Tam tự quy đảnh lễ.

Đàn này vị thầy hương đăng phải hết lòng lo liệu không được để cho bất cứ một người nào bàn tạp làm mất thanh tịnh. Sau giờ ngọ, nghe hiệu lệnh xong, vị pháp sư và 2 người tác bạch cùng Thầy Trụ Trì là 4 người vào đàn tràng hành lễ. Chí thành tụng kinh đọc lớn tiếng cầu mưa, như nghi thỉnh trước giờ ngọ, sau ngọ chỉ tụng kinh liên tục cho đến khi nào mưa lớn mới thôi. Trừ đàn này ra, các điện thờ chung quanh cũng phải thứ tự luân phiên 10 người hay ít nhất là 4 người tụng 21 biến Chú Đại Bi, niệm hiệu Quan Âm 1000 lần, lạy 12 nguyện của Bồ Tát, hồi hướng, phục nguyện, tự quy và đảnh lễ. Kế tiếp đổi ban thứ hai luân phiên tụng suốt ngày đêm không dứt cầu trời chóng mưa. Các nghi cúng trên một mực theo đúng nghi thường, chỉ viết bài vị: Nam Mô vô biên trang nghiêm hải vân oai đức luân cái long vương và các quyến thuộc. Đảnh lễ xong, đại chúng tán bài:

Thánh chúng long vương,
Oai đức khó lường,
Vâng lời Phật dạy,
Tán (rải) ngọc quỳnh tương,
Quang lâm đạo tràng,
Nhuần sạch thanh lương,
Một giọt nhuận 10 phương.


Nam Mô Vân Luân Hội Thượng Long Vương Thánh Chúng Bồ Tát (3 lần).


Kế đọc sớ cầu mưa bằng giọng thống thiết, nên viết 4 hàng: hàng đầu viết tạo 3 nơi hóa hoặc chế bằng giấy viết hiệu 3 quan, cũng như 3 lồng sớ, mỗi tờ phóng trên 1 tờ giấy hiệu quan trên tay biến hóa thật tài tình. Một tờ trình Tam Bảo, một tờ trình chư thiên, một tờ trình các vị long vương. Để lại một phong bì mỗi ngày đọc một lần cho đến khi tụng xong hồi hướng rồi mới thiêu đốt.

Sớ rằng: thiết nghĩ, ánh dương thái quá làm nóng cháy, muôn vật đều khô héo, đây trên do trời phạt, dưới do dân nhiều tội lỗi. Chỉ chư Phật mở rộng môn từ bi mà thần chú có cảm ứng cơ cầu, do vậy với lòng thành, thiết lập đàn tràng cầu mưa tỏ bày tâm cảm, ngưỡng mong thánh đức dũ lòng đón nhận. Nay tại Việt Nam (Úc Đại Lợi)… tỉnh… phủ… huyện… chùa… Trú Trì (pháp danh). (Nếu có quan chức mời chú nguyện và biên tên họ vào sớ)… Hôm nay chí thành niệm hương đảnh lễ Đại Vân luân chủ, Thích Ca Văn Phật, cầu vũ hội thượng chư Phật Thánh hiền, thiên long tám bộ, ty sở các thần, tọa đài hoa sen, mong cảm thông lời bày tỏ: Nhân chở che bổn xứ gặp lúc nắng hạn lâu ngày ban cho chỗ mưa nhỏ. Suối khe cạn nước, vạn vật khô cằn; muôn dân trăm họ, khổ thống điêu linh. Cơ quan chức trách lo nghĩ như khẩn cầu, nghe Phật dạy lấy vầng mây lớn, tụng kinh trì chú cầu mưa; xin vì cảm thông, cho… (tên) nay ngày… (kiến lập đàn tràng), y pháp cần cầu, vân tập tăng chúng tụng kinh, trì chú, niệm Phật. Song e sự lý không cùng, lễ nghi không đúng pháp khó cảm đến long thiên xin rộng lòng tha thứ; chưa có mưa nhuần thấm xuống, do vậy chí thành dâng sớ: trước trình Tam Bảo thánh chúng, kế thưa 3 cõi chư thiên, tiếp thưa cùng long vương thánh chúng, ngưỡng cầu rũ lòng thương chứng giám, đoái tưởng chúng sanh, mong cho tội nghiệp sâu dầy lấy lượng bình đẳng gội nhuần, dậy sấm chớp nơi núi sông, đỗ mưa tuôn khắp chốn, cứu sanh linh đồ thán, đang phải chịu nạn tai. Lại cầu cậu gió thầy mưa trên chở dưới che địa thần lúa thóc, hết lòng quan tâm, che chở cho lúa được mùa cũng giống mùa thu, tháng hòa năm thuận, muôn dân an lạc thái bình. Cẩn niệm chí thành cúi đầu dâng sớ.

Sớ văn đây cung trình Tam Bảo chứng minh, đài sen thỉnh tọa; chư thiên cùng lên bảo tòa, long thần chư vị thần linh lên bảo tòa.

Ngày…tháng…năm …Trụ Trì…cẩn bạch.

* Phụ Chú: Đàn Đại vân: đàn chính ở giữa, 2 bên treo nhiều câu dùng giấy trắng, mực đen viết chữ đậm nét như:

Đại Chiêm cam sâm điền trù đắc nhi tư dục,
Kỳ phu huệ trạch thảo mộc bị dĩ sanh thành.

(Mưa lớn đượm nhuần ruộng được mùa thêm nẩy nở,
Sông Kỳ thẩm thấu cỏ cây chớn chở phát sanh).


Chứng nghĩa ghi rằng: tổ chức nghi thức cầu mưa dựa theo Kinh Phật soạn ra. Duy chỉ lập đàn, sắp xếp chỗ ngồi, phan phướn, hình tượng v.v... việc chi tiêu tiền bạc tốn kém. Nếu quan chức đứng lo liệu vấn đề trở nên rất dễ giải quyết. Giả như chư tăng phát tâm lo liệu có thể dùng giấy, gỗ thay vàng lá. Kỳ nguyện cốt ở thành tâm trang trọng mà thôi. Song trải qua nếu có lúc mưa lớn cũng làm cho tạnh dứt, tạnh hẳn mới thấy được hiệu quả kinh này. Cũng có thể dùng để cầu trời tạnh ráo. Chỉ thay đổi nội dung 2 chữ là được, đổi chữ cầu mưa thành cầu nắng và cũng đổi lời sớ nữa. Đây là việc lợi ích lớn lao ngoài nghĩ ngợi, cảm thấu các bậc thần minh. Ngoài ra, đàn tràng tụng Chú Đại Bi, giúp thêm lời ban ân chóng cảm kích tới mọi sự cầu. Nếu như người cầu không thỏa mãn không phải do tâm đại bi đà la ni. Thảng hoặc nơi núi cao, thôn làng vắng vẻ, không có quan chức tham dự, nên mời chư tăng thanh tịnh xa gần tới tụng kinh theo chỗ chuyên biệt của họ, chí thành cầu nguyện cũng có thể có kết quả trời mưa. Kinh Hoa Nghiêm cảm ứng lược ký ghi rằng, ngài Tăng Đạo Anh, họ Trần người quán huyện Bồ, 18 tuổi cưới vợ ở chung 5 năm thề không gần nhau. Sau theo nghe Cự pháp sư trong huyện giảng Kinh Hoa Nghiêm bèn thế phát xuất gia theo nhiều người vào núi Chùa Bá Thê tu pháp tham thiền. Gặp tiết trời nắng hạn giảng Kinh Hoa Nghiêm để cầu mưa. Có 2 cụ già, mỗi vị có 2 đồng tử theo hầu tìm đến nghe giảng. Ngài Đạo Anh thấy lạ bèn hỏi, mới biết đó là hải thần. Nhân đó nói rằng, nay vì đàn việt xin cho trận mưa. Lão trượng sai 2 đồng tử, một từ lỗ cửa sổ phóng ra trong thoáng chốc, một trận mưa to xối xuống, xa gần đều thấm nhuần. Công đức giảng Kinh Hoa Nghiêm mà cảm động đến trời làm đỗ cơn mưa lớn. Cũng như Kinh Pháp Hoa Trì Nghiệm ký ghi rằng, pháp sư Vân Quang, đời Lương, niên hiệu Phổ Thông, năm thứ hai, tập họp chúng nơi đại điện giảng Kinh Pháp Hoa, trời rưới mưa hoa giữa thiên không. Vua đem việc hạn hán hỏi ngài Hòa Thượng Chí Công. Chí Công nói rằng: có mây có thể đưa tới mưa. Vua nhân đó thỉnh Ngài giảng Kinh Pháp Hoa đến đổi thấm nhuần khắp nơi trời bèn đỗ mưa to nơi nơi đều lợi lạc. Nhân việc giảng Kinh Pháp Hoa đây mà cảm động trời đỗ mưa vậy.

Ngoài ra cũng có câu chuyện kể rằng: Ngài Thích Chân Quán chùa Nam Thiên Trúc đời Tùy Linh Ấn họ Phạm ở Tiền Đường. Lúc nhỏ tướng dị kỳ, lưỡi đỏ vằn quanh, 2 tay trái phải có chữ tiên nhơn, thường tụng kinh Pháp Hoa định mỗi ngày một bộ. Năm Khai Hoàng thứ 14 lúc trời hạn hán mời Thầy giảng Kinh Hải Long Vương, trời liền nhóm mưa. Nhờ giảng Kinh Hải Long Vương này mà làm cho trời mưa vậy. Ngoài ra, Ngài Thích Trung Lập ở Minh Châu đời Tống, họ Trần người huyện Ngàn, xuất gia năm 20 tuổi, được Vua ban hiệu Minh Trí vào đời Hy Ninh. Ở Nam Hồ thay thế Ngài Thần Trí mỗi ngày chuyên tu pháp tham thiền. Vào năm Nguyên Hựu Ngài tái chủ trì Chùa Diên Khánh chuyên lạy Kinh Pháp Hoa 7 năm tu pháp viên mãn. Một hôm trong thiền quán, Ngài thấy mình ngồi trong một chiếc thuyền lớn bơi đi tự biết tới suối tuyền dũng; Ngài tụng Pháp Hoa hơn 10,000 bộ cứu được hạn hán qua đi rất linh nghiệm. Tụng Kinh Pháp Hoa và lạy sám Pháp Hoa mà làm cho trời mưa vậy.

Lại một chuyện khác, đời Tống hội Kê Đạo vị sơn, Ngài Thích Tông Lợi đã thọ giới Tỳ Kheo, tới Cô Châu nương Ngài Thần Ngộ lạy sám Pháp Hoa 3 năm. Một hôm, thấy Bồ Tát Phổ Hiền cỡi hư không qua trước mặt, tìm hỏi thành mới bích hồ, chuyên tu niệm Phật tam muội. Năm Chánh Hòa nguyên niên trời hạn hán, Ngài cầu mưa cảm tới long vương hiện thân sắc vàng rưới mưa đủ nước. Do công phu niệm Phật chí thành làm cho trời mưa.

Kinh Kim Cang Trì Nghiệm ký ghi, đời Đường Khai Nguyên năm 93, Lữ Văn Triển làm việc ở huyện Lãng Trung, rành rẽ Kinh Phật, lại chuyên trì tụng Kinh Kim Cang đến hơn 30,000 lần nên được điềm linh ứng kỳ dị. Cuối năm nọ, 3 cái răng đều rụng một lượt, bỗng mọc lại như cũ. Lúc còn làm việc tại Lãng Trung nhằm năm hạn hán, Vua ra lệnh dân chúng cầu mưa, Ngài vừa tụng một biến trời bèn đỗ mưa lênh láng; lại khổ ngập nước liền khiến tụng Kinh cầu dứt mưa, hợp thời đáp ứng. Do tụng Kinh Kim Cang làm cho trời mưa cũng như dứt mưa.

Một câu chuyện khác: Ngài Liên Trì đại sư ở Minh Quí vừa đi tham học trở về Hàng Châu, trên đường đi muốn vào thăm một tu viện trên núi cao, thấy mây giăng đầu núi u tịch, Ngài bèn lấy gậy chống. Lúc đó trời đang hạn hán, dân làng mời Thầy tụng kinh cầu mưa.

Thầy nói: “Lão tăng ở đây chỉ biết niệm Phật và không có pháp thuật nào cầu mưa được cả”.

Dân chúng nói: “Chỉ cần thỉnh Đại Sư niệm Phật”. Mời Thầy ra khỏi núi tới bờ ruộng niệm Phật, thế là mưa kéo tới ngay. Dân làng quá cảm niệm ân đức Ngài nên hoan hỷ ủng hộ kẻ công người của lập nên ngôi chùa cho Ngài tu niệm. Đây cũng chỉ do công phu niệm Phật mà cảm được mưa vậy. Cho nên việc cầu mưa hoàn toàn nhờ vào công đức chư Tăng hằng ngày công phu tu tập mới có thể cảm ứng được; cũng nên mời vị chủ lễ trang nghiêm giới đức mới có hiệu quả. Nếu như mời vị không đủ giới đức, chư Tăng thiếu tu chỉ làm trả lễ chiếu lệ nên cũng khó mà cảm được tới trời. Thậm chí còn làm ồn ào phức tạp như uống rượu, ăn thịt, vui đùa, làm điều bất chính, làm sao cảm thấu trời được, lại càng tạo thêm nhiều tội lỗi nữa!