các thực phẩm khác, thậm chí cả thực phẩm thiên giới, khiến chúng hân hoan hưởng thọ.

    Nhà vua lại cúng dường y phục và sàng tọa, tinh xá rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy. Sau đó liền xuất hiện cho chung các thiên y, thiên cung, sàng tọa, khăn phủ và đồ trang sức. Ðức Thế Tôn quyết định làm cho tất cả hạnh phúc tuyệt vời này của họ được hiển lộ trước vua; khi nhìn thấy vậy, vua vô cùng hoan hỷ.”

    Như vậy phương pháp HỒI HƯỚNG hoàn toàn là có kết quả và đúng với chánh pháp Phật Giáo. Phần trên bạn trích chỉ là lời phương tiện Phật nói trong thời pháp đầu tiên của Tiểu Thừa, lúc đó Đức Phật chưa nói đến Đại Thừa, đức Phật tùy theo căn tánh chúng sanh để thuyết pháp hóa độ cho họ, vì nếu thật sự như trên nghiệp ai nấy lãnh hoàn toàn không có cách cứu chữa, thì việc bố thí hồi hướng đến quyến thuộc làm sao mà có kết quả nhận các đồ vật của Chư Thiên và các vị ấy thoát khỏi thân ngạ quỷ được như trong tạng Kinh Tiểu Thừa nói?
    Last edited by 123456789; 26-06-2017 at 09:17 AM.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  19. #79

    Mặc định

    Hồi hướng và cầu siêu là 2 câu chuyện khác nhau. Bản thân việc hồi hướng cần có những điều kiện nhất định để thành tựu từ phía kẻ hồi hướng, phương pháp hồi hướng và kẻ nhận hồi hướng.
    Có thể tìm hiểu về việc hồi hướng này qua cuốn "Tìm hiểu phước bố thí" của Tỳ khưu Hộ Pháp. Trích đoạn như sau:
    BỐ THÍ VÀ HỒI HƯỚNG
    Thí chủ làm phước thiện bố thí xong, thường hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến người thân yêu đã quá vãng nào đó.
    Ví dụ:
    "Con xinhồi hướng phần phước thiện bố thí thanh cao này đến cho cha con là Nguyễn VănA. Cầu mong cha con hoan hỉ phần phước thiện thanh cao này, được thoát khỏicảnh khổ, được an lạc lâu dài...".

    Như vậy, thử hỏi ông "A" có thọ hưởng phần phước thiện, mà người con hồi hướng đến choông được hay không?

    Để trả lời câu hỏinày, trước hết nên tìm hiểu 3 vấn đề:
    1- Dānakusala: phước thiện phát sanh do bố thí: thí chủ sử dụng của cải của mình đem bố thí đến cho người khác, để tạo được phước thiện bố thí của mình.
    2-Pattidānakusala: phước thiện phát sanh do hồi hướng: sau khi thí chủ đã tạo được phước thiện bố thí xong rồi, đem phần phước thiện ấy xin hồi hướng đến người đã quá vãng nào đó (ví như ông, bà, cha, mẹ,v.v...).
    3-Pattānumodanākusala: phước thiện phát sanh do hoan hỉ phần phước thiện mà người thí chủ hồi hướng: những chúng sinh hay biết, hoan hỉ phần phước thiện của thân quyến hồi hướng đến họ.
    Trường hợp ông A không phải là bậc Thánh A-ra-hán [*], nên còn phiền não, tham ái vẫn còntái sanh kiếp sau như thế nào, hoàn toàn tùy theo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của ông A cho quả tái sanh. Như vậy, ông A có thọ hưởng được phần phước thiện bố thí của thân quyến hồi hướng đến cho ông hay không?[*] Theo Phật giáo, bậc Thánh A-ra-hán khi tịch diệt Niết Bàn rồi, chắc chắn không còn tái sanh kiếp nào nữa.

    Muốn biết vấn đề phước thiện bố thíhồi hướng phần phước thiện đến cho người quá vãng,họ có thọ hưởng được hay không? Chúng ta cùng tìm hiểu bài kinh "Jāṇusasoṇīsutta"[Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Jānusasoṇīsutta]. Trong bài kinhnày, có đoạn ông Bà la môn Jāṇusasoṇī đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bèn bạch rằng:
    - Kính bạch Đức Sa môn Gotama, chúng con là Bà la môn thường bố thí rồi hồi hướng đến những người quá vãng rằng: "phần phước thiện bố thí này, cầu mong cho được thànhtựu đến thân quyến đã quá vãng, mong thân quyến quá vãng ấy hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện bố thí này".
    Kính bạch Đức Sa môn Gotama, phần phước thiện bố thí này, có thể thành tựu đến thân quyến đã quá vãng của chúng con được hay không?
    Thân quyến đã quá vãng của chúng con có hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện bố thí của chúngcon được hay không? Bạch Ngài.
    Đức Phật giải đáp rằng:
    - Này Bà lamôn, phần phước thiện bố thí được thành tựu tùy theo loại chúng sinh này; không được thành tựu tùy theo loại chúng sinh khác.
    Kính bạch Đức Sa môn Gotama, loại chúng sinh nào được thành tựu? Loại chúng sinh nào không thành tựu? Bạch Ngài.

    Này Bà la môn,có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam của người khác, có tánh thù hận, có tà kiến; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chúng sinh trong cõi địa ngục sống tồn tại bằng vật thực ở địa ngục.

    Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến chúng sinh ở địa ngục.

    Này Bà la môn,có số người trong đời này, là người sát sanh, trộm cắp, tà dâm... có tà kiến; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm súc sanh, loài súc sanh sống tồn tại bằng vật thực riêng của mỗi loài.

    Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến loài súc sanh.

    Này Bà la môn, có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời đâmthọc, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích, tâm không thamlam của người khác, tâm không thù hận, có chánh kiến; người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh trở lại làm người, con người sống tồn tại bang vật thực của cõi người.
    Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến chúng sinh tái sanh trở lại làm người.

    Này Bà la môn, có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sựtrộm cắp..., có chánh kiến; người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên, chư thiên trong cõi trời, sống tồn tại bằng vật thực trong cõi trời.
    Này Bà la môn,phần phước thiện bố thí cũng không thành tựu đến chư thiên trong cõi trời.

    Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp,tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có tà kiến; người này sau khi chết, do ác nghiệpcho quả tái sanh làm loài ngạ quỷ, ngạ quỷ sống tồn tại bằng vật thực của hang ngạ quỷ. Hàng ngạ quỷ này thường trông ngóng thân quyến trong cõi người hồi hướng phước thiện đến cho họ, khi họ hay biết hoan hỉ phần phước thiện ấy, họ thọ hưởng được, chắc chắn họ thoát khỏi cảnh khổ, tái sanh cõi thiện giới hưởng được mọi sự an lạc.
    Này Bà la môn,phần phước thiện bố thí chỉ có thể thành tựu đến cho loài ngạ quỷ mà thôi.

    Khi lắng ngheĐức Phật giải đáp như vậy, ông Bà la môn bạch tiếp rằng:

    Kính bạch Samôn Gotama, nếu thân quyến đã quá vãng ấy không thọ hưởng được phần phước thiện bố thí hồi hướng ấy, vậy ai thọ hưởng phần phước thiện ấy? Bạch Ngài.
    Này Bà la môn,hàng ngạ quỷ thân quyến khác của thí chủ, thọ hưởng được phần phước thiện hồi hướng ấy.

    Kính bạch Samôn Gotama, nếu thân quyến đã quá vãng không có trong hàng ngạ quỷ, thì ai là người thọ hưởng phần phước thiện hồi hướng ấy? Bạch Ngài.

    Này Bà la môn,trong vòng tử sanh luân hồi trải qua vô số kiếp của mỗi chúng sinh trong quákhứ, không có người thân quyến tái sanh làm ngạ quỷ, đó là điều không thể có được, (chắc chắn có thân quyến sanh làm ngạ quỷ).
    Điều chắc chắn thí chủ là người được phần phước thiện bố thí ấy và thọ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.
    Kính bạch Samôn Gotama, Ngài có hạn chế những chúng sinh không thọ hưởng được phước thiện bố thí hay không?
    Này Bà la môn,Như Lai có hạn chế chúng sinh.
    Này Bà la môn có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp,tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có tà kiến; nhưng người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn,Bà la môn; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả dầu tái sanh làm con voi; trong kiếp voi ấy, được nuôi nấng chăm sóc chu đáo, có đầy đủ vật thực,nước uống ngon lành, có chỗ ở sạch sẽ, đồ trang sức đẹp đẽ... do quả của phước thiện bố thí trong kiếp trước.
    Này Bà la môn,có số người trong đời này là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp...có tà kiến, nhưng người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả dầu tái sanh làm chó; trong kiếp chó ấy, được nuôi nấng làm chu đáo, có đầy đủ vật thực, nước uống ngon lành, có chỗ ở sạch sẽ, đồ trang sức đẹp đẽ... do quả của phước thiện bố thí trong kiếp trước.
    (Tái sanh làm con ngựa, con bò.... v.v...).
    Này Bà la môn,có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có chánh kiến; người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh trở lại làm người; trong kiếp người, là người giàu sang, phú quý, có chức cao,quyền lớn, sung túc đầy đủ ngũ trần trong đời, phát sanh do quả báu của phước thiện bố thí trong kiếp quá khứ.
    Này Bà la môn,có số người trong đời này, là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sựtrộm cắp... có chánh kiến; người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên; trong kiếp chư thiên trong cõi trời, là chư thiên có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc cao quý trong cõi trời ấy, do phước thiện bố thí, đã tạo trong kiếp quá khứ.
    Này Bà la môn,chính thí chủ là người có phước thiện bố thí và hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.
    Kính bạch Samôn Gotama, thật phi thường! Chưa từng nghe bao giờ!
    Kính bạch Samôn Gotama, như vậy, thật ra nên bố thí bằng đức tin trong sạch, phước thiện bốthí không chỉ có quả báu cho chính mình, mà còn hồi hướng đến người khác, khibiết hoan hỉ họ cũng thọ hưởng được quả báu của phước thiện này nữa.
    Kính bạch Samôn Gotama, lời dạy của Ngài rõ ràng quá!......".
    *

    Qua bài kinh này,chúng ta hiểu được rằng: thí chủ làm phước thiện bố thí rồi hồi hướng riêng đến thân quyến đã quá vãng nói riêng, có ý chỉ định đến một chúng sinh nào đó, thì điều ấy không chắc chắn, bởi vì, chúng sinh ấy có hay biết được thân quyến hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho mình hay không?
    Nếu chúng sinh ấy biết được mà hoan hỉ thì thọ hưởng được phần phước thiện ấy.
    Nếu chúng sinh ấy không hay biết, không hoan hỉ, thì không thọ hưởng được phần phước thiện ấy.
    Còn thí chủ làm phước thiện bố thí rồi, xin hồi hướng chung đến những thân quyến đã quá vãng nói chung, không có ý định chỉ định đến chúng sinh nào, điều ấy chắc chắn thân quyến của thí chủ thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy. Bở ivì, trong vòng tử sanh luân hồi vô số kiếp của mỗi chúng sinh, chắc chắn có thân quyến tái sanh trong hàng ngạ quỷ. Nếu họ hoan hỉ thọ hưởng được phầnphước thiện của thí chủ hồi hướng, thì họ thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanhcõi thiện giới an lành, hưởng được mọi sự an lạc.
    Ngoài ra, cácchúng sinh khác không hay biết, không hoan hỉ phần phước thiện bố thí của thíchủ hồi hướng, thì không thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy.

    Tích thân quyến ngạ quỷ của đức vua Bimbisāra

    Những thân quyếncủa đức vua Bimbisāra từ thời kỳ Đức Phật Phussa, cách Đức Phật Gotama trải qua6 Đức Phật xuất hiện trên thế gian, thời gian khoảng cách 92 đại kiếp trái đất.Họ đã tạo nghiệp ác, nên cho quả bị tái sanh làm chúng sinh trong cõi địa ngục,từ địa ngục này sang địa ngục khác, mãi cho đến thời kỳ Đức Phật Kassapa xuấthiện trên thế gian, họ mới thoát khỏi địa ngục, tái sanh làm ngạ quỷ.
    Một hôm, nhóm ngạquỷ này đến hầu Đức Phật Kassapa, bèn bạch rằng:
    Kính bạch Đức ThếTôn, đến bao giờ, mới có thân quyến hồi hướng phước thiện bố thí đến nhóm ngạquỷ chúng con, để chúng con thoát khỏi cảnh khổ, được hưởng sự an lạc? BạchNgài.
    Đức Phật Kassapadạy rằng:
    Này các ngạquỷ, bây giờ các con chưa được gì đâu! Các con hãy chờ trong vị lai đến thời kỳĐức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, thuở ấy có Đức Vua gọi là Bimbisāra đãtừng là thân quyến của các con, trước đây cách 92 đại kiếp trái đất. Đức vuaBimbisāra làm phước cúng dường đến Đức Phật Gotama cùng chư Đại Đức Tăng, rồihồi hướng phước thiện bố thí ấy đến cho các con.
    Nhóm ngạ quỷ nghelời thọ ký của Đức Phật Kassapa [Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian vàothời đại tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm], tâm cảm thấy vô cùng hoan hỉtrông ngóng như sắp được hoan hỉ phần phước thiện vào ngày mai.
    Thời kỳ Đức PhậtKassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm, khi ĐứcPhật Kassapa tịch diệt Niết Bàn và giáo pháp của Ngài cũng hoàn toàn tiêu hoại;con người làm cho mọi ác pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện pháp từ từ suythoái; cho nên, tuổi thọ con người giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống cònkhoảng 10 năm. Từ đó, con người kinh sợ tội lỗi, tránh xa ác pháp; cố gắng tạothiện pháp; mọi thiện pháp dần dần tăng trưởng, còn ác pháp từ từ suy thoái;cho nên, tuổi thọ con người tăng dần, tăng dần từ 10 năm lên đến tột cùng atăng kỳ năm [A tăng kỳ (asaṅkheyya): được tính theo số lượng là số 1 đứng đầu,theo sau là 140 con số không (0), 10**140]. Từ đó, con người bắt đầu dể duôi,ác pháp phát sanh, làm cho tuổi thọ con người lại giảm dần, giảm dần cho đếnkhi tuổi thọ khoảng 100 năm. Khi ấy, Đức Phật Gotama hiện tại của chúng ta xuấthiện trên thế gian, tại xứ Māgadha có đức vua Bimbisāra trị vì, đóng đô tạikinh thành Rājagaha.
    Đức vua Bimbisāracó đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Tam bảo, xây dựng ngôichùa Veḷuvana dâng đến chư Đại Đức Tăng tứ phương có Đức Phật chủ trì chứngminh, nhóm ngạ quỷ thân quyến đang trông chờ Đức Vua hồi hướng phần phước thiệnđến cho họ; nhưng trong dịp ấy, Đức Vua không hồi hướng phước thiện bố thí đếncho chúng. Nhóm ngạ quỷ thân quyến thất vọng đêm khuya đến kêu la than khóc âm thanhđáng kinh sợ.
    Sáng ngày, Đức Vuađến hầu Đức Phật, bạch hỏi do nhân nào có hiện tượng như vậy.
    Đức Phật dạy:
    - Này ĐạiVương, không có gì đáng kinh sợ, đó là tiếng kêu la than khóc của nhóm ngạ quỷthân quyến của Đại Vương trong quá khứ. Nhóm ngạ quỷ này trông ngóng Đại Vươnglàm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện cho chúng, để chúngthoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh nơi cảnh giới an lạc.
    Lắng nghe Đức Phậtdạy như vậy, Đức Vua liền bạch:
    - Kính bạch ĐứcThế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Đại Đức Tăng ngự đến cungđiện của con, để con làm phước thiện bố thí một lần nữa, lần này con sẽ hồihướng phước thiện đến nhóm ngạ quỷ thân quyến của con. Đức Phật làm thinh nhậnlời thỉnh mời của Đức Vua.
    Đức Vua Bimbisārađảnh lễ Đức Thế Tôn trở về cung điện, sửa soạn vật thực làm phước thiện bố thícho ngày mai.
    Sáng hôm sau, ĐứcPhật cùng chư Đại Đức Tăng ngự đến cung điện của Đức Vua. Chính tự tay Đức Vuacúng dường vật thực đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng xong, Đức Phật thuyếtbài kinh "Tirokuṇṇapetavtthu" [Khuddakanikāya, bộ Petavatthu,Tirokuṇṇapetavtthu] tế độ nhóm ngạ quỷ, đồng thời đức vua Bimbisāra hồihướng phần phước thiện bố thí ấy đến nhóm ngạ quỷ thân quyến, chúng hoan hỉ thọhưởng phần phước thiện cấy, nên tất cả đều thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát,ngay khi ấy, do nhờ năng lực phước thiện cho quả, được tái sanh làm chư thiênhưởng mọi sự an lạc cõi trời dục giới.
    Chúng ta được sanhlàm người, có cơ hội làm phước thiện bố thí, còn các chúng sinh khác khó có cơhội bố thí. Cho nên, chúng ta nên tìm cơ hội tốt để làm phước thiện bố thí, rồihồi hướng phần phước thiện ấy đến cho thân quyến của chúng ta chịu đói khát,khổ cực trong hàng ngạ quỷ; họ lúc nào cũng trông ngóng đến sự hồi hướng phướcthiện của thân quyến. Khi họ hay biết, hoan hỉ phần phước thiện mà chúng ta hồihướng đến cho họ, chắc chắn họ thoát ra khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát, do nhờphước thiện ấy cho quả được tái sanh cõi thiện giới: cõi trời, cõi người.
    Cho nên, khi thíchủ tạo được phước thiện nào xong rồi, nên đọc câu hồi hướng rằng:
    "Idaṃ noñātīnaṃ hotu,
    Sukhitā hontu ñātayo...".

    [Khuddakanikāya,bộ Petavatthu, Tirokuṇṇapetavtthu]
    "Cầu mongphước thiện này,
    Thành tựu đến tất cả,
    Thân quyến của chúng tôi.
    Cầu mong họ hoan hỉ,
    Được an lạc lâu dài".

    Như vậy, thânquyến ngạ quỷ đang đứng trông chờ hoan hỉ phần phước thiện mà thân quyến đã hồihướng, ngay khi ấy, do năng lực phước thiện cho quả, họ được thoát khỏi kiếpsống ngạ quỷ đói khát, được chuyển kiếp tái sanh làm chư thiên, hưởng mọi sự anlạc trong cõi trời.

    Lời Hồi Hướng

    Tất cả chúng sinhtrong ba giới bốn loài, chỉ có loài người trong cõi Nam thiện bộ châu này cóđược thuận lợi tạo mọi phước thiện, nhất là phước thiện bố thí. Ngoài ra, cácchúng sinh còn lại và các cõi khác, khó có cơ hội tạo phước thiện bố thí. Chưthiên muốn tạo phước thiện bố thí cần phải hiện xuống cõi người, biến hóa thànhcon người mới có thể tạo phước thiện bố thí.
    Như vậy, chúng tađã là con người trong cõi Nam thiện bộ châu này, có điều kiện và cơ hội tạo nênđược phước thiện bố thí, thì chúng ta nên có tâm từ, tâm bi quan tâm đến nhữngchúng sinh khác, họ không phải ai xa lạ, họ chính là những người thân bằngquyến thuộc của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ và kiếp hiệntại.
    Đức Phật dạy:
    "Khôngthấy một chúng sinh nào không từng là thầy, tổ, ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em,chú, bác, cô, dì, bà con thân bằng quyến thuộc... của chúng ta".
    Như vậy, tất cảchúng sinh đều là những người thân quyến của chúng ta gần kiếp này, hoặc xatrong những kiếp quá khứ. Nay chúng ta có điều kiện, có cơ hội tạo nên phướcthiện bố thí, thì ta nên hồi hướng, ban bố, phân phát... phần phước thiện bốthí này đến cho tất cả chúng sinh, thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Có sốchúng sinh đang sống trong cảnh khổ, đang khao khát, trông ngóng, chờ đợi phầnphước thiện của thân quyến hồi hướng, nếu họ hay biết mà hoan hỉ phần phướcthiện ấy, ngay tức khắc, họ thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh lên cõi thiệngiới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi ấy.
    Muốn vậy, chúng tacần phải thành tâm hồi hướng và có lời hồi hướng như sau:
    Đọc câu Pāḷi: "Idaṃno ñātīnaṃ hotu, Sukhitā hontu ñātayo..."
    Hoặc bằng tiếngViệt:
    Hôm nay, chúngtôi đã tạo mọi phước thiện như bố thí, thọ trì Tam quy, giữ giới, nghe pháp,hành thiền.... Chúng tôi thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến tất cảchư thiên, nhất là chư thiên hộ trì mỗi người chúng tôi, chư thiên ở tại nơiđây, chư thiên ở trong nhà, chư thiên ở trong tỉnh, thành, chư thiên ở trongnước, chư thiên ở ngoài nước và toàn thế giới, chư thiên ở trên mặt đất, chưthiên ở cội cây, chư thiên ở trên hư không;
    Tứ Đại ThiênVương: đức vua Dhataraṭṭha, đức vua Viruḷhaka, đức vua Virūpakkha, đức vuaKuvera cùng tất cả chư thiên trong cõi Tứ đại thiên vương thiên.
    Đức vua trờiSakka cùng tất cả chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên.
    Đức vua trờiSuyāma cùng tất cả chư thiên trong cõi Dạ ma thiên.
    Đức vua trờiSantussita cùng tất cả chư thiên trong cõi Đâu xuất đà thiên.
    Đức vua trờiSunimmita cùng tất cả chư thiên trong cõi Hoá lạc thiên.
    Đức vua trờiParanimmita cùng tất cả chư thiên trong cõi Tha hóa tự tại thiên. v.v....
    Xin quý vị chưthiên hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhaucả thảy, làm cho tăng thêm sự an lạc lâu dài. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lànhthay!
    Chúng tôi thànhtâm hồi hướng đến những ân nhân đã quá vãng như tổ tiên, thầy tổ, ông bà, chamẹ, thân bằng quyến thuộc, bè bạn... từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếptrong quá khứ, nhất là ... [tên người vừa quá vãng hoặc người đang nhớ đếntrong ngày làm phước thiện này ...] đã quá vãng. Xin quý vị hoan hỉ thọ hưởngphần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy. Cầu mong quý vịgiải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lànhthay!
    Chúng tôi thànhtâm chia phần phước thiện thanh cao này đến những ân nhân còn sống như: ông bà,cha mẹ, thầy tổ, anh chị em, con cháu, bà con thân bằng quyến thuộc, bè bạn....Mong quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồngnhau cả thảy, cầu mong quý vị thân tâm thường được an lạc, tiến hóa trong mọithiện pháp. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!
    Chúng tôi thànhtâm hồi hướng phần phước thiện thanh cao này đến chúng sinh trong địa ngục, cáchàng atula, các hàng ngạ quỷ, các loại súc sanh, đặc biệt đến chúa địa ngụcYāma. Mong quý vị hoan hỉ, thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúngtôi đồng nhau cả thảy, cầu mong quý vị thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh nơicõi thiện giới cho được an lạc. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!
    Nói chung,chúng tôi thành tâm hồi hướng đến tất cả 4 loài chúng sinh, trong tam giới gồmcó 31 cõi. Cầu mong tất cả chúng sinh hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanhcao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả chúng sinh giải thoátmọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài, tiến hóa trong mọi thiện pháp làm duyên lànhtrên con đường giải thoát khỏi khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. –Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

    Bố Thí – Hồi Hướng

    Phước thiện bố thívà hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy là một việc rất cần thiết đối với hang ngạ quỷ. Kiếp ngạ quỷ chịu bao nhiêu nỗi khổ vì đói khát, lạnh lẽo. Họ chỉ cònbiết trông ngóng, chờ đợi phước thiện mà thân bằng quyến thuộc hồi hướng đếncho họ mà thôi. Nếu họ không được hoan hỉ phần phước thiện nào của thân bằngquyến thuộc hồi hướng, thì họ phải chịu kiếp sống ngạ quỷ đói khát, khổ cực,không biết bao giờ mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.
    Như tích Sāriputtattheramātupeta[Khuddakanikāya, Petavatthu, truyện Sāriputtattheramātupeta]: Ngạ quỷ thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta, được tóm lược như sau:

    Nữ ngạ quỷ tiềnthân đã từng là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta kiếp thứ 5 trong quá khứ,kể từ kiếp hiện tại.
    Tiền thân của nữngạ quỷ là vợ của ông Bà la môn giàu có nhiều của cải. Ông Bà la môn có đức tintrong sạch, có tác ý thiện tâm, thường làm phước thiện bố thí cúng dường vậtthực, đồ uống, y phục... đến Sa môn, Bà la môn. Bố thí ban bố, phân phát đếnnhững người nghèo khổ, người qua đường....
    Một hôm, ông Bà lamôn có công việc phải đi nơi khác, ông dạy bảo vợ ở nhà thay ông gìn giữ phongtục tập quán, lo công việc làm phước thiện bố thí cúng dường đến Sa môn, Bà lamôn, phân phát vật thực, đồ dùng đến những người nghèo khổ đói khát.... Ngườivợ ở nhà không làm theo sự dạy bảo của chồng. Hễ có ai đến nương nhờ, bà tabuông lời mắng nhiếc, ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng....
    Sau khi bà tachết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào hàng ngạ quỷ đói khát, ăn đồ dơ bẩn,ăn phẩn, uống nước tiểu, mủ, nước miếng... chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnhlẽo do ác nghiệp của mình đã tạo. Nữ ngạ quỷ nhớ lại tiền kiếp đã từng là thânmẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta, muốn đến nương nhờ Ngài, chư thiên giữ cổngngăn cản không cho nữ ngạ quỷ vào. Nữ ngạ quỷ thưa với vị chư thiên rằng:
    - Thưa chư thiên,tiền kiếp tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta, xin chư thiên chotôi vào thăm Ngài.
    Nữ ngạ quỷ đượcvào đứng khép nép, Ngài Đại Đức Sāriputta nhìn thấy nữ ngạ quỷ, với tâm bi mẫnbèn hỏi rằng:
    - Này ngạ quỷ!Thân trần truồng, hình dáng đáng thương hại, ốm yếu da bọc xương, thân mình runrẩy. Ngươi là ai mà đến đứng nơi này?
    Nghe Ngài hỏi, nữngạ quỷ thưa rằng:
    - Kính bạch NgàiĐại Đức, tiền kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài, do nghiệp ác cho quảtái sanh làm ngạ quỷ chịu cảnh đói khát, đành phải ăn những đồ dơ dáy như nướcmiếng, nước mũi, đàm người ta nhổ bỏ, uống nước vàng chảy từ xác chết, uống máucủa đàn bà đẻ, uống máu mủ của đàn ông bị chặt tay chân, ăn máu mủ các loàiđộng vật, sống không có nương tựa, các nơi nghĩa địa, bãi tha ma.
    Kính bạch Ngài,xin Ngài làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho mẹvới. Nhờ phước thiện ấy, may ra mẹ mới thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ như thế này.
    Ngài Đại ĐứcSāriputta lắng nghe lời nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu trong tiền kiếp, phátsanh tâm bi mẫn, nên tìm cách cứu khổ nữ ngạ quỷ, Ngài bàn tính với Ngài ĐạiĐức Mahāmoggallāna, Ngài Đại Đức Anuruddha và Ngài Đại Đức Mahākappina. NgàiĐại Đức Mahāmoggallāna đi khất thực vào cung điện gặp đức vua Bimbisāra, Đứcvua thỉnh mời yêu cầu Ngài cần thứ vật dụng nào để Đức vua dâng cúng. Nhân dịpấy, Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna thưa cho Đức Vua biết chuyện nữ ngạ quỷ đã từnglà thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta sống trong cảnh khổ không có nơi nươngnhờ.
    Nghe vậy, Đức Vuatruyền lệnh xây cất 4 cái cốc, chỗ ở của chư Tỳ khưu Tăng. Khi xây cất xong,Đức Vua làm lễ dâng đặc biệt đến Ngài Đại Đức Sāriputta 4 cái cốc ấy.
    Một lần nữa, NgàiĐại Đức Sāriputta làm lễ dâng những cốc này đến chư Tỳ khưu Tăng từ bốn phương,có Đức Phật chủ trì, xin hồi hướng phần phước thiện này đến cho nữ ngạ quỷ đãtừng là thân mẫu trong tiền kiếp. Nữ ngạ quỷ hoan hỉ phần phước thiện bố thí màNgài Đại Đức Sāriputta hồi hướng. Ngay sau khi hoan hỉ phần phước thiện bố thíấy, liền thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tái sanh lên làm thiên nữ có hào quang sángngời, có thân hình xinh đẹp, y phục lộng lẫy, có lâu đài nguy nga tráng lệ, cóđầy đủ của cải của chư thiên, hưởng sự an lạc cao quý trong cõi trời.
    Hôm sau, vị thiênnữ ấy hiện xuống đảnh lễ Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna, Ngài hỏi thiên nữ rằng:
    - Này thiên nữ,ngươi có sắc đẹp tuyệt trần, có hào quang sáng chói khắp mọi nơi, như vầngtrăng sáng.
    - Do phước thiện gìmà ngươi có được như vậy?
    - Do phước thiện gì mà ngươi được sanh trong lâu đài nguy nga tráng lệ như thếấy?
    - Do phước thiện gì mà ngươi có đầy đủ mọi thứ trong cõi trời đáng hài lòng nhưvậy?
    Này thiên nữ,ngươi có nhiều oai lực đặc biệt, vậy, khi sống cõi người, ngươi tạo phước thiệngì, mà nay có được những quả báu đáng hài lòng như vậy?
    Vị thiên nữ bạchvới Ngài Đại Đức Mahā-moggallāna rằng:
    - Kính bạch NgàiĐại Đức Mahāmoggallāna, con là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta trong tiềnkiếp, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm nữ ngạ quỷ chịu cảnh khổ đói khát đànhphải ăn đồ dơ dáy như máu, mủ.... Vừa qua, con đã đến hầu Ngài Đại ĐứcSāriputta cầu xin Ngài có lòng bi mẫn cứu khổ con, Ngài đã làm phước thiện bốthí xong hồi hướng đến cho con; con đã hoan hỉ phần phước thiện ấy, nên conthoát khỏi kiếp ngạ quỷ, được tái sanh làm thiên nữ có được tất cả như Ngài đãthấy.
    Kính bạch Ngài ĐạiĐức, con hiện xuống đây để đảnh lễ dưới chân Ngài và Ngài Đại Đức Sāriputta làbậc Thánh thiện trí, có tâm bi mẫn cứu khổ chúng sinh trong đời.
    Những câu truyệnnhư trên có rất nhiều trong bộ Peṭavaṭṭhu và trong Kinh tạng.
    Bốthí – Phát nguyện
    Ở đời, người ta có nhiều tiền bạc, người tacó thể mua sắm các đồ dùng mà người ta muốn. Cũng như vậy, khi người ta tạo nênphước thiện rồi, người ta có thể phát nguyện theo nguyện vọng của mình. Sựthành tựu theo nguyện vọng của mình còn tùy theo năng lực của phước thiện vàthời gian sớm hoặc muộn, cũng sẽ thành tựu như ý nguyện.
    Nguyện vọng của mỗi người có phần khác nhau,cho nên khi tạo nên phước thiện cũng khác nhau. Có hai loại phước thiện:
    - Phước thiện dẫndắt trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới (vaṭṭagāmikusala).
    -
    Phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tamgiới (vivaṭṭupanissitakusala).
    Phước thiện dẫn dắt trong vòng tử sanhluân hồi trong tam giới như thế nào?
    Một số người có tâm tham muốn ở trong đời,tạo nên phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền định,... cầu mong đượcrằng:
    Xin cho tôi được tái sanh làm người giàusang phú quý, có danh, có phận, có chức, có quyền; làm Đức Vua trị vì một nước,hoặc làm Đức Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ.
    Xin cho tôi được tái sanh lên cõi trời, sẽlà chư thiên có nhiều oai lực, hoặc là Đức Vua trong cõi trời ấy,...
    Tùy theo mỗi phước thiện mà cho quả báu đượcthành tựu trong cõi người, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới và cõi trời vôsắc giới. Đến khi hết tuổi thọ trong cõi nào rồi, do nghiệp cho quả tái sanhtrở lại kiếp sau, tùy theo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình đã tạo, cứquanh quẩn trong vòng tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.
    Như vậy, gọi là phước thiện dẫn dắt trong vòngtử sanh luân hồi trong tam giới.
    Phước thiện này không trở thành pháphạnh ba la mật như: bố thí ba la mật, giữ giới ba la mật,... vì khôngphát nguyện giải thoát khổ sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài.
    Phước thiện làm duyên lành để giảithoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới như thế nào?
    Một số bậc Thiện trí có trí tuệ sáng suốtnhận thức rõ khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, nên khi tạo phước thiện nhưbố thí, giữ giới, hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... chỉ mong làm nơinương nhờ để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Bậc Thiện trí nàykhông cầu mong sẽ trở thành người giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng,...trong cõi người; cũng không cầu mong sự an lạc trong cõi trời dục giới, cõitrời sắc giới và cõi trời vô sắc giới. Họ chỉ có một nguyện vọng nương nhờphước thiện này dẫn dắt đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 ThánhĐạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, là pháp diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân màthôi. Phước thiện này trở thành pháp hạnh ba la mật như: bố thí bala mật, giữ giới ba la mật,... Phước thiện này làm duyên lành để giải thoát khổtử sanh luân hồi trong tam giới.
    Lời Phát Nguyện
    Muốn cho phước thiện của mình làm duyên lànhnương nhờ để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, bậc Thiện trí ấy cầnphải có lời phát nguyện:
    Trong Chú giải có dạy rằng:
    "Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃhotu".
    [Chú giải Saṃyuttanikāya, phầnNidānavagga, kinh Paṭipadā-suttavaṇṇanā. Chú giải Aṅguttaranikāya.]
    "Cầu mong phước thiện bố thí này củatôi, làm duyên lành dẫn dắt đến sự chứng ngộ Niết Bàn, chứng đắc A-ra-hán ThánhĐạo diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân".
    Đây là lời phát nguyện chung cho những ngườimuốn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
    Phát nguyện riêng của mỗi Đức Bồ Tát
    Đức Bồ Tát có ba bậc, mỗi bậc có sự phátnguyện khác nhau:
    1- Bậc Thanh Văn Bồ Tát (Sāvakabodhisatta)phát nguyện trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ tử Phật, có 3 bậc:
    Bậc Thánh tốithượng Thanh Văn (Aggasāvaka).
    Bậc Thánh đại Thanh Văn (Mahāsāvaka).
    Bậc Thánh Thanh Văn (Pakatisāvaka).
    2- Bậc Độc Giác Bồ Tát (Paccekabodhisatta)phát nguyện trở thành Đức Phật Độc Giác, có 3 bậc:
    Bậc Độc Giác Phậtcó trí tuệ ưu việt (paññādhika).
    Bậc Độc Giác Phật có đức tin ưu việt (saddhādhika).
    Bậc Độc Giác Phật có tinh tấn ưu việt (vīriyādhika).
    3- Bậc Toàn Giác Bồ Tát hoặc Bậc Chánh ĐẳngGiác Bồ Tát (Sammāsambodhisatta) phát nguyện trở thành bậc Toàn GiácPhật hoặc Bậc Chánh Đẳng Giác Phật, có 3 bậc:
    Bậc Toàn Giác cótrí tuệ ưu việt (paññādhika).
    Bậc Toàn Giác có đức tin ưu việt (saddhādhika).
    Bậc Toàn Giác có tinh tấn ưu việt (vīriyadhika).
    Tất cả các bậc Bồ Tát khi tạo 10 pháp hạnh bala mật, phước thiện ba la mật nào dầu nhỏ hoặc lớn, dầu ít hoặc nhiều đều phátnguyện mong trở thành bậc nào theo nguyện vọng của mình.
    Ví dụ:
    Đức Bồ Tát đạo sĩ Akitti, tiền thân của ĐứcPhật Gotama, sống trong rừng dùng lá kāra làm vật thực hằng ngày. Đức vua trờiSakka (Đế Thích) nhìn thấy Đức Bồ Tát đạo sĩ có hạnh cao thượng khó có ai thựchành được, muốn biết Ngài thực hành phạm hạnh như vậy có nguyện vọng gì. Đứcvua trời Sakka biến hóa thành Bà la môn khất sĩ hiện xuống đi khất thực trướcĐức Bồ Tát đạo sĩ. Đức Bồ Tát đạo sĩ nhìn thấy Bà la môn khất sĩ, tâm vô cùnghoan hỉ đem tất cả nắm lá kāra được luộc chín làm phước thiện bố thí đến Bà lamôn khất sĩ, còn Đức Bồ Tát đạo sĩ chỉ uống nước để sống qua ngày ấy.
    Đức Bồ Tát đạo sĩ phát nguyện rằng:
    "Tena dānena na lābhasakkarasilokaṃ,na Cakkavattisampattiṃ, na Sakkasampattiṃ, na Brahmasampattiṃ, na Sāvakabodhiṃ,na Paccekabodhiṃ patthemi. Api ca idaṃ me dānaṃ Sabbaññutañāṇassa paccayohotu". [Bộ Cariyāpiṭakaṭṭhakathā , pháp hạnh của Đức Bồ Tát đạo sĩ Akitti.Bộ Jātaka, truyện Akittijātaka.]
    "Do năng lực phước thiện bố thí này,bần đạo không cầu mong danh lợi, không cầu mong ngôi vị Đức Chuyển luân thánhvương, ngôi vị vua trời Sakka, ngôi vị Phạm thiên, cũng không cầu mong trởthành bậc Thánh Thanh Văn, bậc Độc Giác Phật; mà sự thật, phước thiện bố thínày của tôi, chỉ mong làm duyên lành để trở thành Đức Phật Toàn Tri Diệu Giácmà thôi".
    Đó là lời phát nguyện của của Đức Toàn GiácBồ Tát cầu mong trở thành Đức Phật Toàn Giác, hoặc Bậc Chánh Đẳng Giác Phật.
    Cho nên, mỗi Đức Bồ Tát có lời phát nguyệntheo nguyện vọng riêng của mình.
    Đức Độc Giác Bồ Tát chỉ phát nguyện muốn trởthành Đức Phật Độc Giác, ngoài ra không còn mong muốn địa vị nào khác.
    Bậc tối thượng Thanh Văn Bồ Tát chỉ phátnguyện muốn trở thành bậc Thánh tối thượng Thanh Văn mà thôi, không còn mongđịa vị nào khác.
    Bậc đại Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện trởthành bậc Thánh đại Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.
    Bậc Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện trởthành bậc Thánh Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.
    Phước thiện nào, như giữ giới, bố thí, hànhthiền định, hành thiền tuệ,... xong rồi phát nguyện cầu mong chứng ngộ chân lýTứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, pháp diệt đoạntuyệt phiền não trầm luân.
    Để đạt đến nguyện vọng trở thành Đức PhậtToàn Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh tối thượng Thanh Văn, hoặcbậc Thánh đại Thanh Văn, hoặc bậc Thánh Thanh Văn, phước thiện ấy gọi là phướcthiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới (vivaṭṭupanissitakusala).
    Tính chất ưu việt củaVivaṭṭupanissitakusala
    Chủ nhân phước thiện vivaṭṭupanissitakusalanày ngày nào chưa đạt đến mục đích cứu cánh cuối cùng, chứng ngộ Niết Bàn theonguyện vọng riêng của mình, ngày ấy chủ nhân vẫn hưởng được quả báu cao quýtrong cõi người, trong cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắcgiới.
    - Do năng lực phước thiện này cho quả, nếutái sanh làm người, thì sẽ là người giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng,có khi làm vua một nước lớn, có khi là Đức Chuyển luân thánh vương trị vì bốnchâu thiên hạ. Nhưng dầu ở địa vị nào, người chủ nhân của phước thiệnvivaṭṭupanissitakusala này không say đắm, không dính mắc trong của cải, sựnghiệp ấy. Khi có cơ hội, sẵn sàng từ bỏ tất cả xuất gia trở thành đạo sĩ trongthời kỳ không có Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc xuất gia trở thành Tỳkhưu trong thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian.
    Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.
    - Do năng lực phước thiện này cho quả, nếutái sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, thì chủ nhân của phước thiệnvivaṭṭupanissitakusala này không chịu hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đếnhết tuổi thọ, mà nguyện từ bỏ cõi trời, liền tái sanh xuống làm người, để có cơhội tạo nhiều pháp hạnh ba la mật, để cho mau chóng đạt đến mục đích cứu cánhNiết Bàn theo nguyện vọng của mình.
    - Nếu chủ nhân ấy tái sanh làm chư thiêntrong cõi trời dục giới, không bao giờ chịu hưởng sự an lạc trong cõi trời ấycho đến hết tuổi thọ, mà chủ nhân chư thiên ấy nguyện chết trước tuổi thọ,xuống tái sanh làm người để có cơ hội tốt tạo được nhiều pháp hạnh ba la mật,để mau chóng chứng đạt mục đích cứu cánh cuối cùng của mình.
    Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.
    Trong thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thếgian, hoặc giáo pháp của Ngài đang lưu truyền, chủ nhân của phước thiệnvivaṭṭupanissitakusala này, phát sanh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, ĐứcPháp, Đức Tăng, xin quy y Tam bảo trở thành người cận sự nam (hoặc cận sự nữ);hoặc từ bỏ nhà xuất gia trở thành Tỳ khưu, hành giới trong sạch đầy đủ, tiếnhành thiền định chứng đắc các bậc thiền sắc giới, vô sắc giới không phải đểhưởng quả an lạc của các bậc thiền ấy trong kiếp hiện tại và kiếp sau trong cõitrời phạm thiền sắc giới, vô sắc giưói; mà chỉ dùng bậc thiền ấy làm nền tảngtiến hành thiền tuệ, để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo, 4Thánh Quả và Niết Bàn tuỳ theo trí tuệ và ba la mật của mình.
    Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.
    Tóm lại,
    Phước thiện vaṭṭagāmikusala là con đường vòngquanh trong tam giới, không giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốnloài.
    Phước thiện vivaṭṭupanissitakusala là conđường thẳng đến Niết Bàn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốnloài.
    Last edited by Allbutnothing; 26-06-2017 at 12:29 PM.

  20. #80
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi 123456789 Xem Bài Gởi
    Như vậy phương pháp HỒI HƯỚNG hoàn toàn là có kết quả và đúng với chánh pháp Phật Giáo. Phần trên bạn trích chỉ là lời phương tiện Phật nói trong thời pháp đầu tiên của Tiểu Thừa, lúc đó Đức Phật chưa nói đến Đại Thừa, đức Phật tùy theo căn tánh chúng sanh để thuyết pháp hóa độ cho họ, vì nếu thật sự như trên nghiệp ai nấy lãnh hoàn toàn không có cách cứu chữa, thì việc bố thí hồi hướng đến quyến thuộc làm sao mà có kết quả nhận các đồ vật của Chư Thiên và các vị ấy thoát khỏi thân ngạ quỷ được như trong tạng Kinh Tiểu Thừa nói?
    - Bài trao đổi mà SMC nói khó mà diễn tả bằng lời được. SMC chỉ nói những cái cơ bản và cố gắng giải thích trên văn tự theo sự hoc và hiểu của mình về bài kinh Ngạ Quỷ trong Tiểu Bộ Kinh mà ĐH đã chia sẻ.

    Nếu chỉ đọc đoạn trích và y chỉ vào câu màu đỏ ấy, thì hoàn toàn HỒI HƯỚNG là có kết quả. Nhưng, nguyên bài kinh KHÔNG CÓ Ý NGHĨA RẰNG: việc làm được làm bởi người cho quả đến một người khác, mà đơn giản là những vật mà đang được cho ra nhân danh chúng theo cách này trở thành nhân duyên để những quyến thuộc Ngạ Quỷ ấy làm một việc thiện. Do đó, chính do việc thiện này tạo ra quả của nó dành cho chúng ngay khi ấy, phù hợp với những vật thí ấy.

    Trong bản kinh, đức Phật cũng có giải thích rằng: do nghiệp lực của chúng sinh ấy, nên khi sanh vào làm Ngạ Quỷ, cũng có loài Ngạ Quỷ không nhận được sự hồi hướng của người thân. Tức là: người thân không nghĩ đến quyến thuộc đã sanh vào Ngạ Quỷ, cũng là do nghiệp của Ngạ Quỷ nên khiến chúng không được nhớ đến. Ở đây, đức Phật muốn nhấn mạnh đến ác nghiệp mà chúng sinh đã gieo nó ghê gớm thế nào.

    => Tựu chung lại, những bản kinh này cần có thời gian đọc đi đọc lại, chiêm nghiệm một cách tỉ mỉ. Đồng thời, phải đối chiếu ngôn ngữ dịch thuật và đi kèm theo đó không thể thiếu các BỘ CHÚ GIẢI để có thể hiểu được các ý nghĩa một cách thực tế nhất.

    Tóm lại, HỒI HƯỚNG trong bản kinh này, không mang ý nghĩa: ta làm cho người kia thọ hưởng. Mà là do nhân ta làm trai đàn này nhân danh thân quyến, ta được quả lành, mà nhờ quả lành này mà thân quyến ấy thấy được sự vui vẻ, an lạc. Vì trong tâm họ luôn bị phiền não, tham sân, bỏn xẻn... Từ đó họ hoan hỷ khi ta "nhân danh" họ mà làm, thì cuộc sống họ sẽ tốt đẹp hơn. Chúng ta cũng nên nhớ: cảnh giới nào, thì chúng sanh ấy tự nuôi sống ở đó, sanh tồn ở đó, bằng bất cứ cái gì gọi là vật thực của những chúng sanh trong cõi đó, chứ không có đem cái ở đây, mà "gởi" được cho bên kia. (Nên tục đốt vàng mã cũng nên dẹp đi). Chính do việc thiện này tạo ra quả của nó dành cho chúng Ngạ Quỷ ngay khi ấy, phù hợp với những vật thí ấy.

    Bản kinh này là bản kinh Đức Phật giáo giới cho Vua Bình Sa Vương về sự thực hành nên được làm bởi người thân đối với người thân. Đại ý toàn bộ bản kinh ở đây là một lời giáo giới.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •