Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 35

Ðề tài: bạn đã làm gì cho đạo Phật?

  1. #1

    Mặc định bạn đã làm gì cho đạo Phật?

    Chào các bạn thành viên trong diễn đàn.
    Hiện nay mình thấy nhiều người trong đạo, ngoại đạo và cả những người có đi Chùa nhưng thực sự không hiểu gì về đạo Phật.
    và có lẽ để phù hợp với xã hội hiện đại hay chiều theo người đi lễ Chùa hay sao đó, nên mình cảm thấy rất nhiều các Thầy đưa đạo Phật như bị đi chệch khỏi con đường chính đạo và bị ảnh hưởng từ các đạo khác. và có rất nhiều người làm đệ tử Phật mà còn mê tín còn đi cầu cúng xin may mắn hay giầu có. và mình cảm thấy Đạo Phật giờ đây bị thần thánh hóa, bị thương mại hóa mất rồi, cái mà chúng ta thấy giờ này ở Đạo Phật không phải là sự từ bi hay trí huệ mà là một cái gì đó trìu tượng, mơ hồ ma mị và xa vời với cuộc sống đời thường, Phật của chúng ta trong mắt mọi người giờ giống như một ông Thánh ở một thế giới nào đó có quyền năng có phép màu, Ngài ngồi ở một chốn xa xăm nào đó và ban phước, cứu giúp cho những người biết ca tụng, cầu xin Ngài. ôi thực sự là Đạo Phật đã đi chệch đi quá xa rồi.
    Còn Tôi yêu Phật, theo Phật bởi một điều đơn giản lắm. Tôi tôn thờ Ngài làm Thầy bởi Ngài là một người có trí tuệ cao siêu, từ bi, bác ái, Ngài dậy cho tôi hướng tới điều thiện để trở thành một người tốt hơn. Ngài đến với mọi người một cách Chân Thành giản dị như một người Thân, một người bạn, nói những điều từ ái với tất cả mọi người mọi loài mà không có sự phân biệt đối xử.
    Vâng nếu ai có cùng suy nghĩ như Tôi xin hãy góp chút công sức của mình để truyền bá đạo Phật theo đúng những gì Ngài đã làm, đừng để mọi người nghĩ rằng ông Phật là hư cấu, là không có thật, và quyết không chiếm lấy đức tin của mọi người bằng việc giao giảng những bài giảng về phép màu hay thần thông giống như những đạo khác.
    Và điều Tôi nghĩ chúng ta có thể làm là lập một facebook, sưu tầm và đăng những câu chuyện, những lời dăn dậy chân thực nhất của Đức Phật, nếu có ai vô comment phản bác hay chửi bới đạo Phật không nên tranh cãi và gây cãi vã mà hãy dùng những câu chuyện, những tình huống, những cách ứng xử của Đức Phật đã từng làm để đối đãi với họ, cho đến khi họ hiểu ra vấn đề. ví dụ nếu có người vô chửi chê bai, chúng ta có thể kể cho họ câu chuyện người cho quà và người nhận quà của Đức Phật đã nói, hoặc các câu chuyện ứng xử của Ngài trước những lời khen, tiếng chê...
    Tôi viết bài này, rất mong nhận được sự hửơng ứng của mọi người, xin cảm ơn!

  2. #2

    Mặc định

    Tại sao mỗi khi có các bài viết về tôn giáo thường phát sinh tranh cãi giữa những người theo các tín ngưỡng khác nhau?
    Bởi vì họ thường đem các bậc giáo chủ của mình ra để so sánh về sự tài giỏi, về phép thần thông, về sự kiến tạo ra loài người, ra vạn vật... và cuộc tranh luận của mọi người về sự cao thấp của các bậc Thánh Nhân, mà mỗi người tôn thờ dường như chẳng bao giờ có hồi kết, và càng lúc càng đưa đến những mâu thuẫn lớn hơn.
    có những tranh cãi, những phản bác là bởi vì ngay cả những người theo Đạo Phật còn chưa hiểu rõ về người Thầy của mình, Thần Thánh hóa Ngài, rồi họ nói đến Ngài là phải kể đến sự thần thông quảng đại để chứng tỏ rằng vị Thầy của mình giỏi hơn những ông thần khác, đạo của mình vi diệu hơn đạo khác.
    Nhưng không phải vậy, Ngài sinh ra, Ngài đến với thế giới này để giáo hóa cho mọi người hết lầm mê bằng chính lòng nhân ái, từ bi của Ngài để mọi người biết sửa chữa rèn luyện bản thân mình tốt hơn, sống yêu thương hơn, tự tỏa sáng và thuyết phục mọi người mọi loài, mọi thế lực thù địch bởi chính lòng nhân từ bác ái chứ không phải là mong chờ học được các phép thần thông, vì vậy nếu đem so sánh ngài với các bậc thần thánh khác sẽ là một sự so sánh khập khiễng và không nên làm. vì vậy nếu là một Phật tử, chúng ta cần hiểu và nên học theo những gì chân thực nhất từ Ngài chứ đừng xem ngài là một vị Thần ban phép như những bậc Thánh Thần khác.

  3. #3

    Mặc định

    Ha ha ha. Thân chào đạo hữu mr le. Cũng như đạo hữu noname tôi cũng có mong muốn trấn hưng chánh pháp, nhưng quả thật tìm mỏi mắt chẳng thấy ai tạm gọi là hiểu đạo phật, hay có thật tâm với chánh phật pháp để cùng mưu đại sự. Cuối cùng đành tự lập toppic chánh phật pháp luận bàn, 1 mình sô lô, cũng chỉ dám hi vọng trang bị chuẩn kiến thức đạo phật cho người tìm pháp để họ khỏi lầm đường lạc lối trong rừng pháp là noname tôi đã thấy mãn nguyện lắm. 1 vai tu tập 1 vai gánh chánh pháp quả thật quá bận. Ha ha ha. Nếu đạo hữu dám vỗ ngực mà tự nhận có tài thì có thể cùng noname tôi mà mưu đại sự chăng? Ha ha ha ha.
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nonamepas Xem Bài Gởi
    Ha ha ha. Thân chào đạo hữu mr le. Cũng như đạo hữu noname tôi cũng có mong muốn trấn hưng chánh pháp, nhưng quả thật tìm mỏi mắt chẳng thấy ai tạm gọi là hiểu đạo phật, hay có thật tâm với chánh phật pháp để cùng mưu đại sự. Cuối cùng đành tự lập toppic chánh phật pháp luận bàn, 1 mình sô lô, cũng chỉ dám hi vọng trang bị chuẩn kiến thức đạo phật cho người tìm pháp để họ khỏi lầm đường lạc lối trong rừng pháp là noname tôi đã thấy mãn nguyện lắm. 1 vai tu tập 1 vai gánh chánh pháp quả thật quá bận. Ha ha ha. Nếu đạo hữu dám vỗ ngực mà tự nhận có tài thì có thể cùng noname tôi mà mưu đại sự chăng? Ha ha ha ha.
    Thực sự là không cần tài cán gì ở đây cả, chỉ cần chúng ta nói và kể các câu chuyện về Đức Phật một cách chân thực nhất, giải quyết các vấn đề tranh luận theo đúng những gì Phật đã từng làm, trong cuộc đời thuyết giảng mấy chục năm của Ngài chắc cũng sẽ để lại nhiều câu chuyện mà chúng ta có thể áp dụng trong tất cả các tình huống ở trong cuộc sống thực tại, và chúng ta chỉ cần dùng những lời dậy của Ngài để mà giáo hóa, thuyết phục người khác. vì Tôi là người rất yêu quý đức Phật, nhưng thực sự kiến thức còn hạn hẹp nên rất muốn nhận được sự chia sẻ của mọi người. xin cảm ơn!

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nonamepas Xem Bài Gởi
    Ha ha ha. Thân chào đạo hữu mr le. Cũng như đạo hữu noname tôi cũng có mong muốn trấn hưng chánh pháp, nhưng quả thật tìm mỏi mắt chẳng thấy ai tạm gọi là hiểu đạo phật, hay có thật tâm với chánh phật pháp để cùng mưu đại sự. Cuối cùng đành tự lập toppic chánh phật pháp luận bàn, 1 mình sô lô, cũng chỉ dám hi vọng trang bị chuẩn kiến thức đạo phật cho người tìm pháp để họ khỏi lầm đường lạc lối trong rừng pháp là noname tôi đã thấy mãn nguyện lắm. 1 vai tu tập 1 vai gánh chánh pháp quả thật quá bận. Ha ha ha. Nếu đạo hữu dám vỗ ngực mà tự nhận có tài thì có thể cùng noname tôi mà mưu đại sự chăng? Ha ha ha ha.
    Chào bạn Nonamepas,
    Bạn gửi cho mình xin đường link Toppic của bạn nhé. Thanks

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi mr.le Xem Bài Gởi
    Chào bạn Nonamepas,
    Bạn gửi cho mình xin đường link Toppic của bạn nhé. Thanks
    Để noname up lên. Mới khởi động được vài dòng cơ bản thôi. Ha ha ha
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  7. #7
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Tiếc là chánh pháp khó nghe và ít người chịu lắng nghe. Còn mấy cái trò cúng kiếng, bói toán, giải hạn cúng sao, mê tín thì lại thu hút rất nhiều người tìm đến. Thôi thì... vạn sự tùy duyên... Đức Phật ngày trước cũng chẳng độ được toàn thể dân Ấn Độ ngày ấy...

  8. #8

    Mặc định

    Bạn nào có nguồn kinh, truyện hay về Đức Phật làm ơn up lên mục này giùm hoặc cho xin đường link nhé. xin cảm ơn!

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi smc Xem Bài Gởi
    Tiếc là chánh pháp khó nghe và ít người chịu lắng nghe. Còn mấy cái trò cúng kiếng, bói toán, giải hạn cúng sao, mê tín thì lại thu hút rất nhiều người tìm đến. Thôi thì... vạn sự tùy duyên... Đức Phật ngày trước cũng chẳng độ được toàn thể dân Ấn Độ ngày ấy...
    đồng ý là tùy duyên, nhưng ít nhất phải có người gieo duyên chứ bạn.
    Lần đầu tiên tôi được biết tới Phật pháp là do có một người bạn tặng tôi cuốn " Niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư" đọc thấy hay và tôi đã mua tặng rất nhiều ngươi. kế đó là in các cuốn kinh Phật, rồi cuốn " Công đức phóng sinh", sau đó tôi được tặng 1 cuốn thơ về Đức Phật của Thầy Thái Bá Tân, sau đó tôi đã in được 5000 cuốn tặng mọi người, năm vừa rồi tôi cũng in 5000 tờ lịch về 14 điều răn của Phật, tôi hy vọng rằng sẽ có một số người khi khi được tặng các kinh sách trên sẽ tiếp nhận và hiểu hơn về đạo Phật.
    ở kiếp này tôi biết đến Phật Pháp hơi muộn, hy vọng rằng ở kiếp sau tôi sẽ có nhân duyên với đạo Phật sớm hơn. biết đâu chính những quyển sách tôi in ở kiếp này sẽ đưa đến nhân duyên với Phật Pháp ở kiếp sau của tôi thì sao? vì vậy Tôi sẽ có gắng thật nhiều để có thể gieo duyên cho mọi người trong kiếp này và có thể cả là chính tôi trong kiếp sau.
    Last edited by mr.le; 06-06-2017 at 12:53 PM.

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi mr.le Xem Bài Gởi
    đồng ý là tùy duyên, nhưng ít nhất phải có người gieo duyên chứ bạn.
    Lần đầu tiên tôi được biết tới Phật pháp là do có một người bạn tặng tôi cuốn " Niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư" đọc thấy hay và tôi đã mua tặng rất nhiều ngươi. kế đó là in các cuốn kinh Phật, rồi cuốn " Công đức phóng sinh", sau đó tôi được tặng 1 cuốn thơ về Đức Phật của Thầy Thái Bá Tân, sau đó tôi đã in được 5000 cuốn tặng mọi người, năm vừa rồi tôi cũng in 5000 tờ lịch về 14 điều răn của Phật, tôi hy vọng rằng sẽ có một số người khi khi được tặng các kinh sách trên sẽ tiếp nhận và hiểu hơn về đạo Phật.
    ở kiếp này tôi biết đến Phật Pháp hơi muộn, hy vọng rằng ở kiếp sau tôi sẽ có nhân duyên với đạo Phật sớm hơn. biết đâu chính những quyển sách tôi in ở kiếp này sẽ đưa đến nhân duyên với Phật Pháp ở kiếp sau của tôi thì sao? vì vậy Tôi sẽ có gắng thật nhiều để có thể gieo duyên cho mọi người trong kiếp này và có thể cả là chính tôi trong kiếp sau.
    Tôi hay cũng hay ra đường mua thứ này thứ kia đề gieo duyên với mọi người. Nhiều khi không phải muốn mua đồ mà là gặp gỡ trò chuyện với bà con hàng xóm, kết duyên lành cho kiếp sau.

  11. #11

    Mặc định

    Theo thống kê trên thế giới, con số người theo Thiên chúa giáo là hai tỉ người, Hồi giáo một tỉ rưỡi người, Ấn giáo tám trăm triệu người, Phật giáo bảy trăm triệu người. Nếu những con số thống kê trên đây mang ít nhiều chính xác, thì trái lại con số những người hiểu rõ tín ngưỡng của mình một cách rốt ráo và chân thật lại rất mù mờ, dù thuộc vào bất cứ tôn giáo nào cũng vậy.


    LỊCH SỬ ẤN ĐỘ
    Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm 3300 đến 1700 trước Công nguyên (TCN). Nền văn minh thời đại đồ đá này được nối tiếp bởi thời đại đồ sắt thuộc thời kỳ Vệ Đà, thời kỳ đã chứng kiến sự nở rộ của các vương quốc lớn được biết đến với cái tên Mahajanapadas. Giữa hai giai đoạn này, vào thế kỷ thứ VI TCN, Mahavira và Thích Ca Mâu Ni ra đời.
    Tiểu lục địa Ấn Độ được thống nhất dưới vương triều Maurya trong suốt hai thế kỷ III và IV TCN. Sau đó, nó lại tan vỡ và rất nhiều phần bị thống trị bởi vô số những vương quốc thời Trung cổ trong hơn mười thế kỷ tiếp theo. Những phần ở phía Bắc được tái hợp một lần nữa vào thế kỷ thứ IV sau Công nguyên (SCN) và duy trì được sự thống nhất này trong hai thế kỷ, dưới thời của vương triều Gupta. Đây được coi là thời kỳ hoàng kim của Ấn Độ. Trong suốt thời kỳ này và vài thế kỷ sau đó, Ấn Độ bị thống trị bởi các vương triều Chalukya, Chola, Pallva và Pandya và trải qua giai đoạn vàng son của mỗi thời kỳ. Cũng trong thời điểm này, đạo Hindu và đạo Phật đã lan tỏa tới rất nhiều vùng tại Đông Nam Á.
    Hồi giáo du nhập vào Ấn Độ đầu thế kỷ thứ VIII SCN cùng với sự xâm lược Baluchistan và Sindh của Muhammad Bin Qasim. Những cuộc xâm lấn của đạo Hồi từ Trung Á giữa thế kỷ X và XV SCN, dẫn đến việc phần lớn miền Bắc Ấn Độ chịu sự thống trị của vương quốc Hồi giáo Delhi giai đoạn đầu và sau đó là đế quốc Mogôn.
    Trong những thời kỳ của Hồi giáo xâm lược, sự tàn phá chùa chiền , tháp xá lợi, kinh điển xảy ra khắp nước, những tôn giáo tại đây phải bỏ xứ trốn nạn qua các nước lân cận như Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc… nên hệ tư tưởng lúc này thêm một lần nữa bị đan xen, lẫn lộn.
    Vượt dòng lịch sử của Ấn Độ, bao cuộc loạn thế tại xứ sở Phật Giáo này. Sẽ thấy các tôn giáo tại đây do có sự thừa kế , pha trộn gần gần giống nhau sau nhiều thế kỷ. Và lẽ đương nhiên là sự ngộ nhận ảnh hưởng qua lại giữa các tôn giáo là điều không thể tránh. Sau đó trong nội bộ Phật Giáo cũng đã có sự chia rẽ do bất đồng hệ TƯ TƯỞNG. Vậy đâu là lời Phật thuyết ?

    NHỮNG HỆ TƯ TƯỞNG TÔN GIÁO SONG HÀNH CÙNG PHẬT GIÁO
    1. BÀ LA MÔN GIÁO :
    - Tồn tại 1600 năm TCN. Lấy 4 Bộ Kinh Vệ Đà làm hệ Tư Tưởng , Chân Lý. Tin Nhân Quả.
    - Phân biệt 4 loại giai cấp trong xã hội.
    - Thờ 3 Vị Thần Chính là : Bhraman – Vishnu – Shiva đại diện cho Sinh – Trụ -Diệt của Vũ Trụ.
    - Thực tại hằng cửu của Thượng đế (Brahman), có thể hiểu khái quát như là Đại ngã, trong các dạng thức muôn hình muôn vẻ của thực tại tối hậu ấy;
    Linh hồn của con người (Atman), có thể hiểu khái quát là Tiểu ngã, tu tập cái tối hậu sẽ hòa nhập vào Đại ngã trường cữu. ( Linh hồn nhỏ về linh hồn lớn)
    - Thực hiện các nghi quỹ cúng tế, bói toán, cầu đảo, tụng thần chú và quán tưởng Mandala. Ăn chay trường.
    2. KỲ NA GIÁO :
    - Xuất hiện khoảng 900 năm TCN. Hệ tư tưởng này gần giống với Phật Giáo :
    - Chối bỏ Kinh Vệ Đà. Tin lý Nhân Quả
    - Bình đẳng xã hội.
    - Tu Tập Giải thoát tự thân bằng hành thiền và khổ hạnh.
    - Phủ định sự hiện hữu của cảnh giới thiêng liêng vĩnh cửu, tin rằng linh hồn của con người bị mắc kẹt trong thế giới vật chất, cần được giải thoát nhằm thành tựu sự toàn mãn niết bàn;
    Biến giới luật không sát sanh (ahimsa) thành tâm điểm tuyệt đối của triết học và đạo đức học thực hành của mình.
    - Có Thất Đế, Ngũ giới cho Cư Sĩ ( chỉ khác ở giới thứ 5 ). Quan điểm hạt Kalapa nhỏ nhất cấu thành thế giới gần giống Phật giáo gồm 4 yếu tố : Đất , Nước , Gió , Lửa. Ăn Chay trường.
    3. HỒI GIÁO :
    - Đạo Hồi ra đời vào thế kỷ 7 tại bán đảo Ả Rập, do Thiên Sứ Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho con người qua thiên thần Jibrael. Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng Tối cao.
    - Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có người bạn đường? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật." (trích 6:101)
    - Mỗi năm co 1 tháng là lễ Ramana ăn vào ban đêm, không ăn chay.
    4. ĐẠO LÃO :
    Tuy Đạo Lão thuộc hệ thống tư tưởng Trung Hoa , nhưng có tính chất ảnh hưởng mạnh mẽ đến đạo Phật ngày nay khi truyền thừa qua nước này.
    Lão Tử định nghĩa Đạo có nghĩa "nguyên lý", "con đường chân chính" :
    - Đạo là đơn vị tối sơ, nguyên lý của vũ trụ và là cái tuyệt đối. Vạn vật xuất phát từ Đạo, nghĩa là cả vũ trụ và như vậy, trật tự vũ trụ cũng từ Đạo mà ra, tương tự như nguyên tắc tự nhiên, nhưng Đạo lại chẳng phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn gốc và sự dung hoà tất cả những cặp đối đãi và như thế, không thể định nghĩa được. Đạo là Vô danh, Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật. Đạo là thể vô hình vô tướng, không sinh không diệt, hằng hữu đời đời. Sở dĩ người ta không thấy được Đạo là vì nó là những nguyên tố rời rạc, chưa kết thành hình tượng.
    - Vì vậy theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ thành hình, trong khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất huyền diệu, gọi là ĐẠO. Đạo biến hóa ra Âm Dương. Âm Dương xô đẩy và hòa hiệp tạo ra vũ trụ và vạn vật.Vạn vật được hóa sinh ra, tác động với nhau, phồn thịnh với nhau, rồi cuối cùng tan rã để trở về trạng thái không vật không hình, tức là trở về nguồn gốc của nó là Đạo.

    VẬY ĐẠO PHẬT DẠY GÌ ?
    1. ĐỨC PHẬT KHÔNG THỪA NHẬN VỆ ĐÀ.Vấn đề lý thuyết Nghiệp và vận hành của Nghiệp theo luật Nhân Quả. Nên Phước báo của chúng sanh là do Nghiệp Thiện – Ác trong quá khứ. Cho nên cầu nguyện, cúng tế, giải hạn , tôn thờ Thần Linh hay phân chia giai cấp… là không hợp lý.
    2. KHÔNG CÓ LINH HỒN. Tất cả hoạt động của Vũ trụ, chúng sanh là một chuỗi Danh - Sắc sanh diệt liên tục theo quy trình tự nhiên không tồn tại một cái Ngã ( chủ thể ) nào. Nên không có cái gì gọi là linh hồn đi đào thai, hay giải thoát Linh Hồn mắc kẹt trong thể xác.
    3. KHÔNG CÓ ĐẤNG SÁNG TẠO. Hoạt động quy luật của Vũ Trụ là tự vận hành, không một ai điều khiển hay tạo ra nó. Chúng sanh vận hành theo Nghiệp mình đã tạo. Không bị chi phối bởi tạo hoá.
    4. BA ĐẶC TÍNH KHỔ - VÔ THƯỜNG – VÔ NGÃ. Đức Phật là người duy nhất tìm ra phương pháp Thiền Quán Vipassana để thấy rõ ba trạng thái của TÂM. Nhờ vậy chấm dứt được vô minh , luân hồi sanh tử.

    NHỮNG TƯ TƯỞNG BỊ LẪN LỘN VÀO ĐẠO PHẬT SAU 25 TK :
    - Thờ Phật như một vị THẦN THÁNH quyền năng cứu rỗi chúng sanh (Tha lực) về cảnh Niết Bàn. Đây là do lẫn lộn Niết Bàn - Nibana là cõi trời, cõi vĩnh hằng…và Phật là đấng TOÀN NĂNG cao cả. Do bắt chước hệ tư tưởng của Hồi Giáo và Bà La Môn Giáo.
    - LINH HỒN có tồn tại ở dạng THÂN TRUNG ẤM sau khi chết một thời gian rồi mới đào thai. Theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ thì sau Sát-na cận tử vừa diệt, sát-na kế tục liền sanh ngay sau đó, chúng sanh đó liền chuyển sang loài khác. Như nhiều người vừa chết thành Ngạ Quỷ, là một dạng chúng sanh vừa tái sanh mới. Nhưng nhiều người vẫn nghĩ là oan hồn chưa đào thai. Nên cho là tồn tại một thân giữa chừng.
    - PHẬT TÁNH có sẵn trong mọi người, do NGHIỆP che đậy nên không trong sạch nên phải luân hồi, tu tập cầu đạo giải thoát để thấy BẢN THỂ NGUYÊN SƠ. Đây là tư tưởng của Kỳ Na Giáo là Bản thể trong sạch bị mắc kẹt trong Thân xác do Nghiệp che đậy, phải giải thoát và giác ngộ cho Linh Hồn - Phật Tính . Đức Phật không hề đưa ra luận thuyết Phật Tánh trường tồn trong thân xác hay tinh thần của chúng sanh.
    - CÚNG TẾ, CẦU AN, CẦU SIÊU .Những phương pháp tế lễ trong thời Phật còn tại thế đều bị ngài bác bỏ. Nhưng sau này đạo phật lại du nhập phương thức này. Như cúng SAO là ảnh hưởng bởi Đạo LÃO ( Thập Nhị Thần Quân, Nhị Thập Bát Tú ). Cúng Hoả, Thuỷ cho chư thần thuộc Bà La Môn.
    - TÍNH KHÔNG. Kinh Kim cang nói, “Nhất thiết hiền thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt” (từ một pháp vô vi – tức Không – mà có nhiều tầng bậc hiền thánh khác nhau). Do vậy mà với Bồ tát, năm uẩn là không, ấy gọi là nội không”. Đây là ảnh hưởng của hệ tư tưởng của Đạo Lão về Thuyết Vô Vi, vạn vật trở về Đạo hư không! từ Đạo mà khởi sinh vạn pháp.
    - TỤNG CHÚ . Theo quan điểm mật tông xác quyết “tức thân thành Phật”. Cái thân ngũ uẩn nếu tách rời ngã chấp thì không khác gì thân Phật. Từ nhận định ấy, mật tông có những lối tu hành đặc. Một trong những lối tu đó là phương pháp quán mandala gọi là deity yoga (thiền quán về chư thiên), trong đó, sau khi thiền định về Tính không của tâm thức, hành giả sử dụng nền tảng Không ấy để tưởng về thân và tâm mình như những thực thể hoàn toàn trong sáng không tì vết, như chư thiên. Cái tính KHÔNG này thuộc một loại thiền địnhvô sắc giới KHÔNG VÔ BIÊN XỨ, THỨC VÔ BIÊN XỨ đã có trước thời đức Phật trong Hindu Giáo.
    - HỌC GIÁO PHÁP GOTAMA –TU THEO ÔNG PHẬT KHÁC. Dựa và một số bản kinh đề cập Phật Thích Ca dùng pháp môn chỉ tu qua ông Phật khác để giải thoát. Thật sự theo các nhà khảo cổ và nghiên cứu ngôn ngữ Sankrit thì dựa vào Văn Phạm một số bản kinh, họ xác định niên đại các kinh này được viết sau thời Phật 800 năm như : A Di Đà Kinh, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm…nhưng lại không ghi tác giả. Nên rất khó biết được tác giả thuộc hệ phái nào. Theo tạng Tipitaka đã nêu rõ trong 1 Vũ Trụ cùng thời gian không bao giờ có 2 Phật xuất hiện. và nếu đề cập Phật khác thuộc Vũ trụ khác thì loài chúng sanh trong Vũ Trụ này cũng không thể có Nhân – Duyên ( Đới nghiệp vãng sanh) qua bên kia. Nguyên tắc thành Phật có 5 điều trong đó phải là con người và là nam nhân sinh trong loài Người. Hệ tư tưởng này bị ảnh hưởng bởi tư tưởng vọng ngoại Thần Quyền thuộc Bà La Môn giáo.
    - CỔ PHẬT TÁI LAI, A LA HÁN LUÂN HỒI. Một số tư tưởng cho rằng sau khi thành Phật, các vị Phật lại quay lại thị hiện là Bồ Tát, các vị thánh phải luân hồi tu tiếp cho thành Phật. Do bị lẫn lộn giữa Hữu Dư Niết Bản và Vô Như Niết Bàn. Định nghĩa Niết Bàn ( Đức Phật đã nêu rõ Niết Bàn là một trạng thái VÔ SANH - nên không bao giờ tái lai). Tư tưởng này thuộc hệ Hindu giáo về LINH HỒN TRƯỜNG CỮU BHRAMAN. Bhraman ( hiểu lộn là Phật tính ) thường hay thị hiện thành các vị Giáo Chủ, Thần Linh, Phật, Bồ Tát.. xuống thế gian để cứu độ trở về. Nên Hindu giáo thờ phật Thích Ca như là một thị hiện của Bhraman, sau khi Thích Ca trở về Bhraman, một thời gian nữa Bhraman lại thị hiện thêm nhiều vị khác như Di Lặc.
    - LUẬN ĐỐN NGỘ HAY ẢNH HƯỞNG BỞI KỲ NA ? Một số Thiền Sư sử dụng một phương pháp PHÁ CHẤP bằng cách không cho đệ tử chấp gì trên đời bằng phương pháp Luận theo học thuyết Bất Nhị như sau :
    “ Bất sanh cũng bất diệt
    Bất thường cũng bất đoạn
    Bất nhất cũng bất dị
    Bất lai cũng bất xuất” Trung Quán Luận – Long Thọ
    Nhưng trong đoạn kinh Phạm Võng (Brahmajàla sutta) - Dìgha Nikàya chỉ ra 62 loại Tà Kiến ngoại Đạo như sau :
    “ Như vậy, vì sợ chấp thủ, vì chán ghét chấp thủ, nên vị ấy không trả lời: "Đây là thiện", cũng không trả lời: "Đây là bất thiện". Khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, vị ấy dùng lời ngụy biện trườn uốn như con lươn:
    "Tôi không nói là như vậy.
    Tôi không nói là như kia.
    Tôi không nói là khác như thế.
    Tôi không nói là không phải như thế.
    Tôi không nói là không không phải như thế".
    Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn.”
    Và một phương pháp Luận của Kỳ Na Giáo ( có trước thời Phật Gotama) cho Thiền sinh bằng phương pháp Hoặc nhiên luận (Syatvada) -Tattvartha Sutra còn gọi là Phi quyết đoán luận như sau :
    Có;
    Không;
    Vừa có vừa không;
    Không thể nói (không có không không)
    Có, không thể nói;
    Không, không thể nói;
    Vừa có, vừa không, không thể nói.
    Phán đoán khẳng định.
    Phán đoán phủ định.
    Phán đoán khẳng định kết hợp với phán đoán phủ định.
    Không thể nói ra được — không thể diễn tả được.
    Kết hợp giữa phán đoán 1 và phán đoán 4 ở trên.
    Kết hợp giữa phán đoán 2 và phán đoán 4.
    Kết hợp giữa phán đoán 3 và phán đoán 4
    (Tattvartha Sutra – Jainism – Kỳ Na Giáo)

    ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO CỦA NGƯỜI TRÍ
    Đức Phật đã từng khẳng định về phương pháp tra cứu , khảo sát lý thuyết khoa học trước khi tin vào điều gì. Trong chương trình học Tiến Sỹ của các nước Châu Âu có một môn gọi là CHỐNG NGUỴ BIỆN TRONG KHOA HỌC có những phạm trù gần giống Đức Phật đã nêu ra:
    Ðức Phật đã xác định có 10 điều không nên vội tin:
    1/ Chớ có tin vì nghe truyền thuyết.
    2/ Chớ có tin vì nghe truyền thống.
    3/ Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn.
    4/ Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng.
    5/ Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình.
    6/ Chớ có tin vì đúng theo một lập trường.
    7/ Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện.
    8/ Chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình.
    9/ Chớ có tin nơi phát xuất có uy quyền.
    10/ Chớ có tin vì bậc sa môn là đạo sư của mình.
    Đạo Phật đã được truyền Khẩu một thời gian khoảng 400 năm mà không có sách vở ghi chép cho tới lần kết tập thứ IV. Trong khoảng thời gian đó đã bắt đầu lẫn lộn nhiều hệ tư tưởng khác nhau trong nội bộ Phật Giáo. Sau đó vì sự bất đồng quan điểm đã dẫn đến chia rẽ thành nhiều bộ phái như hiện nay và nhiều Bộ Kinh khác nhau theo tư tưởng luận riêng của họ.
    Mà nên khảo sát, đối chiếu hệ tương tưởng đúng mà Đức Phật đã đưa ra và giới Luật để nhận định rõ ràng về lý thuyết tâm linh tránh trường hợp hiểu sai. ( Trước khi Phật mất, ngài đã dặn dò đệ tử hãy “Lấy Pháp - Dhamma và Luật - Vinaya Làm Thầy”). Ở đây PHÁP không phải Kinh Tạng, mà là PHƯƠNG PHÁP và TƯ TƯỞNG đúng đắng.

    MAY MẮN CHO NHỮNG AI TÌM ĐẠO
    Thời đại chúng ta là thời đại của khoa học, công nghệ thông tin, sự mở cửa của đất nước và mối liên thông về Văn Hoá, khoa học các nước được share rộng rãi. Nên chúng ta có thể đối chiếu và thu thập kiến thức rất dễ dàng so với vài mươi năm về trước. Có thể tự đi du lịch, nghiên cứu khắp thế giới một cách dễ dàng. May mắn của chúng ta đang ở trong một nước mà không có chiến tranh, bạo động, khủng bố, nên việc tu tập hành thiền, nghiên cứu khá thuận tiện.
    Hãy tự nghiên cứu, suy luận và thực hành !
    "Attadhipà attasaranà annasaranà dhamma dhipà dhamma saranà". Nghĩa là: "Tự mình hãy tìm ánh sáng, tự mình hãy nương nhờ lấy, không nên ỷ lại và nương nhờ kẻ khác". – Buddha
    Tài Liệu Tham Khảo:
    - Buddhavamsa - Đại Phật sử
    - Kinh Coran - Islam Hồi Giáo
    - Kinh Cựu Ước – Kitto giáo
    - Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ - MĐTTA
    - Kinh Vedanta - Vệ Đà – Hindu giáo
    - Kinh Syatvada – Mahavira - Kỳ Na Giáo.
    - Kinh Phạm Võng (Brahmajàla sutta) - Dìgha Nikàya

  12. #12

    Mặc định

    GIÁC NGỘ
    *****************************************
    (Giác Ngộ Là Gì? Con Đường Dẫn Đến Giác Ngộ? Ai Và Ở Đâu Có Thể Giác Ngộ? Giác Ngộ Của Đức Phật Có Gì Khác Biệt? Các Tầng Bậc Giác Ngộ? )
    *****************************************
    Như trong bài giảng trước, khi hành thiền Minh Sát viên mãn, hành giả sẽ thành đạt Giác ngộ. Vì vậy, để giúp quý vị hiểu thế nào là Giác ngộ, Sư sẽ giảng sâu thêm về đề tài này.
    Vào thời đại bây giờ, nhiều người hay nói về Giác ngộ nhưng Sư không biết là những người này có thật sự hiểu thế nào là Giác ngộ không? Danh từ "Giác Ngộ" có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo quan niệm riêng của mỗi cá nhân và tôn giáo. Sự Giác ngộ đối với một người theo Thiên Chúa giáo, Hồi Giáo hoặc Phật giáo sẽ không giống nhau. Do đó trước khi đi vào đề tài này, chúng ta cần phải hiểu nghĩa Giác Ngộ là gì trên căn bản giáo lý Nguyên Thủy.
    1. Giác Ngộ là gì?
    Dựa theo lời dạy của Ðức Phật, Giác Ngộ là sự chứng đắc được Tứ Diệu Ðế và sự diệt tận được tất cả ô nhiễm trong tâm.
    Chứng đắc được Tứ Diệu Ðế có nghĩa là phải chứng thực qua chính kinh nghiệm bản thân và trong giây phút nầy, trong tâm thức người hành giả sẽ sanh khởi Tâm Thánh Đạo (Magga citta). Ðây là một tâm sở hoàn toàn mới mẻ, chưa khi nào hành giả kinh nghiệm được trước đó. Tâm này lấy Niết bàn làm đối tượng, và cùng một lúc tẩy trừ mọi ô nhiễm tâm. Từ đó trở đi hành giả sẽ trở thành một người Giác ngộ. Giây phút Giác ngộ nầy được diễn tả trong kinh "Những câu vấn đạo của vua Milinda" (Milinda Panha). Trong kinh này, đại đức Na Tiên (Nagasena) giải thích tâm thánh đạo như sau: "Tâm của hành giả lúc bấy giờ từng chập một liên tục quan sát đối tượng là dòng thân tâm đang trôi chảy, rồi vượt lên trên, phóng đến và lao xuống vào sự chấm dứt của dòng thân và tâm đang không ngừng trôi chảy này".
    Sư giảng rõ thêm về "từng chập một quan sát đối tượng". Ở đây có nghĩa là người hành thiền Minh Sát lấy đối tượng là thân và tâm, hoặc lấy năm tập hợp căn bản (ngũ uẩn thủ) mà quan sát chúng không ngừng nghỉ. Khi thiền tập được viên mãn lúc đó tâm người hành giả lấy sự diệt tận của thân và tâm làm đối tượng. Sự diệt tận của thân và tâm này được gọi là Niết Bàn. Vào giây phút Giác ngộ, dòng tâm Minh Sát ngừng nghỉ và được thay vào bởi tâm Thánh đạo; có nghĩa là khi tâm Thánh đạo này sanh khởi thì sẽ không còn tâm Minh Sát cùng các đối tượng của tâm này. Lúc đó chỉ còn tâm Thánh đạo với đối tượng của nó là Niết Bàn. Hành giả khi thiền tập đúng đắn, sẽ chứng đắc bằng trí tuệ sự đoạn diệt của thân tâm, và được gọi là "Người Giác Ngộ", chứng nghiệm được Niết Bàn. Hành thiền đúng đắn có nghĩa là hành giả có khả năng vượt đến điểm đoạn diệt của dòng thân tâm qua trí tuệ của mình chứ không phải qua một hành thức nào khác.

    2. Giác ngộ là kết quả của việc hành thiền Minh Sát hay thiền Tứ Niệm Xứ.
    Giác Ngộ chỉ được sanh khởi theo sau việc hành thiền Minh Sát. Tâm thánh đạo nầy không được gọi là tâm quả (vipaka) mà được gọi bởi những tên khác. Trong Chú giải có ghi Giác ngộ là kết quả, là lợi lạc, là sự thành tựu mỹ mãn của Thiền Minh Sát. Nếu có học qua về Vi Diệu Pháp, ta có thể hiểu một cách rõ ràng là nếu không có Thiền Minh Sát thì sẽ không có Tâm Thánh Đạo này. Trong cuốn thứ 7 của Vi Diệu pháp có dạy rằng Tâm Thánh Đạo này sanh khởi ngay sau một tâm gọi là tâm chuyển tánh hoặc là tâm chuyển dòng, từ dòng phàm sang dòng thánh. Tâm chuyển dòng này chỉ sanh khởi sau tâm Minh Sát. Do đó nếu không có những dòng tâm Minh Sát thì sẽ không có Tâm Thánh Đạo, có nghĩa là không có Giác Ngộ.
    Thế nào là loại Giác Ngộ tức khắc mà ta thường đọc thấy trong kinh sách? Qua nhiều bài kinh, nhiều tích truyện hay Chú giải, ta thường gặp các trường hợp đạt Giác ngộ tức thời ngay sau khi nghe một bài pháp. Thí dụ sau khi Ðức Phật giảng xong bài kinh đầu tiên của Ngài là Kinh Chuyển Pháp Luân thì ngài Kiều Trần Như (Kondana) đắc thánh quả Nhập Lưu. Hoặc qua nhiều tích truyện trong "Kinh Lời Vàng" (Pháp Cú) cũng vậy, có nhiều vị chỉ cần nghe xong một bài pháp, một câu kệ mà có thể đạt quả A La Hán; điều nầy cho chúng ta cảm tưởng như có một loại Giác ngộ nhanh chóng, tức khắc. Sư cũng mong là thật sự có một loại "hoát nhiên đại ngộ" như vậy. Nhưng thật ra, mọi Giác ngộ đều phải đi theo sau một loạt các tuệ Minh Sát. Các vị trên đặc biệt có được sự phát triển thật nhanh chóng các tầng tuệ Minhh Sát nầy, do đã tích lũy rất nhiều ba la mật qua bao kiếp trong quá khứ. Nay căn cơ đã chín mùi, hội đủ điều kiện trổ quả nên chỉ cần nghe một bài pháp của Ðức Phật thì nhanh chóng Giác ngộ; chẳng khác một búp sen chỉ đợi đến tia nắng đầu tiên của mặt trời sẽ lập tức hé nở các cánh hoa.

    3. Giới đức của người đạt Giác Ngộ.
    Ngay sau giây phút tâm thánh đạo sanh khởi trong tâm hành giả, vị nầy trở thành một thánh nhân. Vị nầy sẽ luôn luôn giữ giới đức trong sạch, và tự động không bao giời phạm một trong 5 giới: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói láo và dùng chất say. Chú giải có ghi là vị thánh nhân dù có tái sanh trong các kiếp tới cũng không bao giờ phạm ngũ giới. Ngay khi còn bé có thể vị ấy chưa biết được bản chất thánh thiện của mình, nhưng đến lúc lớn lên sẽ tự hiểu rõ phẩm hạnh của mình. Và cho dù không biết đi nữa thì vị ấy cũng không bao giờ phạm ngũ giới. Trong kinh điển có cho thí dụ là nếu đưa cho một đứa bé, một con cá sống và một con cá chết, nếu kiếp trước đã từng Giác ngộ thì bao giờ đứa bé cũng tự động chọn con cá chết. Ðiều nầy cho thấy giới đức tránh sát sanh vẫn luôn luôn tiềm tàng trong đứa bé.
    Thời nay có những người tự xưng mình đã Giác ngộ. Có lần trên ti-vi có một vị cho mình là một trong 12 vị Giác ngộ trên thế giới. Thật sự cũng khó biết được điều này. Nhưng ta có thể suy nghĩ suy xét lời tuyên bố đó có đúng hay không, bằng cách căn cứ trên giới đức của người này để xem họ có thật là thánh nhân chưa. Ngoài ra, có trường hợp nhiều người hành thiền kinh nghiệm được những điều mà họ chưa bao giờ kinh nghiệm từ trước, khiến họ tin rằng mình đã đạt Giác ngộ thật sự. Nếu một người có ý nghĩ như vậy, họ phải tự xét lại xem mình có giữ trọn được năm giới không? Nếu không thì nên tự biết là mình chưa Giác ngộ.

    4. Có phải chỉ có hàng tăng sĩ mới có thể đạt Giác Ngộ?
    Sư nghĩ người đặt câu hỏi nầy không biết gì về Phật Pháp. Câu trả lời là không. Trong thời kỳ Ðức Phật, có rất nhiều kinh điển ghi lại các câu chuyện về những cư sĩ thành đạt Giác ngộ. Thí dụ như chàng thanh niên tên Yassa sau khi nghe Ðức Phật giảng bài kinh đầu tiên "Chuyển Pháp Luân" đã đạt Giác ngộ ngay sau đó, và cha của chàng cũng đạt Giác ngộ tương tự. Vua Bình Sa Vương (Bimbisara) trở thành vị nhập lưu và tiếp tục trị vì vương quốc của mình. Ông Cấp Cô Ðộc (Anathapindika) người đã xây cất và dâng cúng tăng đoàn Kỳ Viên Tự, hoặc như bàVisakka, một vị nữ cư sĩ thuần thành, như ngài Nakulapita, vị vua dòng Thích Ca Mahanama, hay ông Jivaka, vị danh y chữa bệnh cho Ðức Phật, v.v... tất cả những vị trên đều đạt Giác ngộ lúc sanh tiền và tiếp tục đời sống cư sĩ của họ cho đến lúc chết. Như vậy vấn đề Giác ngộ không phải chỉ dành riêng cho hàng xuất gia, mà bất cứ ai có quyết tâm hành Thiền Minh Sát đều có thể thành đạt.

    5. Có phải Giác Ngộ chỉ dành riêng cho nam giới?
    Ðây cũng là một câu hỏi không mấy thông minh. Câu trả lời là không. Ðức Phật có người dì, vừa là mẹ nuôi, tên là Gotami muốn được thành tỳ kheo ni và gia nhập Tăng đoàn, nhưng Ðức Phật đã nhiều lần từ chối. Tuy vậy bà vẫn không nản lòng. Một hôm, bà cùng 500 vị công chúa dòng Thích Ca đi đến gặp Ðức Phật để tiếp tục thỉnh cầu Ngài. Các vị nầy đứng chờ phía ngoài tu viện. Sau một ngày đường đi bộ, ai cũng mỏi mệt. Ngài Ananda thấy vậy mới hỏi nguyên do, rồi vào trình lại lời thỉnh cầu của họ. Sau khi Ðức Phật từ chối ba lần, ngài Ananda mới hỏi "Bạch Ðức Thế Tôn, vậy một người đàn bà sau khi xuất gia có thể đạt các tầng Giác ngộ như Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai hoặc A La Hán không?" Ðức Phật trả lời "Ðược, có thể đạt các quả vị trên khi rời bỏ cuộc sống thế tục, sống đời phẩm hạnh". Câu xác nhận trên cho ta thấy là mọi người đều có thể đạt Giác Ngộ và trong thời kỳ Ðức Phật, đã có nhiều người nữ đã trở thành bậc thánh nhân trong khi đang là cư sĩ, như bà Visakka, hoặc đang là tăng ni như các bà Gotami, công chúa Yasodara (Gia-du-đà-la, vợ của Bồ Tát Thái Tử Sidharta), Rupananda, Uppalavanna, Khema, Pantacara v.v... Lời tán thán hoan hỉ khi thành đạt Giác ngộ của các vị nầy đã được ghi lại trong bộ kinh "Trưởng Ni Kệ" (Therigatha).

    6. Một người đạt Giác ngộ có tự biết là mình đã được Giác ngộ không?
    Giác ngộ là một kinh nghiệm của bản thân. Một người phải tự trải qua kinh nghiệm đó, trạng thái đó mới biết được, cho nên khi người ấy đã đạt được thì tất nhiên họ phải biết. Ngay sau khi dòng tâm của Giác ngộ vừa chấm dứt thì sẽ có các dòng tâm khác sanh khởi tiếp đó; lúc bấy giờ vị thánh nhân sẽ duyệt lại các thánh đạo, thánh quả, những ô nhiễm trong tâm đã đoạn diệt cùng những ô nhiễm chưa đoạn diệt. Phần đông các vị thánh đạt Giác ngộ đều duyệt lại ít nhất là ba kinh nghiệm: thánh đạo, thánh quả và Niết bàn. Vấn đề ô nhiễm trong tâm đã tận diệt hoặc chưa tận diệt thì tùy vị đó, có thể họ sẽ duyệt lại hoặc sẽ không duyệt lại.
    Một người khi đạt Niết bàn mà nếu không có kiến thức, không có hiểu biết về Phật Pháp thì có thể người đó không hay biết được là mình đã được thánh quả trên. Thí dụ khi một người ghé đến thiền viện này sẽ có kinh nghiệm về nơi chốn này, nhưng người đó có thể không biết chỗ nầy có tên là Như Lai Thiền Viện. Một thánh nhân cũng vậy, có thể vị ấy không biết là mình đã đạt Giác ngộ, nhưng vị ấy chắc chắn biết là mình đã đạt được một cái gì đặc biệt.

    7. Giác Ngộ của Ðức Phật và của những đệ tử của Ngài có giống nhau không?
    Ðức Phật là người đầu tiên thành đạt Giác Ngộ và sau đó Ngài đã giảng dạy cho những người khác, và họ cũng đã thành đạt được như Ngài. Những người nầy được gọi là những Thánh đệ tử (Sawakhas). Vậy phẩm chất Giác ngộ của Ngài và của họ có khác nhau không? Câu trả lời là khác.
    Sự Giác ngộ của chư Phật thường được đi kèm thêm với những trí tuệ đặc biệt mà chỉ một vị Phật mới có được, như sự Toàn Giác và Ðại Bi Tâm. Và nếu nhìn vào mức độ tận diệt ô nhiễm, cũng có sự khác nhau. Tâm của một vị Phật hoàn toàn trong sạch, không còn tì vết. Tâm của một vị A La Hán cũng hoàn toàn trong sạch, nhưng chưa bỏ hẳn được các tì vết, còn được gọi là các tập khí cũ (Phạn Ngữ "Vasana" có nghĩa là các tiền khiên tật, đó là một năng lực có từ các ô nhiễm cũ nhưng chính nó không phải là tâm ô nhiễm). Một người tuy đã tẩy trừ được mọi ô nhiễm trong tâm, nhưng từ cách hành động bên ngoài, vẫn có thể giống như một kẻ chưa Giác ngộ, tức là vẫn còn bị ảnh hưởng của các tiền khiên tật tích lũy từ bao kiếp trước. Khi Ðức Phật đạt Giác ngộ thì Ngài đồng thời tẩy sạch hoàn toàn mọi ô nhiễm trong tâm, cũng như mọi tiền khiên tật bên ngoài, nhưng đối với các vị thánh đệ tử thì các tập khí ấy có thể vẫn chưa xóa bỏ được; ví như một bình rượu tuy đã rửa sạch bên trong nhưng bình vẫn còn lưu lại mùi rượu.

    8. Có thể có Giác ngộ ở ngoài giáo Pháp của Ðức Phật không?
    Một người không phải là Phật tử có thể đạt Giác Ngộ hay không? Trước giờ Ðức Phật nhập đại Niết bàn, có một vị ẩn sĩ tên Subhada đến gặp và hỏi Ngài: "Có những vị thầy ngoại đạo tuyên bố họ là những bậc Giác Ngộ, điều nầy có đúng như vậy hay không ?". Ðức Phật dạy Sudhada hãy tạm gác bỏ câu hỏi nầy qua một bên, Ngài cho một câu trả lời khác: "Nếu Giáo Pháp nào, gồm Giáo Lý và Giới Luật, mà không có Bát Chánh Ðạo thì sẽ không có những vị ẩn sĩ đạt tầng thánh thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư . Nhưng nếu Giáo Pháp nào có Bát Chánh Ðạo thì sẽ có các hàng ẩn sĩ đạt tầng thánh thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư".
    Ở đây, Sư giảng thêm là bất cứ tôn giáo nào có dạy thực hành Bát Chánh Ðạo, thực hành Thiền Minh Sát thì tôn giáo đó sẽ sản sinh ra những vị Giác ngộ, ngược lại tôn giáo nào không có hai yếu tố trên, thì người theo đạo sẽ không ai được Giác ngộ. Vì Thiền Minh Sát và Bát Chánh Ðạo là một. Chúng ta nên tránh nói là ngoài Phật Pháp thì không có Giác ngộ, nhưng ta phải hiểu rằng chỉ trong Phật Pháp ta mới có thể trọn vẹn thấy được Bát Chánh Ðạo mà thôi.
    Trong thời Ðức Phật tuy có rất nhiều môn phái, nhưng các môn phái nầy không đào tạo được những ẩn sĩ thực thụ đã tận diệt được mọi ô nhiễm trong tâm. Do đó, muốn trả lời gián tiếp hay trực tiếp câu hỏi nầy thì tùy cách chúng ta nói, nhưng cần phải dựa trên một sự thật căn bản: đó là chỉ có Bát Chánh Ðạo mới đưa đến Giác Ngộ mà thôi.

    9. Những tầng bậc Giác Ngộ
    Nếu nói đến sự thành đạt Tứ Diệu Ðế thì Giác Ngộ chỉ có một nhưng nếu đặt vấn đề tận diệt ô nhiễm trong tâm thì Giác Ngộ có 4 tầng.:
    Tầng Giác Ngộ thứ nhất, Nhập Lưu (Tư-đà-hoàn, sotapanna): Chỉ một người đã nhập vào dòng suối giải thoát của Thánh đạo. Vì con suối nào cũng dẫn ra biển cả, nên một vị Nhập Lưu sớm muộn gì cũng đạt Giác Ngộ. Một vị Nhập Lưu tận diệt được hai ô nhiễm: tà kiến và hoài nghi. Ðoạn trừ tà kiến là không còn tin tưởng vào cái ta hay cái ngã trường tồn, không còn mơ hồ gì về luận nghiệp báo. Ðoạn trừ hoài nghi là không còn nghi ngờ về Pháp môn đang thực hành, nghi ngờ về định luật nhân duyên. Khi hai ô nhiễm nầy đã được tận diệt thì chúng sẽ không bao giờ sanh khởi trở lại nữa. Một vị Nhập Lưu sẽ chỉ còn tái sanh bảy lần trong cõi người hay cõi trời mà thôi, chứ không tái sanh vào bốn đường ác đạo.
    Tầng Giác Ngộ thứ hai, Nhất Lai, (Tư-đà-hàm, sakadagami): Nếu vị Nhập Lưu tiếp tục hành thiền và đạt kết quả kế tiếp thì gọi là được quả vị Nhất Lai; có nghĩa là chỉ còn một lần tái sanh vào cõi người nữa mà thôi. Tuy vị nầy không tận diệt được thêm một ô nhiễm nào khác, nhưng những ô nhiễm còn lại trong tâm trở nên yếu đi. Do đó, vị nầy chỉ còn lại hai lần tái sinh vào cõi sắc giới mà thôi, tức là sau khi mãn kiếp, sẽ tái sinh vào cõi trời và sau khi mãn kiếp chư Thiên, vị nầy sẽ trở lại cõi người trong kiếp cuối cùng để đạt Giác Ngộ.
    Tầng Giác Ngộ thứ ba, Bất Lai, (A-na-hàm, anagami): Nếu vị Nhất lai tiếp tục hành thiền và đạt được kết quả kế tiếp thì gọi là được quả vị Bất Lai; có nghĩa là vị nầy sẽ không còn trở lại cõi sắc giới. Thêm hai ô nhiễm nữa là ái dục và sân hận được diệt tận, tức là không còn bị bám níu vào bất cứ đối tượng của giác quan và không còn bị chi phối bởi sự giận dữ, ganh tị hay sợ hãi, ưu phiền nữa. Vị nầy trước khi chết chắc chắn sẽ đắc nhiều tầng thiền định, sẽ thác sinh vào cõi phạm Thiên, là cõi của các bậc hoàn toàn trong sạch. Vị Bất Lai hoàn toàn gần giống như một vị A La Hán nghĩa là không còn dính mắc gì vào các đối tượng ở cõi dục giới, chỉ khác có một điểm là tâm của vị Nhất Lai còn hướng về cõi của các vị Phạm Thiên. Do đó mà khi mãn kiếp, họ sẽ sanh vào cõi Phạm Thiên.
    Tầng Giác Ngộ thứ tư, A La Hán (arahan): Nếu vị Bất Lai tiếp tục hành thiền, đạt được kết quả cuối cùng là tầng thánh giải thoát A La Hán. "A La Hán" nguyên nghĩa là bậc đáng cung kính, đã tận diệt mọi ô nhiễm còn lại trong tâm. Các ô nhiễm nầy sẽ không bao giờ trở lại dù vị nầy còn mang thân xác làm người. Như đã nói trên, các vị A La Hán vẫn còn mang dấu vết của những tiền khiên tật, tuy rằng tâm họ hoàn toàn không còn khả năng bám níu vào tất cả những gì thuộc các cõi người hay cõi Phạm Thiên. Tâm của các vị nầy trong sạch như vậy nên họ không còn tái sanh. Tham ái, bám víu là những tâm sở có khả năng tái tạo kiếp sống mới, nó làm cho chúng ta phải tái sanh. Một vị A La Hán ví như một ngọn đèn dầu, lửa sẽ lụn tắt khi dầu cạn. Thân xác vị nầy mang trong kiếp hiện tại là thân xác cuối cùng, và kiếp sống mà họ đạt được quả vị nầy sẽ là kiếp sống chót.

    Trên đây Sư đã giải thích về Giác Ngộ dựa vào lời dạy của Ðức Phật. Mục đích của chúng ta khi hành thiền là để đạt được những tầng Giác Ngộ trên khi thiền tập của chúng ta viên mãn. Ðức Phật luôn luôn dạy rằng khi một người đạt quả vị Nhập Lưu, người đó không nên tự mãn rồi đứng ở quả vị đó, mà phải tiếp tục cố gắng tu tập để đạt đến các tầng Giác Ngộ kế tiếp, như Nhất Lai, Bất Lai, và A La Hán. Chúng ta không nên chỉ tự bằng lòng với sự giữ giới mà phải tiến đến thiền tập. Rồi cũng không nên dừng lại trong hạnh phúc do thiền tập mang lại mà phải nỗ lực tiến tới đạt các thánh quả Giác ngộ qua trí tuệ.

    Mục đích Giáo Pháp của Ðức Phật là giúp chúng sinh thoát mọi khổ đau. Dù có được tái sanh vào cõi trời cao nhất là Phạm Thiên đi nữa, ta vẫn còn trong vòng luân hồi. Ðức Phật thường dạy rằng chính ta kiếp làm bậc Phạm Thiên vẫn còn bị đau khổ, là vì kiếp đó vẫn còn sinh tử. Cho nên muốn thoát hết khổ đau, chúng ta phải nghĩ đến cách thoát ra khỏi tất cả các cõi trong vòng luân hồi nầy.
    Vậy Sư chúc cho sự thiền tập của quí vị được tốt đẹp, đưa dẫn đến kết quả cao cả nhất là tầng Giác ngộ giải thoát A La Hán.
    SADHU! SADHU! SADHU!
    NLTV 24-04-1998
    Hương Vị Pháp Bảo - Thiền sư U Silananda

  13. #13

    Mặc định

    Lý tưởng Bồ Tát
    trong Giáo Lý Phật Giáo Nguyên Thủy


    Trong kinh điển Pali, hoặc trong các bài pháp, Đức Phật thường dùng hai danh từ để chỉ chính Ngài: Bồ Tát (Bodhisatta)Như Lai (Tathagata). Ngài tự gọi là Bồ Tát khi nói về giai đoạn trước khi Ngài Giác ngộ trong kiếp nầy. Và sau khi Ngài đạt Chánh quả rồi thì Ngài thường xưng là Như Lai.
    Dựa trên những danh xưng nầy, ta có thể hiểu rằng Bồ Tát là một vị có đầy đủ điều kiện đạt Giác ngộ hoặc một vị đang đi trên con đường chắc chắn dẫn đến quả vị Phật. Trong Chú giải, chữ Bồ Tát có ba nghĩa:
    1. là một người có đủ điều kiện, phẩm hạnh cần thiết để trở thành một vị Phật.
    2. là một người luôn luôn có tâm nguyện mãnh liệt muốn trở thành một vị Phật. Ý nghĩa nầy chỉ có thể giải thích được trên từ ngữ Pali vì "satta" là tâm luôn hướng về, luôn hoài bão trở thành Phật. Còn "bhodisatva" (Sanscrit) để chỉ các vị phát tâm Bồ đề và đã Giác ngộ.
    3. là một người có trí tuệ (boddhi) đạt được sự Giác ngộ các tầng thánh từ đó viên mãn được tất cả các phẩm tính của một vị Phật.
    Theo giáo lý Nguyên Thủy, có ba quả vị Giác ngộ:
    1. Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (hay Chánh Biến Tri).
    2. Đức Phật Độc Giác hay Bích Chi Phật (Pachekka), hay Đức Phật Im Lặng.
    3. Các đệ tử của Đức Phật gồm ba hạng:
    - Các đệ tử chính: Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.
    - Các đại đệ tử: Kiều Trần Như, Ca Diếp, Ananda, A Nậu Đà La (Arudhana).
    - Các thánh đệ tử đã đạt quả A La Hán.
    Trong ba quả vị Giác Ngộ kể trên, về mặt phẩm chất và khả năng của mỗi quả vị có nhiều điểm khác nhau:
    - Các vị Phật Toàn Giác đạt Giác ngộ giải thoát mà không có sự chỉ dạy của một vị thầy nào. Sau khi Giác ngộ, các Ngài trở lại giáo hóa cho chúng sanh.
    - Các vị Phật Độc Giác tự đạt Giác ngộ nhưng không có khả năng truyền lại cho chúng sanh. Họ được ví như người nằm mơ nhưng không biết cách diễn tả giấc mơ cho người khác nghe.
    - Các vị đệ tử Phật đạt Giác ngộ dưới sự hướng dẫn của một vị thầy, như Đức Phật, hay đạo sư. Họ có hoặc không có khả năng giáo hóa và giúp đỡ người khác đạt Giác ngộ.
    Do đó ta thấy có nhiều phương cách và mục đích để đạt Giác ngộ. Theo giáo lý Nguyên Thủy, Phật tử có toàn quyền chọn lựa một trong ba phương cách đạt Giác ngộ kể trên tùy theo tâm nguyện và khả năng của mình. Nhưng theo truyền thống Đại thừa thì Phật tử được chỉ dạy nên đi theo con đường tiến đến Phật quả (Bồ Tát Đạo).
    Ở đây, Sư không có kiến thức đặc biệt về giáo lý Bắc tông nên Sư chỉ trình bày những gì Sư quen thuộc trong giáo lý Nguyên Thủy.
    Sứ mạng của một vị Phật là cứu giúp chúng sanh hoặc chỉ dạy cho chúng sanh tự cứu thoát ra mọi khổ đau của vòng luân hồi sanh tử. Nhưng để được trở thành một vị Phật, một chúng sanh phải trải qua không phải là nhiều năm mà là vô số kiếp sống trầm luân trong tam giới. Do đó, nếu chúng ta khuyên một người hãy trở thành Phật có nghĩa là ta khuyên người ấy phải kiên trì chịu đựng mọi khổ đau qua muôn ức kiếp sống trong vòng luân hồi nầy. Trong kinh điển Nguyên Thủy, chưa bao giờ Đức Phật thẳng thắn khuyên một ai nên cố gắng đạt quả vị Phật, mà Ngài chỉ luôn luôn sách tấn đệ tử Ngài phải nỗ lực thành tựu thánh quả A La Hán càng sớm càng tốt.
    Mặc dù con đường đạt Thánh đạo luôn luôn được nhấn mạnh nhưng không phải vì vậy mà Phật thừa và Duyên Giác thừa không được đề cao trong giáo lý Nguyên Thủy.
    Đối với những ai có Đại Bi tâm muốn gánh chịu mọi khổ đau trong vô lượng kiếp để hoàn thành các hạnh nguyện Bồ Tát đều có thể phát Bồ Đề tâm để đi trọn con đường tiến đến Phật quả. Như vậy sự lựa chọn là hoàn toàn do tâm nguyện của chúng ta.
    Phải làm những gì để có thể trở thành một vị Phật?
    1. Trước hết phải là một vị Bồ Tát. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, muốn trở thành một vị Bồ Tát, một người phải phát những lời nguyện rất lớn và phải hội đủ những điều kiện rất cao:
    - Người ấy phát nguyện hành Bồ Tát Đạo trước mặt một vị Phật tại thế và được chính Đức Phật ấy chứng minh cho.
    Sư muốn nhắc lại chuyện tiền thân của Đức Phật Cồ Đàm (mặc dù Ngài đã nhập diệt cách đây hơn 2.500 năm nhưng ta vẫn gọi Ngài là Phật Hiện Tại vì chúng ta đang hành theo giáo pháp của Ngài).
    Trong một kiếp rất xa xôi, Ngài là đạo sĩ Sumedha, được gặp Đức Phật hiện tiền lúc bấy giờ là Phật Nhiên Đăng (Dipancara), Ngài phát tâm muốn trở thành vị Phật với lời nguyện như sau:
    "Khi ta vượt thoát đến bờ bên kia rồi, ta sẽ giúp chúng sanh vượt thoát khỏi giòng trầm luân nầy.
    Nếu ta có thể cắt đứt được giòng sanh tử, lên được thuyền Chánh pháp.
    Ta sẽgiúp cho các chúng sanh cũng được như ta".

    Những câu nầy cho chúng ta thấy Bồ Tát không thể đem chúng sanh qua bờ bên kia với Ngài được, nhưng Ngài phải đến bờ bên kia rồi mới tìm cách chỉ dạy cho chúng sanh vượt thoát được như Ngài.
    Muốn phát đại nguyện nầy và muốn được Đức Phật hiện tiền thọ ký phải hội đủ 8 điều kiện sau:
    a. Phải là một con người ở cõi nhân gian chứ không phải chúng sanh ở các cõi giới khác.
    b. Phải là người đàn ông. Nếu một người nữ muốn phát nguyện thì phải chuyển thân nam trước.
    c. Dù có khả năng đạt Thánh quả giải thoát A La Hán trong kiếp đó, vị nầy vì tâm đại bi đối với chúng sanh, cũng tự nguyện bỏ qua cơ hội đó.
    d. Phải tự thốt lời nguyện trước mặt một vị Phật hiện tiền. Nếu chỉ nguyện trước một vị Phật đã nhập diệt hoặc trước một tôn tượng thì sẽ không giá trị vì thiếu sự hứa khả của một vị Phật thật sự.
    e. Phải là một vị tỳ kheo sống đời phạm hạnh vì nếp sống cư sĩ tại gia không thích hợp với con đường Bồ Tát hạnh.
    f. Phải toàn thiện năm pháp thần thông và tám tầng thiền (bốn tầng thiền Sắc giới và bốn tầng thiền Vô Sắc giới).
    g. Phải có tâm quyết định triệt để xả ly tất cả, ngay cả thân mạng mình cho các vị Phật.
    h. Phải có ý chí vô cùng mạnh mẽ để đạt Phật quả. Nếu có ai nói rằng cõi trần thế này là một đại dương vô tận, vị ấy cũng sẵn sàng lội qua, hay là một biển than nóng đỏ mênh mông vị ấy cũng sẵn sàng bước lên để vượt đến bờ bên kia.
    2. Sau khi đã được Đức Phật hiện tiền thọ ký, vị ấy sẽ chính thức trở thành một Bồ Tát và bắt đầu hành trì cho đến mức viên mãn đầy đủ 10 Ba-la-mật. Ba-la-mật là những phẩm hạnh tuyệt hảo, tuyệt đối mà một vị Bồ Tát tự biết được do trí tuệ đặc biệt của mình.
    Mười Ba-la-mật, những phẩm tính của các hiền nhân cao cả, la:ụ bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, chân thật, quyết định, tâm Từ và tâm Xả.
    Một vị Bồ Tát phải hoàn thiện tất cả các phẩm tính nầy qua vô lượng kiếp sống và nhiều chu kỳ thế giới. Người bình thường như chúng ta cũng có thể hành các hạnh nầy dù ở mực độ khác nhau.
    - Chẳng hạn như khi bố thí cúng dường, người thường chỉ cho ra một phần nhỏ những gì mình có, trái lại Bồ Tát thì cho ra đến tận cùng ví như một hủ đầy nước được lật úp xuống, chẳng còn giọt nào bên trong.
    - Hoặc như khi trì giới, Phật tử chúng ta hay bị đứt giới vì nhiều lý do, sau đó xin giới lại. Nhưng giới đức của Bồ Tát thì không khi nào bị đứt đoạn cho dù phải bỏ đi mạng sống của mình.
    - Vị Bồ Tát lúc nào cũng hướng về sống xả ly dù đang ở vị trí quyền uy giàu có.
    - Bồ Tát lúc nào cũng hướng về sự phát triển trí tuệ cho đến mức cùng tột. Ngài không từ bỏ bất cứ một cơ hội quán sát, học hỏi nào hướng đến Giác ngộ. Vì vậy Phật tử luôn luôn được khuyến khích là phải cố gắng tra cứu Phật pháp để nâng cao trí tuệ.
    - Vị Bồ Tát không bao giờ dễ duôi, giải đãi trên đường hành đạo.
    - Đức kiên trì, nhẫn nhục của vị Bồ Tát được ví như đất, luôn luôn chịu đựng mọi thứ cấu tịnh đổ lên trên mình.
    - Vị Bồ Tát luôn luôn chân thành chính trực, không bao giờ nói dối, được ví như ngôi sao mai đầu tiên trên bầu trời, không bao giờ thay đổi vị trí của mình.
    - Tâm quyết định vững chắc của Bồ Tát được so sánh như núi đá hùng vĩ không sức mạnh nào có thể lay chuyển nổi.
    - Tâm Từ của Bồ Tát được trải rộng đến tất cả mọi người, oán thân bình đẳng. Ba-la-mật nầy được ví như nước, đối với người tốt hay xấu khi dùng nước thì nước đều đem lại sự mát mẻ cho họ như nhau.
    - Tâm Xả Ba-la-mật được ví như đất, luôn luôn thăng bằng và bình thản.
    Tất cả 10 Ba-la-mật nầy được thực hành ở ba mức độ khác nhau. Chẳng hạn như hạnh bố thí:
    - ở mức độ căn bản: Cho những gì bên ngoài thân như của cải, vợ con...
    - ở mức độ trung bình: Cho ra những gì trong thân như tay, mắt...
    - ở mức độ cùng tột: Cho luôn cả mạng sống.
    Nhân 10 Ba-la-mật trên với 3 mức độ trên sẽ có cả thảy là 30 loại Ba-la-mật. Cùng với 30 loại Ba-la-mật nầy, vị Bồ Tát phải thực hiện 5 đại xả ly (chân tay, mắt, tiền của, vương quốc, vợ con) và 3 đối tượng thực hành (vì hạnh phúc của chúng sanh, vì sự bảo vệ cho gia đình thân thuộc, và vì sự viên thành quả vị Phật).
    Tóm lại, phải hội đủ tất cả điều kiện và phẩm hạnh trên đây, vị Bồ Tát với tâm Đại Bi vô lượng và phẩm hạnh trên đây, vị Bồ Tát với tâm Đại Bi vô lượng phải trải qua vô lượng kiếp trôi lăn trong đau khổ cùng với chúng sinh để cứu giúp chúng sinh bớt đau khổ mới mong thành đạt Phật quả.
    Cần bao nhiêu thời gian để một vị Bồ Tát hành trì và hoàn tất 10 Ba-la-mật nầy?
    Các vị Phật được tiêu biểu tùy theo 3 đặc điểm, phẩm hạnh của các Ngài:
    1) Vị Phật mà trí tuệ là thù thắng
    2) Vị Phật mà đức tin là thù thắng
    3) Vị Phật mà tinh tấn là thù thắng
    Do đó, vị Bồ Tát nào mà trí tuệ là phẩm hạnh nổi bật nhất thì sẽ trở thành Trí Tuệ Phật sau 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Vị Bồ Tát có đức tin là phẩm hạnh nổi bật nhất thì sẽ trở thành Tín Tâm Phật sau 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Vị Bồ Tát có tinh tấn là phẩm hạnh nổi bật nhất thì sẽ trở thành Tinh Tấn Phật sau 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
    Chắc quí vị sẽ tự hỏi ai là người đặt ra thời gian nầy?
    Dựa vào kinh Buddhavasa nói về các Đức Phật trước Đức Phật Cồ Đàm trong đó có câu "vào 4 A-tăng-kỳ và 100 đại kiếp trước, có một đạo sĩ tên là Sumedha...", các nhà Chú giải đã nhân số đó lên 2 lần cho các vị Tín Tâm Phật và nhân số đó lên 4 lần cho các vị Tinh Tấn Phật.
    Có thể rút ngắn thời gian thành Phật quả được không?
    Thí dụ nếu một vị Bồ Tát từng giây từng phút cố gắng tinh cần phát triển 10 Ba-la-mật không ngừng nghỉ thì vị nầy có thể đạt Phật quả sớm hơn không? (giống như làm thêm giờ phụ trội để hoàn thành công việc sớm hơn hạn định). Điều nầy không thể thực hiện được vì trí tuệ chưa chín mùi và vì các yếu tố cần thiết khác cũng chưa đủ để viên thành 10 Ba-la-mật kia. Ví như khi gieo một hạt giống, ta phải đợi đúng thời gian hạt giống mới thành cây, ra hoa và kết trái. Ta không thể làm cách gì đốt giai đoạn để cây sớm trở thành quả được.
    Như vậy thời gian thực hành viên mãn 10 Ba-la-mật không thể thay đổi được. Do đó ta có thể nghĩ rằng chắc không ai muốn trở thành một vị Tinh Tấn Phật cả vì cần nhiều thời gian hơn hết. Sư xin kể về một cao tăng rất nổi tiếng ở Mandalay là thành phố mà Sư sinh trưởng. Vị nầy nổi tiếng vì học hành rất chậm lụt, trí nhớ kém cỏi, thuộc một câu kệ phải mất thời gian rất lâu. Nhưng Sư có đức tinh tấn rất mãnh liệt và nhờ cố tâm như vậy nên khi đã học, đã nhớ một điều gì, Ngài không bao giờ quên và sau đó Ngài trở thành một nhà Phật học tinh thông. Ngài viết một bộ sách Phật pháp và ở trang cuối, Ngài đã ghi lời phục nguyện là "Mong cho công đức viết bộ kinh nầy giúp tôi trở thành một vị Tinh Tấn Phật!" cho ta thấy Ngài đã hoan hỉ sẵn sàng đón nhận 16 A-tăng-kỳ để được trở thành Phật.
    Một vị Bồ Tát đã đạt Giác Ngộ chưa?
    Theo kinh điển Phật Giáo Bắc tông thì nhiều người nghĩ rằng Bồ Tát là vị đã đạt Giác ngộ nhưng chưa nhập Niết bàn vì còn nguyện cứu độ chúng sanh.
    Nhưng theo giáo lý Nguyên Thủy thì vị Bồ Tát chưa đạt thành Giác ngộ . Vị nầy hoãn lại việc thành đạt Giác ngộ chứ không phải hoãn lại việc nhập Niết bàn. Trước hết hãy xem Giác ngộ là gì?
    Theo giáo lý Nguyên Thủy, Giác ngộ là chứng nghiệm được Tứ Diệu Đế, kinh nghiệm trực tiếp Niết bàn và sự thân chứng nầy là kết quả của việc hành thiền Minh Sát. Khi tâm của hành giả quán đạt đến mức viên mãn sẽ sanh khởi một tâm thánh đạo bắt lấy Niết bàn làm đối tượng, thực chứng được Tứ Diệu Đế.
    Có 4 tầng bậc Giác ngộ: Nhập lưu (còn 7 lần tái sanh), Nhất lai (còn 2 lần tái sanh), Bất lai (không còn tái sanh làm người) và A La Hán (hết tái sanh). Cho nên dù đạt Giác ngộ ở tầng thánh nào thì thời gian còn lại cũng quá ngắn không đủ để hoàn thành các Ba-la-mật. Đọc Túc Sanh truyện kể lại các tiền thân của Đức Phật, ta sẽ thấy rất nhiều kiếp, Bồ Tát tái sanh làm kiếp thú như khỉ, nai, chó... Nếu đã vào tầng thánh cho dù là tầng thánh thứ nhất, Bồ Tát cũng không tái sanh vào 4 đường ác đạo. Do đó ta có thể nói là Bồ Tát chưa đạt Giác ngộ nhưng Bồ Tát luôn luôn là một chúng sanh phi thường, dù trong kiếp người hay súc sanh vì lúc nào cũng làm điều lợi ích cho chúng sanh, nêu lên những gương sáng. Trong kiếp nào, Bồ Tát cũng là người dẫn đầu một nhóm hay một nước, có giới đức trong sạch, luôn sống và tu hành tùy thuận với mọi chúng sanh.
    Bồ Tát có hành Thiền quán không?
    Bồ Tát giữ tâm trong sạch và huân bồi Ba-la-mật bằng hành thiền quán nhưng vị nầy ngưng ngay trước khi Giác ngộ.
    Người hành Thiền quán có thực tập 10 Ba-la-mật không?
    Ba-la-mật không phải chỉ dành riêng cho các vị Bồ Tát mà mọi người đều có thể hành trì theo khả năng, mức độ khác nhau. Hãy xét xem khi hành thiền Minh Sát, ta có thực tập được 10 Ba-la-mật nầy chăng?
    1) Bố thí: Thiền sinh đến đây đều cúng dường tài vật cho thiền viện, dâng cúng thức ăn cho các Sư và bạn tu, chấp tác, công quả...
    2) Trì giới: Mỗi ngày thiền sinh đều thọ giới và giữ giới đức trong sạch.
    3) Thoát ly: Thiền sinh phấn đấu từ bỏ cuộc sống gia đình và xã hội đến thiền viện vài ngày, vài tuần để sống đời xuất gia, giữ phạm hạnh. Xuất gia có hai nghĩa (còn gọi là ẩn cư):
    - Về thể xác: Thoát ly khỏi gia đình hay xã hội bên ngoài.
    - Về tâm linh: Cố gắng làm cho tẩy trừ các ô nhiễm ra khỏi nội tâm.
    4) Trí tuệ: Hành thiền Minh Sát là phương cách tốt nhất để phát triển trí tuệ. Do hành thiền Minh Sát ta mới thấu hiểu được sự thật về vạn vật, về thân, tâm. Sự thấu suốt ấy gọi là trí tuệ. Và chúng ta thật sự đang có trí tuệ nầy vì khi hành thiền Minh Sát, chúng ta không thể không thấy mọi vật thật sự là vô thường, khổ và vô ngã.
    5) Tinh tấn: Thiếu tinh tấn không thể thiền tập được nên khi hành thiền hành giả tích trữ rất nhiều loại Ba-la-mật nầy.
    6) Nhẫn nhục: Hành thiền Minh Sát đòi hỏi tâm kiên trì, nhẫn nhục chịu đựng với rất nhiều mặt như thời tiết, thức ăn, giờ giấc, cảm thọ khó chịu trong thân và tâm... Ngài Mahasi thường nhắc "Nhẫn nhục đưa tới Niết bàn". Thiền sinh vun bồi hạnh nầy nhiều nhất khi hành thiền.
    7) Chân thật: Trong khóa thiền, thiền sinh giữ im lặng cao quý (Noble Silence), tuyệt đối không nói chuyện, thọ 8 giới trong đó có giới không nói dối. Trong giờ trình pháp với Sư, thiền sinh trình bày một cách thành thực những gì kinh nghiệm được, không thêm bớt, không tưởng tượng.
    8) Quyết tâm: Thiền sinh phải có quyết tâm hành thiền mới hành thiền được và khi đã hành rồi quyết không từ bỏ dù gặp khó khăn hay chướng ngại.
    9) Tâm Từ: Trước khi thiền quán, thiền sinh thiền tâm Từ để rải tâm từ ái cho chính mình rồi cho tất cả các chúng sanh. Tâm Từ còn giúp cho dễ đạt định. Trong khi quán, tâm Từ cũng được áp dụng khi thiền sinh ghi nhận có những tâm sân hận đang sanh khởi.
    10) Tâm Xả: Khi có cảm giác khó chịu hay đau đớn trong thân hay tâm, thiền sinh chú niệm vào nó, không để cảm giác nầy quấy rầy mình thì lúc đó thiền sinh đang trau giồi tâm Xả. Chỉ ghi nhận cảm giác mà không dính mắc vào. Do tâm Xả nầy mà dần dần giúp thiền sinh thấy được đặc tính vô ngã của sự vật.
    Tóm lại hành thiền Minh Sát là một hình thức vun bồi đủ 10 Ba-la-mật hữu hiệu và tốt đẹp nhất. Do đó, Bồ Tát cũng hành thiền nhưng không đi đến chỗ rốt ráo mà ngừng ngay khi sắp Giác ngộ.
    Tại sao một người lại muốn trở thành một vị Phật?
    Một vị Bồ Tát nhìn lại chúng sanh thấy thật rõ ràng chúng sanh đang đắm chìm trong khổ đau, đè nén bởi sanh, già, đau, chết và tham ưu ở đời. Ngài muốn cứu vớt chúng sanh và Ngài biết muốn làm được điều đó Ngài phải trở thành một vị Phật. Đó là lý do duy nhất để một người phát nguyện thành Phật.
    Một vị Phật có cứu được tất cả chúng sanh không?
    Cứu độ chúng sanh là lời nguyện của một vị Bồ Tát nhưng thật sự không có vị Phật nào có thể cứu độ chúng sanh được. Trước hết phải hiểu cứu độ có nghĩa như thế nào? Theo Phật giáo thì không có một người nào có thể cứu một người nào ra khỏi vòng luân hồi được, có nghĩa là không thể ban cho ai sự Giác ngộ của mình. Đức Phật chỉ có thể giúp chúng sanh phương cách để tự cứu lấy mình. Chúng ta không nên nghĩ rằng sẽ được cứu độ chỉ vì chúng ta có lòng tin vào Đức Phật. Chính Ngài đã dạy rõ ràng là ta phải tinh tấn nỗ lực thực hành để đạt Giác ngộ cho chính mình. Vậy cứu độ theo đạo Phật có nghĩa là ban cho lời chỉ dạy. Tất cả sự cứu giúp khác chỉ là những trợ duyên mà thôi.
    Người theo giáo lý Nguyên Thủy có ai nguyện trở thành Phật không?
    Nhiều người không có hiểu biết đúng đắn tường nói là hành theo giáo lý Nguyên Thủy chỉ đạt đến thánh quả A La Hán mà thôi. Nếu nói rằng giáo lý Nguyên Thủy không tin cũng không muốn thành Phật là điều không xác đáng. Việc muốn trở thành Phật, Bích Chi Phật hay A La Hán là hoàn toàn do tâm nguyện của từng người.
    Sau đây Sư sẽ cho quý vị bảng danh sách 10 vị người Miến Điện đã có lời nguyện sẽ trở thành một vị Phật. Sư có bằng chứng cụ thể là ngoài mười vị nầy còn có rất nhiều người khác có lời nguyện giống như vậy. Nhìn vào danh sách nầy quý vị sẽ thấy tên người thứ bảy là Đại Lão Thiền Sư Tuangpulu Sayadaw có tu viện ở Santa Cruz. Ngài có rất nhiều đệ tử người Miến và người Mỹ và ai cũng nghĩ rằng Ngài đã đạt được thánh quả A La Hán. Nhưng sự thực không phải vậy, vì Ngài từng nói rõ là Ngài đã phát nguyện thành Phật. Nay Ngài đã mất và đây là thí dụ điển hình gần với các thiền sinh đây nhất.
    Tên vị thứ tám trong danh là quốc vương Miến Điện vào thời Pagan. Vị vua nầy đã xây một ngôi chùa rất vĩ đại hiện vẫn còn nguyên một bảng ghi khắc 100 câu kệ Pali rất hay trong đó có câu cuối cùng là "Do phước báu cúng dường chùa nầy tôi xin nguyện được trở thành Phật để cứu độ chúng sanh".
    Tên vị thứ chín và thứ mười trong danh sách là hai vị vua, một Miến Điện, một Thái Lan đều có công với Phật Pháp. Trên đây là những thí dụ tiêu biểu cho ta thấy những nước theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng có nhiều vị Sư đã phát nguyện thành Phật. Và trong đạo Phật, lời mong cầu nào cũng phải kèm theo với việc làm hay thực hành.
    Tóm lại, Bồ Tát là một bậc phi thường với lòng từ bi to lớn, tâm lượng cao cả và hạnh nguyện rất đáng kính phục. Các Ngài đã làm những việc mà không một người thường nào có thể làm được. Tất cả các Phật tử Phật Giáo Nguyên Thủy cũng rất trọng ngưỡng các Bồ Tát, tuy nhiên không đặt các Ngài ngang hàng với Đức Phật, vì như trên đã nói các Ngài chưa giải thoát và chưa Giác ngộ.
    Khi giảng dạy về đề tài nầy Sư chỉ có ý muốn trình bày cho quý vị một số tư liệu và thông tin đúng đắn, chính xác về Bồ Tát hạnh dựa trên kinh điển của Phật Giáo Nguyên Thủy. Sư không có ý đem ra bàn cãi hay tranh luận với bất cứ ai. Sư nghĩ đây là một đề tài rất cần thiết cho những ai muốn tìm hiểu các điều kiện và cách thực hành để trở thành một vị Phật.
    Điểm quan trọng ở đây không phải để bàn cãi hay so sánh mà là để nhìn trở lại chính mình xem có phát triển các hạnh lành và giảm thiểu các điều bất thiện hay không. Và cuối cùng thì phương pháp duy nhất để làm điều nầy vẫn là sự cố gắng trau dồi việc hành thiền Minh Sát.
    SADHU! SADHU! SADHU!

    HƯƠNG VỊ PHÁP BẢO
    Thiền sư U Silananda

  14. #14

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi mr.le Xem Bài Gởi
    đồng ý là tùy duyên, nhưng ít nhất phải có người gieo duyên chứ bạn.
    Lần đầu tiên tôi được biết tới Phật pháp là do có một người bạn tặng tôi cuốn " Niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư" đọc thấy hay và tôi đã mua tặng rất nhiều ngươi. kế đó là in các cuốn kinh Phật, rồi cuốn " Công đức phóng sinh", sau đó tôi được tặng 1 cuốn thơ về Đức Phật của Thầy Thái Bá Tân, sau đó tôi đã in được 5000 cuốn tặng mọi người, năm vừa rồi tôi cũng in 5000 tờ lịch về 14 điều răn của Phật, tôi hy vọng rằng sẽ có một số người khi khi được tặng các kinh sách trên sẽ tiếp nhận và hiểu hơn về đạo Phật.
    ở kiếp này tôi biết đến Phật Pháp hơi muộn, hy vọng rằng ở kiếp sau tôi sẽ có nhân duyên với đạo Phật sớm hơn. biết đâu chính những quyển sách tôi in ở kiếp này sẽ đưa đến nhân duyên với Phật Pháp ở kiếp sau của tôi thì sao? vì vậy Tôi sẽ có gắng thật nhiều để có thể gieo duyên cho mọi người trong kiếp này và có thể cả là chính tôi trong kiếp sau.
    Mr. Lê muốn thực hiện thiện pháp là ấn tống Pháp bảo thì có thể liên hệ người này:
    https://www.facebook.com/lam.vudinh.7
    Thành viên TT nghiên cứu Phật giáo VN - Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
    Người đang triển khai công trình ấn tống Tam tang Việt Ngữ.

    "Hãy lấy Giới Luật làm thầy".
    Năm 2014, tạng Luật lần đầu tiên đã được dịch trọn bộ hoàn chỉnh từ tiếng Pali (bản Lá Bối tại Sri Lanka) sang tiếng Việt bởi công trình Tam tang Việt ngữ. Đây là tin mừng với các Phật tử Việt Nam.
    Hiện Tạng Luật gồm 9 cuốn đã được ấn tống 3.800 bộ kính dâng chư Tôn đức không phân biệt tông phái đang tu tập trong Giáo Hội PGVN. Mục tiêu của Công trình ấn tống là con số 15.000 bộ tới gần 15.000 ngôi chùa được thống kê tại Việt Nam nên vẫn cần đại chúng cùng nhau hoàn thành.
    Đại thiện sự này đã được các bậc trưởng lão trong GHPGVN hoan hỉ tán thán. Ngài Đệ Tam Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ nói: "Công trình này đang góp phần đưa Tăng chúng quay trở lại đời sống tu tập", HT Thích Trí Quảng, viện trưởng Viện NCPHVN: "Công trình này mang tính giáo dục Phật giáo rất cao". HT Bảo Nghiêm, Trưởng ban hoằng Pháp GHPGVN: "Bố thí Pháp Bảo đem lại phước báu thù thắng nhất". TT Thích Đức Thiện, Tổng TK GHPGVN: "Giáo hội luôn ủng hộ cho công trình được phát triển"....

    Trong năm 2017 này, tạng Vi Diệu Pháp cũng sẽ được dịch và hiệu đính xong, đi vào ấn tống.

    Sadhu Sadhu..

  15. #15

    Mặc định KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI

    KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI
    Để giữ gìn duy trì pháp học Phật giáo cho được đầy đủ, không để rời rạc, không cho thất lạc; cho nên, chư Đại Trưởng Lão kết tập Tam Tạng và Chú giải bằng tiếng Pāḷi.


    *KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NHẤT
    Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần thứ nhất, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn được 3 tháng 4 ngày (nhằm vào ngày mùng 4 tháng 7 âm lịch, trong mùa an cư nhập hạ) tại động Sattapaṇṇi gần thành Rājagaha xứ Māgaddha.
    Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải này gồm có 500 vị Thánh Arahán có đầy đủ trí tuệ phân tích, lục thông... đặc biệt thông thuộc Tam Tạng và Chú giải Pāḷi, Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa chủ trì Đại hội, chất vấn Ngài Đại đức Upāli về Tạng Luật và chất vấn Ngài Đại đức Ānanda về Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp. Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải được thực hiện suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam Tạng và Chú giải.
    Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần này bằng cách truyền khẩu (mukhapāṭha) chưa ghi chép bằng chữ viết.
    Đức vua Ajātasattu xứ Māgaddha là người hộ độ chư Thánh Arahán trong kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi này.
    *Phân chia phận sự duy trì Tam Tạng, Ngũ Bộ:
    Sau khi kết tập Tam Tạng và Chú giải xong, chư Thánh Arahán phân công mỗi vị có bổn phận giữ gìn duy trì Tam Tạng và Chú giải như sau:
    - Về Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Đại đức Upāli. Ngài có trách nhiệm dạy Tạng Luật và Chú giải đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tạng Luật này.
    Khi Đức Phật còn tại thế, Đức Phật đã từng tuyên dương Ngài Đại đức Upāli là bậc Thánh Thanh Văn xuất sắc nhất về trì luật trong các hàng Thanh Văn đệ tử.
    - Về Trường Bộ Kinh (Dīghanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Đại đức Ānanda. Ngài có trách nhiệm dạy Trường Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Trường Bộ Kinh này.
    - Về Trung Bộ Kinh (Majjhimanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của nhóm đệ tử của Ngài Đại đức Sāriputta, các vị này có trách nhiệm dạy Trung Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Trung Bộ Kinh này.
    - Về Đồng Loại Bộ Kinh (Samyuttanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa. Ngài có trách nhiệm dạy Đồng Loại Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Đồng Loại Bộ Kinh này.
    - Về Tiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāyapāḷi), thuộc về phận sự chung của 500 chư Thánh Arahán. Quý Ngài có trách nhiệm dạy Tiểu Bộ Kinh đến các nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tiểu Bộ Kinh này.
    - Về Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakapāḷi), gồm có 7 bộ lớn thuộc phận sự chung của 500 chư Thánh Arahán. Quý Ngài có trách nhiệm dạy Tạng Vi Diệu Pháp đến các nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tạng Vi Diệu Pháp này.

    *KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NHÌ
    Giáo pháp của Đức Phật được giữ gìn duy trì đúng theo Chánh Pháp trải qua được 100 năm, thì có nhóm Tỳ khưu Vajjīputta xứ Vesāli đặt ra 10 điều không hợp với pháp luật của Đức Phật là:
    1 - Kappati siṅgiloṇakappo: Tỳ khưu cất giữ muối trong ống bằng sừng với tác ý rằng: để làm đồ gia vị thức ăn ngày hôm sau, cũng được.
    2 - Kappati dvaṅgulakappo: Tỳ khưu thọ thực quá ngọ, mặt trời ngả qua hai lóng tay, cũng được.
    3 - Kappati gāmantarakappo: Tỳ khưu đã ngăn cản vật thực rồi tự nghĩ rằng: bây giờ ta đi vào xóm để dùng vật thực nữa, mà không cần làm đúng theo Luật, cũng được.
    4 - Kappati āvasakappa: Trong cùng Mahāsīmā, có nhiều nhóm riêng rẽ hành uposathakamma, cũng được.
    5 - Kappati anumatikappa: Chư Tăng trong nhóm hành tăng sự nghĩ rằng: Sẽ cho phép Tỳ khưu đến sau, cũng được.
    6 - Kappati ācinnakappa: Tỳ khưu hành theo pháp mà Thầy Tổ của mình thường thực hành, cũng được.
    7 - Kappati amathitakappa: Tỳ khưu đã ngăn cản vật thực rồi, dùng sữa tươi đã biến chất, chưa biến thành sữa chua, cũng được.
    8 - Kappati jaḷogiṃ pātuṃ: Tỳ khưu uống rượu nhẹ chưa thành chất say, cũng được.
    9 - Kappati adasakaṃ nisīdanaṃ: Tỳ khưu dùng tọa cụ không có đường lai, cũng được.
    10 - Kappati jātarūparajataṃ: Tỳ khưu thọ nhận vàng bạc, cũng được.
    Đó là 10 điều do nhóm Tỳ khưu Vajjīputta đề xướng không đúng theo Chánh Pháp của Đức Phật.
    Đại Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta (Mahā Yassa), nghe tin nhóm Tỳ khưu Vajji xứ Vesāli đặt ra 10 điều như vậy, Ngài liền đến tận nơi hội họp chư Tỳ khưu Tăng giải thích để cho họ hiểu rõ, đó là 10 điều sai trái, không hợp với luật pháp của Đức Phật.
    Đây cũng là nguyên nhân khiến Đại Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta triệu tập kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì tại ngôi chùa Vālikārama, gần thành Vesāli khoảng 100 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
    Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì này gồm có 700 bậc Thánh Arahán có đầy đủ Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, thông thuộc Tam Tạng, Chú giải... do Ngài Đại Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta làm chủ trì, Ngài Đại Trưởng Lão Revata vấn, Ngài Đại Trưởng Lão Sabbakāmi giải đáp... Công cuộc kết tập được thực hiện trong suốt thời gian 8 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam Tạng và Chú giải, hoàn toàn y theo bổn chánh của kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhất.
    Kỳ kết tập Tam Tạng lần này cũng bằng khẩu truyền (mukhapātha) chưa ghi chép bằng chữ viết.
    Đức vua Kālāsoka xứ Vesāli hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này.
    Giáo pháp của Đức Phật một lần nữa được giữ gìn duy trì đúng theo chánh pháp. Tất cả chư Tỳ khưu thực hành nghiêm chỉnh giới luật, làm cho những người chưa có đức tin nơi Tam Bảo, lại phát sinh đức tin, những người nào đã có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo rồi, đức tin càng tăng trưởng.

    *KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ BA
    Sau kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì, Phật giáo càng ngày càng phát triển, chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni càng đông, cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo càng nhiều, họ làm phước hộ độ cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu rất đầy đủ, nhất là vào thời kỳ Đức vua Dhammāsoka (Asoka). Đức vua là Bậc Minh Quân, trị vì toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, có đức tin trong sạch trong Phật giáo, hộ độ cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu rất đầy đủ, sung túc. Ngược lại, các nhóm tu sĩ ngoại đạo thì đời sống thiếu thốn khổ cực. Do đó, một số tu sĩ ngoại đạo xâm nhập vào sống chung với chư Tỳ khưu, về mặt hình thức thì giống Tỳ khưu, nhưng về mặt nội tâm vẫn giữ nguyên tà kiến cố hữu của mình không hề thay đổi.
    Vì vậy, Tỳ khưu thật chánh kiến và Tỳ khưu giả tà kiến sống chung không thể hành tăng sự được, tình trạng này kéo dài suốt 7 năm. Chư Tỳ khưu trình sự việc này lên Đức vua Dhammāsoka (Asoka) và nhờ uy quyền của Đức vua để thanh lọc Tỳ khưu giả ngoại đạo tà kiến.
    Đức vua Asoka là Đấng Minh Quân và cũng là một cận sự nam có đức tin trong sạch hộ trì Tam Bảo, Đức vua học giáo pháp của Đức Phật với Ngài Đại Trưởng Lão Moggaliputtatissa, nên hiểu rõ chánh kiến trong Phật giáo và các tà kiến của ngoại đạo. Đức vua thỉnh chư Tỳ khưu xét hỏi từng vị một, qua cuộc xét hỏi này đã loại bỏ ra được 60.000 Tỳ khưu giả có tà kiến ngoại đạo, Đức vua ban cho mỗi người một bộ đồ trắng, bắt buộc hoàn tục, trở thành người cư sĩ; còn lại tất cả Tỳ khưu thật có chánh kiến trong Phật giáo đoàn kết cùng nhau hành tăng sự trở lại.
    Nhân dịp này, Ngài Đại Trưởng Lão Moggaliputtatissa đã đứng ra triệu tập kỳ kết tập Tam Tạng Pāḷi lần thứ ba.
    Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ ba này được tổ chức tại chùa Asokārāma xứ Pāṭaliputta, khoảng thời gian 235 năm, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
    Kỳ tập Tam Tạng lần thứ ba này, gồm có 1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, thông thuộc Tam Tạng, Chú giải... do Ngài Đại Trưởng Lão Moggaliputtatissa làm chủ trì, công cuộc kết tập được thực hiện trong suốt thời gian 9 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam Tạng và Chú giải hoàn toàn giống như bổn chánh của hai kỳ kết tập trước.
    Kỳ kết tập Tam Tạng lần này cũng bằng khẩu truyền (Mukhapātha, chưa ghi chép bằng chữ viết).
    Đức vua Asoka xứ Pāṭaliputta hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này.

    *KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ TƯ
    Đức vua Asoka không những hộ trì Phật giáo được phát triển trong nước, mà còn gửi các phái đoàn chư Tăng sang các nước láng giềng khác, để truyền bá Phật giáo, như phái đoàn chư Tăng do Đại đức Mahinda dẫn đầu sang truyền bá Phật giáo ở đảo quốc Srilankā.
    Trên đất nước Sri Lankā Phật giáo được thịnh hành và phát triển tốt, từ Đức vua cho đến quan quân và dân chúng đều có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, đã xuất gia trở thành Tỳ khưu và Tỳ khưu ni rất đông.
    Một thời đất nước Sri Lankā gặp phải cuộc phiến loạn, dân chúng gặp cảnh thiếu thốn, nên đời sống của chư Tỳ khưu cũng chịu ảnh hưởng. Có số Tỳ khưu sức khỏe yếu kém, nên phận sự ôn lại Tam Tạng và Chú giải thuộc lòng rất vất vả. Khi cuộc phiến loạn đã dẹp xong, chư Đại đức suy xét về sau này, trí nhớ và trí tuệ con người càng ngày càng kém dần. Cho nên, chư Tỳ khưu học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải, để giữ gìn duy trì cho được đầy đủ không phải là việc dễ dàng.
    Một hôm, Đức vua Vaṭṭagāmanī ngự đến chùa Mahāvihāra; nhân dịp ấy, chư Đại Trưởng Lão thưa với Đức vua rằng:
    - Thưa Đại vương, từ xưa đến nay, chư Đại đức Tăng có phận sự học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải, để giữ gìn duy trì giáo pháp của Đức Phật. Trong tương lai, đàn hậu sinh là những Đại đức khó mà học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải một cách đầy đủ được. Như vậy, giáo pháp của Đức Thế Tôn sẽ bị mai một mau chóng theo thời gian.
    - Thưa Đại vương, muốn giữ gìn duy trì Tam Tạng, Chú giải được đầy đủ, vậy nên tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng, Chú giải ghi chép bằng chữ viết trên lá buông, để lưu lại cho đời sau.
    Đức vua Vaṭṭagāmanī hoan hỷ với lời của chư Đại Trưởng Lão.
    Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ tư này được tổ chức tại động Ālokalena vùng Matulajanapada xứ Sri Lankā, khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
    Kỳ kết tâp Tam Tạng lần này gồm 1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân Tích, do Ngài Đại Trưởng Lão Mahādhammarakkhita làm chủ trì, công cuộc kết tập được thực hiện suốt một năm mới hoàn tất việc ghi chép trọn bộ Tam Tạng, Chú giải bằng chữ viết trên lá buông. Sau đó, chư bậc Thánh Arahán kết tập Tam Tạng bằng cách khẩu truyền một lần nữa, hoàn toàn y theo bản chánh của ba kỳ kết tập Tam Tạng lần trước.
    Kỳ kết tập Tam Tạng lần này là lần đầu tiên ghi chép bằng chữ viết trên lá buông đầy đủ bộ Tam Tạng và Chú giải, gọi là: “Potthakaropanasaṅgiti”.
    Đức vua Vaṭṭagāmanī Abhaya xứ Srilankā hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này.

    *KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NĂM
    Dưới thời vua Asoka có gửi phái đoàn chư Tăng do Ngài Đại Trưởng Lão Soṇa và Ngài Đại Trưởng Uttara sang vùng Suvaṇṇa bhūmi gồm các nước: Indonesia, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào... để truyền bá Phật giáo. Phật giáo ở các nước trong vùng này trải qua bao cuộc thăng trầm, tùy theo vận mệnh của mỗi nước.
    Đất nước Myanmar vào thời đại Vua Mindon đóng đô tại kinh thành Mandalay, Đức vua là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, nhiệt tâm hộ trì Tam Bảo, nghĩ rằng: “Phât giáo thường liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, mỗi khi đất nước bị xâm lăng, kẻ thù thường đốt kinh sách Phật giáo”.
    Đức vua muốn bảo tồn giáo pháp của Đức Phật, nên Người thỉnh chư Đại Trưởng Lão tổ chức cuộc kết tập Tam Tạng, khắc chữ trên những tấm bia đá, để giữ gìn duy trì Tam Tạng Pháp Bảo được lâu dài.
    Chư Đại Trưởng Lão vô cùng hoan hỷ chấp thuận theo lời thỉnh cầu của Đức vua, tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ năm tại kinh thành Mandalay xứ Myanmar Phật lịch 2.404.
    Kỳ kết tập Tam Tạng lần này gồm 2.400 vị Đại đức là những bậc uyên bác Tam Tạng và Chú giải, do Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Jāgara làm chủ trì; ngoài ra còn có những vị Đại đức rất xuất sắc như Ngài Bhaddanta Narindabhidhaja,... bắt đầu khởi công khắc Tam Tạng trên bia đá vào Phật lịch năm 2.404 cho đến Phật lịch 2.415, trải qua suốt 11 năm ròng rã, mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng trên 729 tấm bia đá:
    - Tạng Luật gồm có 111 tấm.
    - Tạng Kinh gồm có 410 tấm.
    - Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 208 tấm.
    Sau khi khắc bộ Tam Tạng bằng chữ trên những tấm bia đá xong, chư Đại Trưởng Lão tổ chức cuộc kết tập Tam Tạng bằng khẩu truyền suốt 6 tháng mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng y theo bổn chánh của bốn kỳ kết tập Tam Tạng trước. Gọi là: “Selakkharāropanasaṅgīti”.
    Kỳ kết tập Tam Tạng này do Đức vua Mindon xứ Myanmar hộ độ.
    Lần đầu tiên toàn bộ Tam Tạng được ghi khắc trên bia đá, những tấm bia đá này hiên nay vẫn còn nguyên vẹn ở kinh thành cổ Mandalay xứ Myanmar . Các nhà in kinh sách Phật giáo đều y cứ vào những tấm bia đá này làm nền tảng căn bản.
    Về sau có Đạo sĩ Khanti đứng ra tổ chức khắc toàn bộ Chú giải trên những tấm bia đá, hiện nay vẫn còn nguyên vẹn tại Mandalay .

    *KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ SÁU
    Phật giáo đã trải qua thời gian khá lâu, Tam Tạng, Chú giải, Ṭīkā... đã in ra thành sách, việc sao đi chép lại, in đi in lại nhiều lần, khó mà tránh khỏi sự sai sót. Do đó, các bộ Tam Tạng, Chú giải... của mỗi nước có chỗ sai chữ dẫn đến sai nghĩa, làm cho pháp học Phật giáo không hoàn toàn giống y nguyên bản chính.
    Chính phủ Myanmar thành lập hội Phật giáo có tên “Buddhasāsanasamiti” vào năm Phật lịch 2.497 để lo tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ sáu, tại động nhân tạo Lokasāma (Kaba Aye) thủ đô Yangon , Myanmar. Chính phủ thỉnh tất cả mọi bộ Tam Tạng, Chú giải hiện có trên các nước Phật giáo, để làm tài liệu đối chiếu từng chữ, từng câu của mỗi bổn.
    Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ sáu này gồm 2.500 vị Đại đức thông hiểu Tam Tạng, Chú giải... rành rẽ về ngữ pháp Pāḷi, chia thành nhiều ban đối chiếu sửa chữa lại cho đúng. Công việc được thực hiện bắt đầu từ ngày rằm tháng tư Phật lịch năm 2.498 cho đến ngày rằm tháng tư Phật lịch năm 2.500, ròng rã suốt 2 năm mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng, Chú giải, Ṭīkā....
    Sau đó, chính phủ Myanmar thỉnh chư Đại đức kết tập Tam Tạng bằng khẩu, do Đại Trưởng Lão Revata chủ trì, Đại Trưởng Lão Sobhana vấn, Đại Trưởng Lão Vicittasā-rābhivaṃsa thông thuộc Tam Tạng trả lời theo Tam Tạng, Chú giải.
    Trong buổi lễ này Chính phủ Myanmar, đứng đầu là Thủ tướng U Nu, tổ chức khánh thành kết tập Tam Tạng rất long trọng, có mời nguyên thủ Quốc gia của các nước Phật giáo cùng phái đoàn chư Tăng, cân sự nam, cận sự nữ gồm có 25 nước trên thế giới đến tham dự, để đánh dấu lịch sử Phật giáo đã trải qua một nửa tuổi thọ 2.500 năm, dưới sự bảo trợ hộ độ của Chính phủ Myanmar cùng Phật tử trong nước và các nước khác trên thế giới.
    Bộ Tam Tạng, Chú giải được kết tập lần thứ sáu này được xem là mẫu mực cho các nước Phật giáo hệ phái Theravāda.
    Để Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này chừng nào, thì chúng sinh được hưởng sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc chừng ấy. Cho nên, chư Đại Trưởng Lão tiền bối đã dày công gìn giữ và duy trì pháp học Phật giáo từ thời kỳ Đức Phật còn tại thế, và sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn. Tất cả quý Ngài có phận sự bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo, nên đã tổ chức qua 6 kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi, không để cho rời rạc, thất lạc. Chư Đại Trưởng Lão đã cố gắng giữ gìn duy trì từ trước cho đến nay.
    Công việc học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi để bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo là bổn phận của mọi người Phật tử, là bậc xuất gia cũng như các hàng tại gia cư sĩ. Chữ Pāḷi là ngôn ngữ của Chư Phật, đối với chúng ta học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi cần phải hiểu rõ ý nghĩa trực tiếp hoặc gián tiếp qua ngôn ngữ riêng của mình.
    Tại nước Myanmar , công việc học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi được phổ cập đến chư Sadi, chư Tỳ-khưu. Hằng năm, bộ Tôn giáo Myanmar có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng bằng tiếng Pāḷi, và thi viết trả lời những câu hỏi về Tam Tạng và Chú giải Pāḷi.


    *Thi thuộc lòng Tam Tạng
    Phật lịch năm 2.492 (Dương lịch năm 1948), bộ Tôn giáo Myanmar bắt đầu tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng Pāḷi lần thứ nhất. Từ đó về sau, hằng năm, có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng Pāḷi. Khi Đại đức thí sinh thi đậu phần học thuộc lòng xong, tiếp tục thi phần viết trả lời những câu hỏi về Tam Tạng và Chú giải Pāḷi. Đến nay, Phật lịch năm 2.561 (Dương lịch năm 2017) đã trải qua 69 kỳ thi.
    Căn cứ theo số liệu tổng kết chư Đại đức thí sinh đã thi đậu qua 69 kỳ thi như sau:
    I. Những vị Đại đức đậu đọc thuộc lòng và thi viết
    Tam Tạng trọn bộ: 14 vị
    Nhị Tạng rưỡi: 4 vị
    Nhị Tạng: 5 vị
    Nhất Tạng: 101 vị
    Nhất Tạng và một phần Tạng Kinh: 1 vị
    Nhất Tạng, Đồng Loại và Trung Bộ Kinh: 1 vị
    Nhất Tạng và Trung Bộ Kinh: 2 vị
    Đồng Loại Bộ Kinh và Chi Bộ Kinh: 1 vị
    Chi Bộ Kinh: 3 vị
    Đồng Loại Bộ Kinh: 2 vị
    Trung Bộ Kinh: 3 vị
    Tạng Luật phần đầu: 234 vị
    b. Những vị Đại đức đậu đọc thuộc lòng
    Tam Tạng trọn bộ: 5 vị
    Nhị Tạng rưỡi: 8 vị
    Nhị Tạng: 38 vị
    Nhất Tạng: 301 vị
    Nhất Tạng và Trung Bộ Kinh: 1 vị
    Trung Bộ Kinh: 1 vị
    Đồng Loại Bộ Kinh: 1 vị
    Chi Bộ Kinh: 1 vị
    Tạng Luật phần đầu: 298 vị
    Chư Đại Trưởng Lão thông thuộc thấu suốt Tam Tạng
    1 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vicittasārābhivaṃsa Visiṭṭhapiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 6, Phật lịch 2.497 (DL.1953) lúc Ngài 42 tuổi.
    2 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Neminda Visiṭṭhapiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 12, Phật lịch 2.503 (DL.1959) lúc Ngài 32 tuổi.
    3 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Kosalla Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 16, Phật lịch 2.507 (DL.1963) lúc Ngài 36 tuổi.
    4 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sumaṅgālaṅkāra Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 26, Phật lịch 2.517 (DL.1973) lúc Ngài 27 tuổi.
    5 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sirindābhivaṃsa Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 37, Phật lịch 2.528 (DL.1984) lúc Ngài 37 tuổi.
    6 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 48, Phật lịch 2.539 (DL.1995) lúc Ngài 39 tuổi.
    7 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sīlakkhandhābhivaṃsa Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 52, Phật lịch 2.543 (DL.1999) lúc Ngài 34 tuổi.
    8 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vaṃsapālālaṅkāra Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 52, Phật lịch 2.543 (DL.1999) lúc Ngài 34 tuổi.
    9 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Gandhamālālaṅkāra Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 53 Phật lịch 2.544 (DL.2000) lúc Ngài 33 tuổi.
    10 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sundara Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 53 Phật lịch 2.544 (DL.2000) lúc Ngài 45 tuổi.
    11 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Indapāla Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 53, Phật lịch 2.544 (DL. 2000) lúc Ngài 40 tuổi.
    12 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Abhijātābhivaṃsa Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 64, Phật lịch 2.555 (DL. 2011) lúc Ngài 40 tuổi.
    13 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Indācariya Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida đậu kỳ thi thứ 65, Phật lịch 2.556 (DL. 2012) lúc Ngài 48 tuổi.
    14 - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddhanta Vīriyānanda Tipiṭakabhara - Tipiṭakakovida, đậu kỳ thi thứ 69, Phật lịch 2.561 (DL. 2017) lúc Ngài 47 tuổi và trở thành Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ XIV Bhaddhanta Vīriyānanda Sayadaw
    Trên đây là danh sách những vị Đại Trưởng Lão thi đậu Tipiṭakadhara - Tipiṭakakovida đã thông thuộc thấu suốt đầy đủ bộ Tam Tạng: “Tạng Luật, Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu Pháp” gồm có 84.000 pháp môn mà Đức Phật đã thuyết giảng, chế định suốt 45 năm ròng rã, kể từ khi thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến phút cuối cùng tịch diệt Niết Bàn. Những vị Đại Trưởng Lão này không chỉ thông thuộc Tam Tạng (Tipiṭakadhara) gồm có 40 quyển, mà còn thông suốt đầy đủ các bộ Aṭṭhakathā (Chú giải) gồm có 52 quyển, các bộ Ṭīkapāḷi, các bộ Anuṭīkāpāḷi gồm có 26 quyển.
    Ngoài 14 vị Đại Trưởng Lão Tipiṭakadhara - Tipiṭakakovida thông thuộc thấu suốt đầy đủ bộ Tam Tạng ra, còn có 5 vị Đại Trưởng Lão thông thuộc Tam Tạng Tipiṭakadhara và mấy chục vị Đại đức thi đậu Nhị Tạng, hơn mấy trăm vị Đại đức thi đậu Nhất Tạng, và còn rất nhiều vị Đại đức thi đậu Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, v.v...
    Như vậy, gọi là phận sự học pháp học Chánh Pháp để giữ gìn duy trì giáo pháp của Đức Phật được lưu truyền lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho chúng sinh, nhất là nhân loại, chư thiên, phạm thiên...
    Qua các thời kỳ học thuộc lòng Tam Tạng

    * Thời kỳ đầu: Kể từ khi Đức Phật còn tại thế cho đến trước Phật lịch năm 450, trong khoảng thời gian này, trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú giải chưa ghi thành chữ viết; cho nên, việc học Tam Tạng bằng cách khẩu truyền tâm thọ: vị Thầy đọc, các học trò lặp theo ghi nhớ nằm lòng. Như vậy, vị Thầy thông thuộc chừng nào, các học trò cũng thông thuộc chừng ấy; nếu vị thầy không thuộc bộ nào, thì vị Thầy gửi các học trò của mình đến vị Đại Trưởng Lão khác xin học bộ ấy. Cho nên, việc học trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú giải trong thời kỳ này rất vất vả khó khăn.
    * Thời kỳ sau: Kể từ sau thời kỳ kết tập Tam Tạng và các bộ Chú giải lần thứ tư, khoảng thời gian 450 năm, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, kỳ kết tập Tam Tạng và các bộ Chú giải này được ghi bằng chữ viết trên lá buông. Cho nên, việc học Tam Tạng trọn bộ và các bộ Chú giải tương đối ít vất vả khó khăn hơn thời kỳ trước, song có phần hạn chế, vì số bổn Tam Tạng và Pāḷi được ghi trên lá buông không nhiều.
    * Thời hiện tại này, hầu hết các nước Phật giáo lớn như: nước Myanmar, nước Thái Lan, nước Srilankā, nước Lào, nước Campuchia, v.v... đều có trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú giải được in ra thành sách bằng mẫu tự của xứ mình. Cho nên, việc học trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú giải có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Nhưng việc dạy Tam Tạng và việc học Tam Tạng trong mỗi số nước phổ biến chưa được rộng đến toàn thể Phật tử. Hiện nay, phần đông được biết đến xứ Myanmar có chư Đại Trưởng Lão dạy Tam Tạng và Chú giải, và có chư Tỳ-khưu theo học Tam Tạng và Chú giải. Hằng năm, Chính phủ Myanmar, bộ Tôn giáo tổ chức kỳ thi Tam Tạng, kết quả đã có 14 vị Đại Trưởng Lão thi đậu trọn bộ Tam Tạng và thông suốt Chú giải; ngoài ra, còn có những vị Đại đức khác thi đậu Nhị Tạng, Nhất Tạng, một Nikāya, hai Nikāya, v.v... giúp giữ gìn duy trì pháp học Phật giáo được trường tồn. Đó là điều đáng cho tất cả mọi người Phật tử vô cùng hoan hỷ.
    Thời kỳ Đức Phật còn tại thế, việc thông thuộc Tam Tạng không những chỉ có chư vị Đại Trưởng Lão, Đại đức, mà còn có nhiều vị cận sự nam, cận sự nữ nữa. Bởi vì, việc bảo tồn Phật giáo là phận sự chung của các hàng Phật tử, gồm cả bậc xuất gia lẫn các hàng tại gia cư sĩ.
    Để bảo tồn Phật giáo, chỉ có một phương pháp duy nhất là mỗi bậc xuất gia Tỳ-khưu, Sadi, người Phật tử, cận sự nam, cận sự nữ cần phải học thuộc lòng Tam Tạng Pāḷi, Chú giải Pāḷi, Ṭīkāanuṭīkāpāḷi, theo khả năng của mình, nên hiểu rõ ý nghĩa đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật. Khi đã thông thuộc pháp học Phật giáo, thì hành giả mới có thể thực hành đúng theo Chánh pháp được. Hoặc khi giảng dạy đến người khác đúng theo Chánh pháp. Cho nên, học pháp học Phật giáo sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho mình và cho người khác. Đặc biệt còn giữ gìn và duy trì pháp học Phật giáo được trường tồn trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh.
    Nguồn: Ngài Hộ Pháp

  16. #16

    Mặc định

    Dài quá! Quả thật noname cũng không đủ thời gian đọc hết nên chỉ đọc lướt qua đại ý. Một thắc mắc nhỏ là biết có phải cao thủ không ngay thôi hà tất phải đọc nhiều lời đầu môi chóp lưỡi. Theo đạo hữu allbutnothing thì tại sao đức Phật lại cấm uống rượu dù chỉ 1 giọt? Cảm phiền đạo hữu trả lời dùm noname tôi xin rửa tai lắng nghe. Cảm ơn đạo hữu nhiều nhé! Ha ha ha Ha!
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nonamepas Xem Bài Gởi
    Dài quá! Quả thật noname cũng không đủ thời gian đọc hết nên chỉ đọc lướt qua đại ý. Một thắc mắc nhỏ là biết có phải cao thủ không ngay thôi hà tất phải đọc nhiều lời đầu môi chóp lưỡi. Theo đạo hữu allbutnothing thì tại sao đức Phật lại cấm uống rượu dù chỉ 1 giọt? Cảm phiền đạo hữu trả lời dùm noname tôi xin rửa tai lắng nghe. Cảm ơn đạo hữu nhiều nhé! Ha ha ha Ha!
    - Này Nonamepass, chúng ta hãy giành nỗ lực quan tâm đến các pháp mà theo đó giúp chúng ta có đời sống với các Phạm hạnh, xin đừng lãng phí thời gian và sức lực với con người tôi, thật không đáng.
    - Với Nhân là Mr. le đã tạo lập topic này với nguyện vọng như sau:
    hãy dùng những câu chuyện, những tình huống, những cách ứng xử của Đức Phật đã từng làm để đối đãi
    Tôi xin giới thiệu với bạn quan điểm về Uống rượu của Đệ nhất cao thủ trên Thế gian.
    Tạng Luật - Phẩm Uống Rượu - Điều học về Uống rượu:
    Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn trong khi du hành ở xứ Cetiya đã đi đến Bhaddavatikā. Những người giữ bò, chăn dê, nông phu, khách đi đường đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:—“Bạch ngài, xin đức Thế Tôn chớ đi đến Ambatittha. Bạch ngài, ở Ambatittha có con rồng sống trong khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa, là con rắn có pháp thuật, có nọc độc khủng khiếp, chớ để nó hãm hại đức Thế Tôn.”Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã im lặng. Đến lần thứ nhì, … (như trên) … Đến lần thứ ba, những người giữ bò, chăn dê, nông phu, khách đi đường đã nói với đức Thế Tôn điều này:—“Bạch ngài, xin đức Thế Tôn chớ đi đến Ambatittha. Bạch ngài, ở Ambatittha có con rồng sống trong khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa, là con rắn có pháp thuật, có nọc độc khủng khiếp, chớ để nó hãm hại đức Thế Tôn.” Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã im lặng.
    Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Bhaddavatikā. Tại nơi đó, đức Thế Tôn đã trú ngụ ở Bhaddavatikā. Khi ấy, đại đức Sāgata đã đi về phía khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa thuộc vùng Ambatittha, sau khi đến đã đi vào nhà thờ lửa, rồi đã sắp đặt tấm thảm trải bằng cỏ, ngồi xuống, xếp (chân) thế kiết già, giữ thân thẳng, tập trung niệm ở phía trước. Khi ấy, con rồng ấy sau khi nhìn thấy đại đức Sāgata đi vào, có sự khó chịu, có tâm bực bội, đã phun khói. Đại đức Sāgata cũng đã phun khói. Khi ấy, con rồng không còn đè nén được cơn giận nên đã phun ra lửa. Đại đức Sāgata cũng đã nhập thiền đề mục lửa và đã phun ra lửa. Sau đó, đại đức Sāgata đã dùng lửa (của mình) đoạt lấy ngọn lửa của con rồng ấy rồi đã đi về phía Bhaddavatikā.
    Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi đã ngự tại Bhaddavatikā theo như ý thích đã ra đi du hành về phía thành Kosambī. Các cư sĩ ở thành Kosambī đã nghe được rằng: “Nghe nói ngài đại đức Sāgata đã gây chiến với con rồng ở Ambatittha.”
    Sau đó, trong khi tuần tự du hành, đức Thế Tôn đã ngự đến thành Kosambī. Khi ấy, các cư sĩ ở thành Kosambī sau khi đi ra tiếp đón đức Thế Tôn đã đi đến gặp đại đức Sāgata, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Sāgata rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, các cư sĩ ở thành Kosambī đã nói với đại đức Sāgata điều này:—“Thưa ngài, vật gì các ngài đại đức khó có được và ưng ý? Chúng tôi nên chuẩn bị vật gì?” Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với các cư sĩ ở thành Kosambī điều này:—“Này các đạo hữu, có thứ rượu cất tên Bồ Câu thì các tỳ khưu khó có được và ưng ý, hãy chuẩn bị thức ấy.”
    Sau đó, các cư sĩ ở thành Kosambī đã chuẩn bị rượu cất tên Bồ Câu ở mỗi nhà, rồi khi nhìn thấy đại đức Sāgata đang đi khất thực đã nói với đại đức Sāgata điều này:—“Thưa ngài, xin ngài đại đức Sāgata hãy uống rượu cất tên Bồ Câu. Thưa ngài, xin ngài đại đức Sāgata hãy uống rượu cất tên Bồ Câu.” Sau đó, khi đã uống rượu cất tên Bồ Câu ở mỗi nhà, đại đức Sāgata trong lúc đang đi ra khỏi thành phố đã té ngã ở cổng thành.
    Khi ấy, đức Thế Tôn cùng với nhiều vị tỳ khưu đang đi ra khỏi thành phố đã nhìn thấy đại đức Sāgata bị té ngã ở cổng thành, sau khi nhìn thấy đã bảo các tỳ khưu rằng:—“Này các tỳ khưu, hãy đưa Sāgata về.”—“Bạch ngài, xin vâng.” Các vị tỳ khưu ấy nghe theo lời đức Thế Tôn sau khi đưa đại đức Sāgata về lại tu viện đã đặt nằm xuống, đầu hướng về đức Thế Tôn.
    Khi ấy, đại đức Sāgata đã xoay tròn vòng đưa hai chân hướng về đức Thế Tôn rồi nằm ngủ. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
    —“Này các tỳ khưu, phải chăng Sāgata đã có sự tôn kính và có sự vâng lời đối với Như Lai?”
    —“Bạch ngài, đúng vậy.”
    —“Này các tỳ khưu, vậy bây giờ Sāgata có sự tôn kính và có sự vâng lời đối với Như Lai không?”
    —“Bạch ngài, điều ấy không có.”
    —“Này các tỳ khưu, phải chăng Sāgata đã gây chiến với con rồng ở Ambatittha?”
    —“Bạch ngài, đúng vậy.”
    —“Này các tỳ khưu, vậy bây giờ Sāgata có đủ sức gây chiến với con rắn nước không?”
    —“Bạch ngài, điều ấy không có.”
    —“Này các tỳ khưu, vậy loại thức uống nào sau khi uống vào sẽ trở thành mất tỉnh táo thì có nên uống loại ấy không?”
    —“Bạch ngài, điều ấy không nên.”
    —“Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho Sāgata, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, vì sao Sāgata lại uống men say vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên) … Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
    “Khi uống rượu và men say thì phạm tội pācittiya.”
    Rượu nghĩa là rượu từ bột, rượu từ bánh ngọt, rượu từ cơm, đã được rắc men vào, đã được trộn vào các hương liệu cần thiết.
    Men say nghĩa là chất mật từ bông hoa, nước trích ra từ trái cây, nước trích ra từ mật ong, nước trích ra từ đường mía đã được trộn vào các hương liệu cần thiết.
    Uống: vị uống vào dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa thì phạm tội pācittiya.
    Men say, nhận biết là men say, vị uống vào thì phạm tội pācittiya. Men say, có sự hoài nghi, vị uống vào thì phạm tội pācittiya. Men say, (lầm) tưởng không phải là men say, vị uống vào thì phạm tội pācittiya.
    Không phải là men say, (lầm) tưởng là men say, phạm tội dukkaṭa. Không phải là men say, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là men say, nhận biết không phải là men say thì vô tội.
    Vị uống vào chất có màu sắc của men say có hương của men say có vị của men say nhưng không phải là men say, khi được nấu chung với xúp, khi được nấu chung với thịt, khi được nấu chung với dầu ăn, ở trong nước mật của trái cây āmalaka, vị uống nước cất không men say, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
    Vậy, nếu bạn chưa thấy thoả mãn với Phẩm trên, xin hãy đưa ý kiến, tôi sẽ hoan hỷ trích dẫn thêm.

  18. #18

    Mặc định

    Ha ha ha. Đạo hữu chưa hiểu ý hỏi của noname rồi. Noname không hoài nghi hay thắc mắc rằng liệu đức phật có thật có giới luật đó hay không. Cái noname muốn thắc mắc ở đây là những người chọn vipassana làm pháp hành liệu thông qua pháp hành này có thực sự chứng ngộ được tại sao lại có giới luật đó hay cũng không có chứng ngộ gì chỉ như người thường đọc sao biết vậy? Nếu cũng chẳng có chứng ngộ gì hơn người thường cũng vẫn chỉ biết tầm chương trích cú như nhau vậy vipassana có nên bỏ thùng rác chăng? Có gì không phải mong đạo hữu bỏ quá cho! Ha ha ha ha.
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  19. #19

    Mặc định

    - Này Nonamepass, hãy suy xét, Thế Tôn dẫn dắt Tăng đoàn của Ngài 12 năm đầu mà không chế định Giới luật. Hay suy xét cho kỹ, trong suốt 12 năm đó, các hành giả thiền Tứ niệm xứ không bị chế định Giới Uống rượu thì không thành tựu chăng? Minh sát là để "chứng ngộ" tác hại của rượu chăng?
    - Này Nonamepass, nguyên nhân của việc ra đời Giới cấm uống rượu đã được trình bày và Thế Tôn phân tích trong bài kinh đó, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa và phần cuối. Xin hãy đọc và suy xét kỹ càng.
    - Về phần phân cao-thấp thủ (?) trong Vipassana, xin thứ lỗi, tôi không thể đáp ứng bạn được rồi.
    Last edited by Allbutnothing; 07-06-2017 at 08:58 PM.

  20. #20

    Mặc định

    Xin hỏi những điều như trên là do Sư Viết ra hay ai viết ra?
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •