Trang 1 trong 3 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 52

Ðề tài: Làm thế nào để lên Thiên Đàng

  1. #1

    Lightbulb Làm thế nào để lên Thiên Đàng

    Nguồn : tổng hợp


    Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, từ "hư mất" ám chỉ tội lỗi, con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con cái Thiên Chúa của mình, phải chết đời đời và xa rời Thiên Chúa vĩnh viễn. Là thụ tạo được phát minh từ bàn tay nhân hiền của Thiên Chúa, con người được đặt định trở về với bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy của Thiên Chúa khi phạm tội khước từ Thiên Chúa và tự tôn mình lên địa vị của Thiên Chúa.

    Vì thế, Thiên Chúa mới phải sửa chữa lại bằng cách cho Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và giao cho Chúa Giêsu chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian chính là để kiếm tìm những gì đã hư mất. Đôi bàn tay của Ngài cũng là đôi bàn tay của Thiên Chúa. Chương trình cứu độ của Ngài thực hiện qua Tin Mừng cứu độ. Nước Trời cũng chính là chương trình của Thiên Chúa.



    “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Và Ta ban cho chúng sự sống đời đời” (Ga 10:27-28).

    Có những con chiên không quen nghe tiếng chủ mình. Không tha thiết tìm hiểu, học hỏi và suy tư. Nó khó chịu khi phải theo chủ. Thích phóng khoáng và tương đối hoá mọi sự. Cứ tưởng không cần theo Chúa, chỉ “ăn ngay ở lành” là tự giải thoát mình. Nhưng có ăn ngay ở lành nào mà không do tình yêu và lẽ phải tác động. Thế nên, nói cho cùng thì cũng chính nhờ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu và Chân Lý soi chiếu, mà người ta tìm thấy được “sự sống đời đời.”



    Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên hoàn toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn tả bằng những từ “nghe” và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.Nghe. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.

    Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
    Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên một ngọn đồi gai góc của thập giá hy sinh và thách thức ta phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quý trên đời.

    Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.Theo. Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.

    Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.

    Như thế, theo tức là yêu thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong hai động từ: “biết” và “cho”.Biết. Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giếtsimani và trên thập giá. Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.



    Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.Cho. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quý giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Ngài. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.

    Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên.

    Chúng ta nghe nhiều về 8 mối phúc thật, nhưng làm sao để sống 8 mối phúc thật?
    Last edited by Vitxiem; 24-01-2014 at 06:39 PM.
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

  2. #2

    Mặc định

    Cùng tìm hiểu về 8 mối phúc thật, 1 phương cách dẫn đưa chúng ta đến thiên đàng

    -------------------------------------------------------------------------------



    Bài Giảng Trên Núi / 8 mối Phúc thật


    Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:




    “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

    Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

    Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

    Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

    Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

    Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

    Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

    Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”.



    I. PHÚC CHO NGƯỜI CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ.

    1. Một mẫu gương sống khó nghèo: thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan.



    Chúa nhật 19-10-1997, Ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 đã tôn phong thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh. Nữ “Tiến sĩ Hội Thánh” thứ ba mươi ba (33) trong Giáo Hội Công Giáo là một nữ tu Dòng Kín Cát-Minh Lisieux, nước Pháp, qua đời ngày 30-9-1897, hưởng dương 24 tuổi.

    24 tuổi đời và 100 năm sau ngày sinh nhật trên trời, thánh nữ trẻ tuổi Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, đã đạt tột đỉnh vinh quang mà Giáo Hội Công Giáo dành cho một vị thánh! Vị thánh ấy lại là một nữ tu dòng Kín Cát-Minh! Và bí quyết nên thánh của Chị lại hệ tại việc sống cách phi thường tất cả những chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày và sống tâm tình khiêm tốn, khó nghèo, đơn sơ phó thác của một trẻ thơ..

    Trong cuốn Truyện Một Tâm Hồn, Hồi Ký của Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và được Kim Thiếu - tức linh mục Vũ Đức Khâm - dịch, có đoạn sau đây.

    Đức CHÚA GIÊSU dạy rằng: “Ai xin, các con cứ cho, ai lấy gì của các con, cũng đừng đòi lại” (Lc 6,30). Cho mọi người đến xin, chưa thỏa bằng tự lòng quý mà đem đến đãi; và khi người ta xin tử tế mà cho cũng không khó; nhưng chẳng may, người ta dùng lời khiếm nhã, làm cho linh hồn chưa thấm nhuần đức bác ái, bực tức khó chịu, rồi tìm trăm lý nghìn lẽ để thoái thác, hay ít nhất, cũng làm cách để người xin hiểu được họ khiếm lễ đã, đoạn mới làm ơn, hay là hộ giúp chút việc vặt, chút việc vặt ấy giá mà giúp ngay thì chẳng mấy chốc, thế mà đã mất thì giờ gấp mấy để nói lên những lý lẽ không đâu.

    Nếu ai xin cũng cho đã là khó, càng khó thay sự để người ta lấy của mình mà chẳng đòi lại. Ôi thưa Mẹ, con nói là khó, lẽ thì con phải nói hình như khó mới phải; bởi vì, “ách Chúa nhẹ nhàng và êm dịu” (Mt 11,30): hễ ghé vai gánh liền thấy dịu dàng êm ái.

    Con vừa nói Chúa chẳng muốn con đòi lại của đã bị lấy; với con, lẽ đó cũng rất tự nhiên vì thật con chẳng có chút gì là của riêng tư; con lấy sự túng thiếu làm vui lòng vì nhân đức khó nghèo mà con đã khấn giữ. Trước đây con đã tưởng mình chẳng còn để lòng dính bén của hèn thế gian; nhưng từ khi biết hiểu thấm thía lời Chúa dạy, con mới nhận ra mình còn hèn kém lắm. Chẳng hạn khi con vào bàn vẽ để làm việc, thấy bút mực lộn xộn, hoặc thiếu cái thước, hoặc mất con dao, thì hầu như không nhịn được. Con phải ép mình hết sức mới khỏi thốt ra những cung giọng chua chát khi đòi lại các vật liệu cần thiết ấy.

    Đã hẳn, con có thể đòi lại những vật dụng cần thiết ấy mà chẳng lỗi giới răn Chúa, miễn là đòi lại cách khiêm nhượng vui vẻ; nhưng không, con muốn ở như người ăn xin, giơ tay van của bố thí, chẳng được người thương cho thì cũng chẳng lạ lẫm gì, nào ai nợ gì thứ người ăn xin mà đòi!. Ôi! linh hồn biết vươn lên trên những tâm tình tự nhiên ấy, sẽ cảm thấy mình được tràn trề bình an khoan khoái dường nào! Nhất định không có sự vui sướng nào sánh được cùng sự vui sướng của tấm lòng thật sự yêu thích sự khó nghèo.

    Kẻ thật lòng nghèo khó, khi thành tâm xin một sự cần thiết mà người ta không cho, người ta lại lấy cả chút mình đang có, sẽ biết làm theo lời Chúa dạy: “Các con hãy cởi cả áo ngoài cho kẻ cố tranh tụng lấy áo trong” (Mt 5,40). “Cởi cả áo ngoài” như con hiểu, là từ bỏ cả chút quyền lợi còn lại, suy mình như tôi bộc, như nô lệ người ta. Một khi đã cởi cả áo ngoài, người ta đi càng dễ, chạy càng nhanh, cho nên Chúa GIÊSU đã phán thêm: “Và bất cứ ai bắt con đi theo một cây số, con hãy theo họ cho tới cây số thứ ba” (Mt 5,40).

    Ai xin cũng cho, con chưa lấy đó làm đủ, con phải đi trước lòng ước ao của người khác. Con phải tỏ mình rất hảo tâm, rất hân hạnh được giúp đỡ chị em, và khi ai lấy đồ vật con quen dùng, con ở như sung sướng vì đã bớt được một bận rộn ..

    Giáo huấn và tâm tình sống tinh thần nghèo khó của vị thánh Nữ Tiến Sĩ Hội Thánh Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, làm liên tưởng đến một câu chuyện xảy ra tại nước Đức. Ngày 7-5-1997, hãng thông tấn Pháp AFP, truyền đi bản tin tựa đề: “Ông chủ quảng đại nhất nước Đức để lại hãng thầu của mình cho một người phu quét đường”. Đó là ông Hans Baranek, 64 tuổi. Ông là chủ hãng thầu quét dọn đường phố ở Nuremberg, thuộc Bang Bavière, miền Nam nước Đức. Hãng ông Baranek có 12 người phu với 21 xe cam nhông dùng để xúc tuyết và quét vĩa hè. Khi đến tuổi về hưu, ông bàn với người em gái, quyết định giao lại hãng thầu của gia đình cho một trong các người phu của ông. Ông nói: Những người làm công trung tín của chúng tôi đã giúp chúng tôi kiếm được nhiều tiền. Vì thế, lẽ nào chúng tôi không để lại hãng thầu của chúng tôi cho họ?.. Và anh Mustafa Berk - một người di dân Thổ Nhĩ Kỳ - 38 tuổi, đã trúng giải. Khi được loan báo tin vui, anh Berk cảm động nói: “Tôi vẫn ao ước được độc lập. Vì thế, lúc nhận tin này, tôi tưởng như mình đang sống trong mơ!”

    Thật thế, “tin vui” đẹp như một “giấc mộng”, nghe như chuyện thần tiên. Mọi người chia vui với anh Mustafa Berk - giống như chuột sa hũ nếp - và nức lời ca tụng ông chủ thầu có quả tim vàng! Phúc cho ông Hans Baranek, vì ông có tinh thần nghèo khó, không bám víu vào của cải chóng qua ở đời này!

    Ông Gioan Trịnh Xuân Vũ (1899-1986) sinh ngày 28-3-1899 tại Ninh Phố, Trung Hoa. Ông là một nhà luật học quốc tế danh tiếng, một nhà nhân bản học đặc sắc, một người đã kết hợp hài hòa những nét tuyệt hảo của nền văn hóa cũ mới Đông-Tây. Sau cùng, ông là một người đã sống đạo Công Giáo một cách toàn vẹn. Khi theo học Luật tại Thượng Hải do giáo hội Mê-tô-đích điều khiển, ông đã xin rửa tội theo giáo hội này. Sau đó, nhờ quen thân với một gia đình Công Giáo đạo đức - gia đình ông Doãn Chí Hoàng - và nhất là, sau khi được đọc truyện thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, ông Vũ quyết định theo đạo Công Giáo. Ông lãnh nhận bí tích Rửa Tội ngày 23-12-1937, từ tay cha Georges Germain, dòng Tên, Viện Trưởng đại học Bình Minh ở Thượng Hải.

    Trong tác phẩm “The Science of Love”, bằng Anh ngữ, ông Gioan Trịnh Xuân Vũ đã viết nhiều chủ đề khác nhau dựa trên đời sống và giáo huấn của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux. Xin trích dẫn chương suy tư về cách thức thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU sống tinh thần nghèo khó như thế nào.

    “Tình Yêu đem lại Tự Do”. Tự nguyện chọn làm nô lệ tình yêu, Chị Têrêxa đã được tự do như chim trời Bay nhảy. Càng khắng khít chặt chẽ với Hôn Phu của Chị, càng ngày Chị càng không dính bén với tạo vật. Ngay từ khi còn nhỏ, Chị đã thấu triệt “tạo vật hư không nay còn mai mất”:

    “Chúa GIÊSU không phải là bạn chí thiết của con sao? Con chỉ biết nói chuyện với Chúa. Nói chuyện với chị em, dù là truyện đạo đức, linh hồn con cũng dễ nhọc mệt lắm. Thật sự, những lúc trơ trọi một mình, nhiều lần con cũng cảm thấy tẻ lạnh. Nhưng con thường hay tự an ủi bằng cách ngâm nga lời thơ đẹp đẽ mà cha con đã có lần đọc cho con nghe: Thế gian không phải là nhà Thuyền con xuôi bến chính là thế gian” (Một Tâm Hồn: MTH). Như thế, Chị Têrêxa đã nhìn thế gian dưới ánh sáng vĩnh cửu và đã dọn đường cho Chị biết thoát ly tư lợi, mặc dù nó quyến rũ Chị. Chị dần dần cắt đứt tất cả các mối ràng buộc khiến phải nô lệ tạo vật: sự ham muốn làm đẹp, sự quyến rũ của nghệ thuật, bản năng chiếm hữu của cải vật chất, hoặc những cái mà Chị gọi là “kho tàng thiêng liêng”:

    “Nếu tôi là người có của, tôi không thể nhìn một người đói khát mà không cho ăn uống. Tôi thực hành điều ấy trong đời sống thiêng, tùy kiếm được nhiều ít, tôi đem phân phát ngay cho những linh hồn đang bên bờ vực thẳm trầm vong đời đời. Hành động như thế, thật không còn lúc nào nói được là tôi hành động cho bản thân tôi nữa” (MTH).

    Một chị Nhà Tập đã kể lại giai thoại sau đây: “Có người xin tôi chiếc kim đan mà tôi vẫn thích dùng, tôi lấy làm tiếc lắm. Bấy giờ Chị thánh bảo tôi: Ồ, chị giàu có quá! Chị không thể sung sướng được đâu!” (MTH). Lời khiển trách nhẹ nhàng nhưng xúc tích dường nào! Người ta có thể giàu có với một chiếc kim đan, và có thể nghèo khó với một triệu bạc.

    Biết Bao người không thoát ly tạo vật! Chiếm hữu một chiếc kim thôi có thể ngăn trở họ lên cao hơn trong Nước Trời. Trái lại, nếu chỉ coi mọi vật như những phương tiện hữu ích để giúp đỡ tha nhân, thì chiếm hữu cả vũ trụ cũng không làm hại tâm hồn họ, vì họ luôn có “tinh thần nghèo khó”. Chị Têrêxa cắt nghĩa bài học bàn tay trắng cho một chị Nhà Tập như thế này:

    “Một cách duy nhất cưỡng bách Chúa đừng phán xét ta điều gì hết, là ta ra mắt Chúa với hai bàn tay trắng. Làm sao lại như thế được? Rất đơn giản. Chỉ việc đừng nắm giữ gì cả, có gì thì đem cho hết đi. Phần em, giá mà Chúa cho em sống tới 80 tuổi, em vẫn cứ nghèo như bây giờ, em không biết tần tiện, có cái gì em liền cho phí ngay để mua chuộc các linh hồn. Nếu em cứ cố gắng đợi mãi đến giờ chết mới đưa ra mấy đồng xu nhỏ của em để xin Chúa định giá cho thì có mà chết! Chúa sẽ khám phá ra nhiều rỉ sét ở mấy đồng tiền ấy, và chắc chắn em sẽ bị đem vào lọc lại trong Luyện Ngục” (MTH).

    Đối với Chị thánh, chúng ta còn phải thoát ly cả những việc đạo đức riêng tư:

    “Chị phải trục xuất những công việc cá nhân, sử dụng một cách ý thức thời giờ đã quy định, nhưng với một tâm hồn dấn thân thực sự. Có lần em đọc thấy dân Israel xây thành Giêrusalem, một tay xây, một tay cầm gươm. Đó là hình ảnh mà chúng ta phải làm, chứ đừng để mình hoàn toàn bị thu hút vào công việc!”.

    Phải chăng đó cũng là tư tưởng của Lão-Tử khi ông nói: “Hãy làm việc mà đừng quá để ý đến công việc của bạn”. Nhà triết học lão thành Trung Hoa đã học được điều ấy sau Bao năm kinh nghiệm, còn Têrêxa, cô bé người Pháp, đã học được ở trường TÌNH YÊU. Phải, tình yêu, tình yêu quảng đại tận hiến vô giới hạn, đã giải thoát tâm hồn Chị và chấp cánh cho Chị bay cao. Chị Têrêxa nói với chị Céline:

    “Chúng ta hãy thoát ly trái đất này, hãy bay lên núi TÌNH YÊU để bông hoa xinh đẹp là tâm hồn chúng ta trú ngụ trên ấy. Hãy thoát ly cả những an ủi của Chúa GIÊSU để có thể kết hiệp với chính Người mà thôi”.

    Và Chị thánh Têrêxa đã hy sinh tất cả hữu thể Chị. Chị không còn gì để thoát ly nữa ngoài việc từ bỏ chính tư tưởng muốn thoát ly của Chị. Chị quả thật là chiếc bình chứa đựng Chúa Thánh Thần. Đó là tất cả. Chỉ có THÁNH THẦN THIÊN CHÚA mới có thể đào tạo vị hôn thê nhỏ của Người “leo lên tới cao độ trọn lành nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như chú hươu con”.

    Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan không được nâng cao hơn các vị thánh khác, nhưng chị đã hiện đại hóa sự thánh thiện. Chị thuộc loại những nhà cách mạng biết canh tân trong khi giải phóng. Giáo Hội Công Giáo là một thân thể sống động, không ngừng phát triển qua bao thế kỷ. Nhưng vào thế kỷ 20, thế kỷ mà chúng ta có thể gọi được là một thế kỷ tâm lý tế nhị, cần có một vị thánh như Têrêxa, một trong những nhà tâm lý thâm thúy nhất, một trong những nhà phân tích cực kỳ tinh tế. Nhờ Chị, sự thánh thiện không còn là một cái gì cao siêu, mà như nước thấm vào tận cõi vô thức sâu thẳm. CHÚA THÁNH THẦN luôn tạo nên những vị thánh mới, để đáp ứng với nhu cầu của thời đại. Vào thế kỷ 16, thế kỷ phát sinh chủ nghĩa cá nhân, CHÚA THÁNH THẦN đã làm nên một Têrêxa Avila (1515-1582) mà linh mục Hernandez sau khi tiếp xúc với thánh nữ đã tuyên bố: “Người ta nói với tôi đó là một phụ nữ đặc biệt. Nhưng theo tôi, đó là một nam-tử mà tôi chưa hề thấy một người thứ hai như thế”.

    Cũng không phải là vô lý mà CHÚA THÁNH THẦN đã làm nên trong thời đại chúng ta một “trẻ thơ lão luyện”. Thế kỷ chúng ta chính vì đã già, nên rất cần trở nên trẻ thơ. Chị thánh Têrêxa đã vạch cho chúng ta con đường đó. Với tính đa cảm, trực giác, vui tươi, sắc sảo, tế nhị, thanh khiết, Chị đã thực hiện trong đời sống thiêng liêng những điều mà các vĩ nhân đương thời đã làm trong lãnh vực hoạt động của họ.

    (trích "The Science of Love - Khoa Tình Ái" của ông Gioan Trịnh Xuân Vũ, bản dịch Việt ngữ của Thạch Sơn, tái bản năm 1996: "YÊU", trang 36-39).


    Ma quỷ đã gieo rắc vào lòng con người “cơn sốt tiền của” để tạo nên hai hạng người: giàu và nghèo. Người giàu sống vì tiền, chỉ biết tiền, vơ vét thật nhiều tiền. Vàng bạc, tiền của là thần tượng của người có tinh thần giàu có! Trong khi đó, người nghèo sống vì thù hận. Họ oán ghét người giàu, kẻ có quá nhiều vàng bạc tiền của. Họ oán ghét và thầm rủa mọi tai ương khốn khổ cho người giàu! Cho dù họ không đích thân giết chết người giàu, nhưng lòng nguyền rủa của họ cũng mang trọng tội như tội sát nhân vậy!



    Đối nghịch với hai hạng người trên đây là “người có tinh thần nghèo khó”. Người có tinh thần nghèo khó thì dù cho họ có tiền rừng bạc biển, giàu nứt khố đổ vách, họ vẫn không hề phạm một tội nào vì tiền của. Trái lại, họ khôn ngoan dùng chính tiền của để mưu ích cho chính mình và để giúp đỡ người khác. “Người giàu” có tinh thần nghèo khó giống như một giòng suối mát nơi sa mạc khô cằn hoang vắng. Giòng suối quảng đại cho đi nước uống giải khát cho tất cả những ai tìm đến với giòng suối. Cho dồi dào, cho không tính toán, cho cách vui vẻ ..



    “Người có tinh thần nghèo khó” thì dù cho họ có nghèo xơ nghèo xác, nghèo rớt mồng tơi, họ vẫn hạnh phúc trong cảnh huống nghèo khó của mình. “Người nghèo” có tinh thần nghèo khó luôn sống vui vẻ, bởi vì, họ không bị cơn khát tiền của dày vò. Người có tinh thần nghèo khó thường được hưởng một giấc ngủ an bình, êm dịu.

    Sự giàu có thường được hiểu theo nghĩa vật chất như: vàng bạc, nhà cửa, ruộng đất, đồ dùng, nghĩa là tất cả những gì đem đến tiện nghi sung túc cho cuộc sống con người. Thế nhưng, sự giàu có cũng nằm trong lãnh vực tinh thần và luân lý nữa, chẳng hạn như: các mối liên hệ họ hàng thân thích, các tình nghĩa bạn bè, các hiểu biết trí thức và những quyền bính cùng trách nhiệm công cộng, vv.

    Đối với sự giàu có vật chất thì “người có tinh thần nghèo khó” không mảy may bận tâm tới vấn đề tiền của. Không thèm khát tiền của, không tham muốn tiền của, không oán ghen người có nhiều tiền của. “Người có tinh thần nghèo khó” luôn luôn an vui với số phận của mình, sống thanh thản ngày qua ngày và phó thác tương lai trong tay Chúa.

    Đối với sự giàu có luân lý thì “người có tinh thần nghèo khó” không dính bén hoặc bám víu vào bất cứ tình yêu và mối liên hệ nào: cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, họ hàng, bạn hữu, trí thức, chức quyền, vv. Khi con người có lòng dính bén tức là con người phạm tội. Chính nhờ sự “thoát ly” khỏi những ràng buộc của cải luân lý mà con người được tự do hoàn toàn, được độc lập thật sự và được hưởng nếm hạnh phúc toàn vẹn.

    Giới răn Thiên Chúa đòi buộc con người phải yêu thương cha mẹ, con cái, vợ chồng và “yêu thương người khác như chính mình vậy”. Đúng thế. Con người phải yêu thương trước tiên cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, rồi đến người khác: người ở gần cũng như kẻ ở xa. Thế nhưng, con người phải yêu thương trong mức độ được Chúa vạch ra: “như chính mình”. Điều này có nghĩa là, chúng ta phải “yêu mến Chúa trên hết mọi sự, yêu mến hết lòng hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”.. THIÊN CHÚA phải là đối tượng trên hết và là đối tượng duy nhất của con người.

    Thánh nữ Perpétua thuộc một dòng quý tộc ở Bắc Phi. Gia đình thánh nữ được hồng ân lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chỉ trừ người cha. Năm 303, Perpétua bị bắt cùng với 4 tín hữu Công Giáo khác. Lúc đó Perpétua là người mẹ trẻ (22 tuổi) với đứa con dại còn bú. Chính thánh nữ đã tự tay viết lại những diễn tiến, những chiến đấu trong thời gian bị bắt bớ và bị giam cầm.

    ... Giữa lúc cơn bách hại các tín hữu Kitô nổi lên dữ dội, cha tôi thường dùng đủ mọi lý lẽ cũng như tình phụ tử để thuyết phục tôi từ bỏ ý định xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Tôi thưa với cha: - Ba có nhìn thấy bình cắm hoa đang để trên bàn, hoặc bức ảnh treo trên tường, hoặc bất cứ vật dụng nào khác trong căn phòng này không? - Có, Ba thấy. - Người ta có thể gọi chúng bằng những tên khác không? - Không - Con cũng vậy. Con không thể tự đặt cho mình một tên nào khác ngoài tên con là KITÔ HỮU.

    Nghe tôi trả lời thế, Ba tôi không còn tự chủ được nữa. Người nhẩy chồm đến bên tôi, như muốn móc cặp mắt tôi. Tuy nhiên, người chỉ đấm đá tôi túi bụi rồi bỏ đi, thất bại trước những lý lẽ rành mạch của tôi. Những ngày sau đó Ba tôi lánh mặt, không thèm gặp và nói lời nào với tôi. Tuy nhiên thái độ này đem lại cho tôi sự thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi được hoàn toàn bình an để chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Và chỉ vài ngày sau, chúng tôi bị bắt và bị tống giam trong hầm tối.

    Ngục tối đối với tôi thật vô cùng khủng khiếp. Tôi chưa bao giờ trải qua một kinh nghiệm như thế. Các tù nhân chúng tôi bị dồn thật chặt, không chỗ trống, không ánh sáng, không khí thở. Tiền bạc bị tước đoạt hết. Riêng tôi bị dằn vặt vì cuộc sống khốn khổ của đứa con nhỏ còn bú, tôi mang theo với mình. Sau một thời gian vô cùng khốn khổ, hai thầy phó tế có nhiệm vụ săn sóc chúng tôi, đút lót tiền bạc, nên người ta di chuyển chúng tôi đến một trại giam khác, ít khốn cực hơn.

    Một thời gian sau, có tiếng đồn chúng tôi sẽ bị đem xử. Vừa nghe tin, Ba tôi tức tốc chạy đến nhà giam thăm tôi, lòng buồn sầu vô hạn. Ba tôi tìm cách thuyết phục tôi lần cuối. Người nói với tôi:

    - Con ơi, hãy thương xót cha già. Hãy nhìn mái tóc bạc của cha. Hãy thương đến cha của con, nếu cha còn xứng đáng được con gọi là cha. Con ơi, vì đôi bàn tay này, đôi bàn tay đã từng chăm sóc cho con đạt đến nét đẹp vẹn toàn của tuổi đời con hôm nay, và vì tình thương đặc biệt cha dành cho con, cha thương con hơn các anh em con, xin con đừng làm cho cha nên trò cười cho thiên hạ. Xin con hãy nhìn các anh em con, hãy nhìn mẹ con và cô con, hãy nhìn đứa con nhỏ của con, nó sẽ không thể sống sót, nếu chẳng may con có mệnh hệ nào. Xin con hãy rút lại quyết định của con, hãy từ bỏ đạo Công Giáo, để tránh cho gia đình ta khỏi rơi vào cảnh danh dự quyền hành bị phá hủy tan tành. Không ai trong gia đình ta còn được ăn nói tự do, nếu chẳng may con bị xử tử!

    Ba tôi vừa nói vừa khóc, vừa cầm hôn tay tôi, vừa sụp lạy dưới chân tôi. Trong nỗi niềm thương đau khôn tả, Ba tôi không còn gọi tôi bằng con nữa, nhưng gọi bằng bà. Tôi cảm thấy thương cha vô vàn, nhưng nhất là tôi thương cho số phận của cha, người duy nhất trong gia đình, không chia xẻ niềm hãnh diện được tuyên xưng đức tin Công Giáo của tôi. Tôi đành an ủi cha già yêu dấu:

    - Xin Ba hãy ngước mắt nhìn đoạn đầu đài này. Không gì xảy ra trên đó mà không do thánh ý Chúa. Cha biết rõ là định mệnh đời sống chúng ta không tùy thuộc chúng ta, nhưng nằm trong tay Thiên Chúa.

    Nghe tôi nói như vậy, Ba tôi giận dữ bỏ ra về..

    Một ngày, chúng tôi bị đưa ra công đường để chịu thẩm vấn. Tiếng đồn lan nhanh đến độ đã có đông người chen chúc đến tham dự cuộc thẩm vấn. Khi đến lượt tôi bị gọi, tôi liền chạm trán với Ba tôi, đang có mặt cùng với đứa con trai nhỏ của tôi. Ba tôi kéo tay tôi và nói:
    - Hãy thương đến con trai của con.

    Thấy thế, vị quan tòa nói với tôi:

    - Hãy thương đến mái tóc bạc của cha già và hãy thương đến tuổi đời non dại của con trai ngươi. Hãy đốt hương tế hoàng đế.

    Tôi trả lời: “Không, tôi không tế hoàng đế, vì tôi là tín hữu Kitô”.

    Cùng lúc đó cha tôi tiến lại gần tôi, để thuyết phục tôi, nhưng quan tòa ra lệnh đuổi Ba tôi ra và đập mạnh vào người. Tôi nghe như tiếng đập giáng xuống trên người tôi, và cảm thấy đau nhói nơi tim. Tôi thật cảm thương cho tuổi già kém may mắn của cha tôi..

    Ngày 7-3-303, thánh nữ Perpétua bị đưa ra hý trường, làm mồi cho bò cái húc, cùng với thánh nữ Félicitas, một phụ nữ nô lệ.

    Theo tục lệ, trước khi vào hý trường, các tử tội phải khoác lên mình tấm áo của các phụ nữ có nhiệm vụ tế thần. Nhưng các Kitô hữu một mực từ chối và nói: “Sở dĩ chúng tôi bị điệu đến đây là vì chúng tôi cương quyết bảo vệ sự tự do Kitô của chúng tôi, và vì chúng tôi từ chối tế thần. Mạng sống của chúng tôi đánh đổi hai quyết định trên đây của chúng tôi. Vậy xin tôn trọng quyết định của chúng tôi, vì đó cũng là điều mà quý vị đồng ý”. Nghe vậy, quan tòa đành phải chấp thuận.

    Vào hý trường, Perpétua bị đối đầu với một con bò cái. Nó húc tung thánh nữ lên không. Thánh nữ bị rơi ngửa xuống đất. Vừa khi có thể ngồi dậy, thánh nữ liền lấy tay kéo chiếc áo che kín một phần thân thể bị lộ ra vì một mảnh áo bị rách đi. Tiếp đến, thánh nữ lấy kẹp, kẹp lại mái tóc bị xỏa tung. Cử chỉ kín đáo đoan trang và quý phái của thánh nữ, như muốn nói với đám đông đang chứng kiến cuộc tử đạo của thánh nữ rằng:

    “Một phụ nữ Kitô tử đạo, không nên bước vào vinh quang Nước Trời với mái tóc xõa tung, vì đó là dấu hiệu của tang chế”.

    Sửa soạn tề chỉnh xong, Perpétua bình tĩnh đứng lên. Nhìn thấy người nữ nô lệ Félicitas bị bò húc, đang nằm sóng soài dưới đất, Perpétua tiến lại, giơ tay cho nàng Félicitas nắm và kéo người nữ nô lệ đứng thẳng lên. Nhìn thấy hai phụ nữ Kitô oai dũng đứng lên, đám đông bỗng như cảm thấy hổ thẹn thất trận trước nét anh hùng của hai phụ nữ. Họ im lặng thán phục và những người có nhiệm vụ điều khiển cuộc hành quyết vội vàng đưa hai phụ nữ Kitô vào cửa dành cho những người còn sống.

    Tại đây, thánh nữ Perpétua được một tín hữu tân tòng chạy đến chăm sóc. Chính lúc này, thánh nữ mới trở lại với thực tế. Như người vừa trở về sau một thời gian xuất thần, thánh nữ ngạc nhiên nhìn chung quanh và hỏi: “Bao giờ thì tôi mới bị đưa ra cho bò cái húc?”. Và khi được trả lời là xong rồi, thì thánh nữ không tin, cho đến khi nhìn thấy những vết thương trên mình và áo quần rách nát, lúc đó thánh nữ mới hiểu là mình đã bị bò cái húc. Thánh nữ liền nói với người em trai đang đứng đó với người tân tòng rằng: “Xin anh em hãy kiên vững trong đức tin và đừng sợ hãi gì khi nhìn thấy các tín hữu Kitô bị hành hung như thế”.



    Nhưng rồi đám đông lại lên cơn điên, la ó đòi phải dẫn các phụ nữ Kitô ra hý trường. Lần này thì thánh nữ Perpétua thực sự nếm cái chết đau đớn thể xác. Tên đao phủ cầm gươm tiến đến gần thánh nữ, nhưng anh ta lúng túng vụng về chỉ đâm vào hông thánh nữ. Thánh nữ Perpétua thét lên một tiếng lớn, rồi nắm chặt lấy tay người đao phủ, hướng tay anh ta cầm gươm tiến đến họng mình, đâm thẳng vào đó. Đám đông ngạc nhiên theo dõi cử chỉ anh hùng cuối cùng của người phụ nữ Kitô.

    Thánh nữ Perpétua oai dũng như người đang làm chủ tình thế, như người chiến thắng, tự mình dâng hiến cuộc đời vì lý tưởng Kitô cao cả! Thánh nữ đã chọn Thiên Chúa trên cha mẹ, con cái, dòng tộc, gia đình cùng mọi thứ sang giàu khác.. Phúc cho thánh nữ, vì thánh nữ đã hiểu lời Chúa dạy: “Phúc cho người có tinh thần nghèo khó Vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5,3).

    ----------

    còn tiếp
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

  3. #3

    Mặc định

    Công giáo Rôma không cho phép cha cố có vợ.
    Chính thống giáo Đông phương có trường hợp cho phép cha cố có vợ. Chính vì vậy trong quyển "những linh hồn chết" đại văn hào Nga là Gôgôn có trích câu của tục ngữ Nga (dịch ra là): "kẻ thích ông Pốp, người thích vợ ông Pốp*".
    *ông Pốp là cha cố.
    Không hiểu ông Pốp nào lên thiên đường được nhỉ.
    Last edited by Nhật Nam; 27-01-2014 at 12:56 AM.

  4. #4

    Mặc định

    Thiên đường hay hoả ngục do Chúa quyết định chứ không phải do ta phán đoán mà ra đâu . Nên đừng hỏi : ai sẽ đc lên thiên đàng hay xuống hoả ngục ?

    Cứ sống tốt thì cũng có ngày lên thiên đường à . Cứ lo làm việc lành cho bản thân mình trước đã .

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi zhugeliang140 Xem Bài Gởi
    Thiên đường hay hoả ngục do Chúa quyết định chứ không phải do ta phán đoán mà ra đâu . Nên đừng hỏi : ai sẽ đc lên thiên đàng hay xuống hoả ngục ?

    Cứ sống tốt thì cũng có ngày lên thiên đường à . Cứ lo làm việc lành cho bản thân mình trước đã .
    Nói như zhu thì tốt nhất là đừng cấm cha cố CG lấy vợ hoặc những người đã có vợ vẫn được phong linh mục như Chính Thống giáo Đông phương , hay như mục sư Tin Lành được phép lấy vợ.
    Nếu như vậy sẽ hạn chế rất nhiều việc xâm hại tình dục trong giới chức sắc Công giáo.

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nhật Nam Xem Bài Gởi
    Nói như zhu thì tốt nhất là đừng cấm cha cố CG lấy vợ hoặc những người đã có vợ vẫn được phong linh mục như Chính Thống giáo Đông phương , hay như mục sư Tin Lành được phép lấy vợ.
    Nếu như vậy sẽ hạn chế rất nhiều việc xâm hại tình dục trong giới chức sắc Công giáo.
    Chuyện đó thì sau này họ sẽ nhận hậu quả . Đi tu mà không biết từ bỏ , phàm tục như thế để gây ra tội lỗi thì sau này hậu quả gấp trăm lần . Nhận trọng trách chăn chiên mà không làm tròn bổn phận , còn tạo nghiệp .

    Chúa jesus nói thế này " Anh em không thể vừa làm tôi của thiên chúa , vừa làm tôi của tiền của " .
    Chúa không ép ai theo Ngài . Chúa cho chúng ta chọn lối sống thiện và ác .
    Có thể sống phàm tục , tội lỗi , thác loạn ,... => hoả ngục
    Đức độ , bao dung , hãm mình , ăn năn ,...=> thiên đàng

    Có ai dám vì sự thiện , vì sự thật mà chịu chết không ? Hay tìm cách luồng cúi , gió chiều nào nghiêng chiều ấy , hay né tránh , hay sợ liên quan , rắc rối mà che đậy sự thật bằng 2 chữ : không biết .
    Đơn giản là vậy thôi . Lỗi tại con người mà ra , những cái khác chỉ là phụ , không thể đỗ lỗi là tại giáo hội cấm lấy vợ nên làm chuyện tội lỗi như vậy . Hãy tập thói quen nhận lỗi thay vì nói tại hoàn cảnh , tại sao nhiều người cũng có hoàn cảnh như ta mà họ sống đức độ , ta sống buông thả

  7. #7

    Mặc định

    Để minh chứng cho sự khắc khổ trong việc sống thiện Chúa từng nói :
    " Ai muốn theo thầy thì vác thập giá mà theo "

    Đâu phải sống thiện là dễ đâu . Hạnh phúc thật sự phải trãi qua muôn vàn chông gai . Cũng như vàng thật thì sợ gì lửa .
    Chúng ta không phải người đi tu , nên nhiều lúc Chúa cũng hơi nhẹ tay , phạm lỗi nhẹ cũng bỏ qua .
    Nếu thẳng tay mà xét thì ai trong chúng ta dám nói mình không tội .

    1 xã hội tàn ác , vô tâm , khi ai đó giúp người thì cho là tốt , đáng được Chúa thưởng
    Nhưng : 1 xã hội tràn đầy tình yêu , giúp người là chuyện bình thường , chả có gì đáng thưởng , không giúp mới đáng bị lên án .

    Chúa là cực thánh , cực thiện . Nếu Ngài mà đòi hỏi sự thiện theo tiêu chuẩn ở con người thì chẳng ai trong chúng ta đáp ứng được . Khi làm việc tốt , đừng tự hào cho đó là đủ , khi phạm lỗi nhỏ , hãy ăn năn vì lỗi đó chưa hẳn đã nhỏ đâu .

    Đâu phải đạo hạnh dễ tu đâu ^^

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nhật Nam Xem Bài Gởi
    Nói như zhu thì tốt nhất là đừng cấm cha cố CG lấy vợ hoặc những người đã có vợ vẫn được phong linh mục như Chính Thống giáo Đông phương , hay như mục sư Tin Lành được phép lấy vợ.
    Nếu như vậy sẽ hạn chế rất nhiều việc xâm hại tình dục trong giới chức sắc Công giáo.
    Thùng rỗng kêu to. Càng hiểu biết người ta càng ít nói, thâm trầm và cảm thông. Trong 4 phép toán, phép trừ là… “dễ” nhất, nhưng lại đầy ý nghĩa. Chỉ vì ngu dốt nên mới độc đoán, khắt khe hoặc cố chấp. Khoe khoang và lý sự là “đặc điểm” của đầu óc nông cạn, thiển cận. Dốt thì hay nói chữ để cố che lấp khiếm khuyết của mình.
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nhật Nam Xem Bài Gởi
    Nói như zhu thì tốt nhất là đừng cấm cha cố CG lấy vợ hoặc những người đã có vợ vẫn được phong linh mục như Chính Thống giáo Đông phương , hay như mục sư Tin Lành được phép lấy vợ.
    Nếu như vậy sẽ hạn chế rất nhiều việc xâm hại tình dục trong giới chức sắc Công giáo.
    Biết vui với người vui, buồn với người buồn. Đó là động thái của người có giáo dưỡng, tri thức, biết điều, biết cư xử và thấu cảm. Không gì vô duyên hơn khi người khác khóc mà mình lại cười – hoặc ngược lại. Sự “lệch pha” đó khả dĩ khiến chúng ta trở nên lố bịch, hợm hĩnh và kiêu ngạo.
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  10. #10

    Mặc định

    Đừng bao giờ “xía” vào chuyện của người khác hoặc tò mò chuyện của họ. Vả lại, nói nhiều thì sai nhiều. Nói thiên lệch thì mất lẽ chính, nói huênh hoang rồi đến chỗ đuối, nói xiên xẹo rồi đến chỗ sai trái, nói giấu giếm sẽ đến chỗ cùng. Cibbon nói: “Đàm luận khiến người ta hiểu biết, nhưng im lặng là trường học của sự khôn ngoan”. Im lặng còn là yêu thương, tha thứ, và là cuộc sống.

    Tuân Tử dạy: “Im lặng, lắng nghe, ghi nhớ, hành động và khôn ngoan là 5 cung bậc khác nhau của trí tuệ”. Có thể coi đây là ngũ-cung-sống của cuộc đời. Tóm lại, im lặng là một nghệ thuật kỳ diệu và là cách thể hiện văn hóa cao cấp.
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nhật Nam Xem Bài Gởi
    Nói như zhu thì tốt nhất là đừng cấm cha cố CG lấy vợ hoặc những người đã có vợ vẫn được phong linh mục như Chính Thống giáo Đông phương , hay như mục sư Tin Lành được phép lấy vợ.
    Nếu như vậy sẽ hạn chế rất nhiều việc xâm hại tình dục trong giới chức sắc Công giáo.
    Trích dẫn Nguyên văn bởi HungGiuse Xem Bài Gởi
    Thùng rỗng kêu to. Càng hiểu biết người ta càng ít nói, thâm trầm và cảm thông. Trong 4 phép toán, phép trừ là… “dễ” nhất, nhưng lại đầy ý nghĩa. Chỉ vì ngu dốt nên mới độc đoán, khắt khe hoặc cố chấp. Khoe khoang và lý sự là “đặc điểm” của đầu óc nông cạn, thiển cận. Dốt thì hay nói chữ để cố che lấp khiếm khuyết của mình.
    Đi mà cãi nhau với cha cố, hồng y giáo chủ bên Chính Thống giáo Đông phương hay mục sư Tin Lành đi nhé HungGiuse.
    HungGiuse chính là kẻ dốt mà bảo thủ lại hay nói chữ. Đây là chuyên mục Kitô giáo, thấy nói khác CG là nhảy chồm chồm lên hả HungGiuse. Nhảy chồm chồm như thế thì bỏ biểu tượng:


    đi, HungGiuse không xứng đáng đâu.

  12. #12

    Mặc định

    Đường lối loài người dẫn ta đến chỗ vô vọng
    Đường lối của Thiên Chúa đưa ta đến niềm hy vọng khôn ngoan
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  13. #13

    Mặc định

    Vinh danh Thiên Chúa trên trời
    Bình dan dưới thế cho người lòng ngay
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  14. #14

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi HungGiuse Xem Bài Gởi
    Thùng rỗng kêu to. Càng hiểu biết người ta càng ít nói, thâm trầm và cảm thông. Trong 4 phép toán, phép trừ là… “dễ” nhất, nhưng lại đầy ý nghĩa. Chỉ vì ngu dốt nên mới độc đoán, khắt khe hoặc cố chấp. Khoe khoang và lý sự là “đặc điểm” của đầu óc nông cạn, thiển cận. Dốt thì hay nói chữ để cố che lấp khiếm khuyết của mình.
    Priest và Pastor (cha cố và mục sư).
    Hỏi:

    Cha cố ( Priest ) của Thiên Chúa Giáo La mã, Không được lấy vợ. Còn Mục sư Tin lành thì được lập gia đình và sinh con cái? Sự khác nhau cơ bản giữa Mục Sư Tin Lanh ( Pastor ) và Cha Cố Công Giáo (Priest).

    Trong tác phầm văn học ” The Thorn Bird ” của nữ nhà văn Colleen McCullough Úc(Australia).Có đề cập tới sức mạnh, sự hấp dẫn hơn cả đức tin của tình yêu nam nữ mà cụ thể ở đây là Cha Cố Ralph de Bricassart đã vì Cô gái trẻ Meggie Cleary mà phạm luật của Công Giáo La Mã. Tác phẩm văn học này, sau đó được chuyển dựng thành một bộ phim rất hấp dẫn cho tất cả mọi người và là một đề tài thường xuyên được mổ sẻ. Vấn đề là Giáo Hội Công Giáo La Ma lên án mạnh mẽ quan điểm Tôn giáo của tác phẩm văn học này. Còn Người Cơ Đốc Nhân sẽ phải có nhận xét gì về quan điểm Tôn Giáo trong tác phẩm văn học này?

    Lee.

    Đáp:

    Thưa bạn Lee.

    Trước hết, xin nhắc nhở lẫn nhau là trong Thánh Kinh không hề có chức “Cha” và “Mẹ” (Father and Mother) trong Hội Thánh như Giáo Hội Công Giáo đang dùng. Thậm chí, Đức Chúa Jesus nghiêm cấm môn đồ của Ngài như sau:

    “8 Nhưng các ngươi đừng chịu người ta gọi mình bằng thầy; vì các ngươi chỉ có một Thầy, và các ngươi hết thảy đều là anh em.
    9 Cũng đừng gọi người nào ở thế gian là cha mình; vì các ngươi chỉ có một Cha, là Đấng ở trên trời.
    10 Cũng đừng chịu ai gọi mình là chủ; vì các ngươi chỉ có một Chủ, là Đấng Christ.”(Ma-thi-ơ 23:8-10)

    Vì vậy, trong Hội Thánh và về mặt đức tin, chúng ta đừng chịu ai gọi mình bằng thầy, bằng chủ, và đừng gọi ai bằng cha.

    Giáo hội Công Giáo thiết lập một giai cấp tư tế (priest) và như thế không công nhận địa vị tư tế của giáo dân. Trong khi đó, Thánh Kinh dạy rõ, mỗi Cơ-đốc nhân là một thầy tế lễ. Nhiều giáo phái Tin Lành, về mặt giáo lý thì thừa nhận địa vị tư tế của tín đồ nhưng trong thực tế thì xem hàng ngũ giáo phẩm (những người có phẩm trật trong giáo hội, do loài người tự phong cho nhau) là một giai cấp “bất khả xâm phạm” và hay dùng câu: “Chớ đụng đến người được Chúa xức dầu” để bịt miệng tín đồ. Thật ra, trong Thánh Kinh không có cái mệnh lệnh “Chớ đụng đến người được Chúa xức dầu”. Đây chỉ là một sự bẻ cong lời Chúa để phục vụ cho tham vọng cá nhân và giai cấp! Tín đồ ít đọc Thánh Kinh rất dễ bị hù dọa vì câu “ngụy kinh” này!

    Thánh Kinh chép:

    “Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhơn đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài.” (I Phi-e-rơ 2:9)

    “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng tôi, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và Cha Ngài, đáng được sự vinh hiển và quyền năng đời đời vô cùng! A-men.” (Khải Huyền 1:6)

    Vì vậy, mỗi Cơ-đốc nhân là một thầy tế lễ (priest).

    Trong Thánh Kinh có đề cập đến chức vụ pastor trong Hội Thánh. Nghĩa của chữ pastor là người chăn giữ súc vật, tiếng Hán Việt là “mục tử” như trong một bài thơ của bà Huyện Thanh Quan: “Gõ sừng, mục tử lại cô thôn!” Dân Israel và các dân tộc khác miền Trung Đông rất quen thuộc với hình ảnh của những bầy chiên và những người chăn chiên, vì thế, Chúa đã hình ảnh hóa người chăn và bầy chiên với những người chăm sóc con dân của Ngài và con dân của Ngài.

    Danh xưng pastor lần đầu tiên được sử dụng trong Giê-rê-mi 17:16. Sau đó được nhắc đến trong Ê-phê-sô 4:11. Khi Tin Lành đến Việt Nam, không hiểu vì sao danh xưng pastor được dịch thành “mục sư” nghĩa là “thầy chăn”. Có lẽ do bị tiêm nhiễm nền lễ nghĩa của Khổng Giáo chăng? Nếu thật vậy, chúng ta thấy cái nham hiểm của Satan khi dùng văn hóa làm suy đồi sự khiêm nhường của một chức vụ thánh!

    Không một chỗ nào trong Thánh Kinh quy định hễ làm người chăn chiên của Chúa thì không được lập gia đình. Trái lại, Thánh Kinh chép:

    “1 Vả, Đức Thánh Linh phán tỏ tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ sẽ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỉ dữ,
    2 bị lầm lạc bởi sự giả hình của giáo sư dối, là kẻ có lương tâm đã lì,
    3 họ sẽ cấm cưới gả, và biểu kiêng các thức ăn Đức Chúa Trời đã dựng nên cho kẻ có lòng tin và biết lẽ thật, tạ ơn mà dùng lấy.
    4 Vả, mọi vật Đức Chúa Trời đã dựng nên đều là tốt lành cả, không một vật chi đáng bỏ, miễn là mình cảm ơn mà ăn lấy thì được;
    5 vì nhờ lời Đức Chúa Trời và lời cầu nguyện mà vật đó được nên thánh.
    6 Con giải tỏ các việc đó cho anh em, thì con sẽ nên kẻ giúp việc ngay lành của Đức Chúa Jêsus Christ, được nuôi bởi các lời của đức tin và đạo lý lành mà con đã theo.”(I Ti-mô-thê 4:1-6)

    Sứ Đồ Phi-e-rơ được Giáo Hội Công Giáo xem là “giáo hoàng đầu tiên” là một người có vợ (Ma-thi-ơ 8:4; Mác 1:30; Lu-ca 4:38) và ông dắt vợ theo trong khi đi đó đây hầu việc Chúa:

    “Chúng tôi há không có phép ăn uống sao? 5 Há không có phép dắt một người chị em làm vợ đi khắp nơi với chúng tôi như các sứ đồ khác cùng các anh em Chúa và Sê-pha đã làm, hay sao” (I Cô-rinh-tô 9:4, 5)? – Sê-pha tức là Phi-e-rơ!

    Một trong các tiêu chuẩn của các giám mục (bishop – là người giám sát công tác của các pastor), và các trưởng lão (elders – những người lãnh đạo trong Hội Thánh, từ đó chọn ra pastor và giám mục) là “chồng của một vợ:”

    “Vậy, người giám mục cần phải không chỗ trách được, là chồng chỉ một vợ mà thôi, có tiết độ, có tài trí, xứng đáng, hay tiếp khách và khéo dạy dỗ.”(I Ti-mô-thê 3:2)

    “Mỗi người trong vòng trưởng lão đó phải cho không chỗ trách được, chỉ chồng của một vợ; con cái phải tin Chúa, không được bị cáo là buông tuồng hoặc ngỗ nghịch.” (Tít 1:6)

    Từ thuở ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên người nam và người nữ và chính Đức Chúa Trời phán rằng:

    “Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó.” (Sáng Thế Ký 2:18)

    Thời Tân Ước, Đức Thánh Linh cậy Phao-lô viết những lời răn dạy sau đây:

    “Song, cho được tránh khỏi mọi sự dâm dục, thì mỗi người đờn ông phải có vợ, mỗi người đờn bà phải có chồng.” (I Cô-rinh-tô 7:2)

    Tóm lại, Giáo Hội Công Giáo đã dạy giáo dân nhiều điều sai lầm, trong đó có việc dành riêng chức tư tế cho một số ít người, và buộc số ít người đó phải sống độc thân, không được lập gia đình; bất chấp lời dạy của Chúa. Giáo Hội Công Giáo lập ra những cái gọi là các dòng tu biệt lập để những người muốn xa lánh cuộc đời đi vào đó “tu”; trong khi lệnh truyền của Chúa cho các thầy tế lễ của Ngài là đi khắp thế gian giảng Tin Lành và khiến muôn dân trở nên môn đồ của Chúa. Giáo Hội Công Giáo lập ra những dòng tu mà người vào tu hành hạ khắc nghiệt thân xác của mình như ngủ trên nệm gai, ăn uống kham khổ và dùng roi đánh đập thân thể… trong khi Thánh Kinh dạy thân thể của tín nhân là đền thờ của Đức Thánh Linh, và ai hủy hoại đền thờ của Chúa thì sẽ bị Ngài hủy hoại.
    Về việc sống độc thân hầu việc Chúa thì Thánh Kinh dạy rõ như sau:

    “25 Về những kẻ đồng thân, tôi chẳng có lời Chúa truyền; song nhờ ơn thương xót của Chúa, tôi được làm người đáng tin, nên tôi ban lời khuyên bảo.
    26 Vậy tôi tưởng vì cớ tai vạ hầu đến, một người nam cứ ở vậy là nên.
    27 Có phải ngươi đã bị vấn vương với vợ chăng? Chớ tìm cách mà lìa mình ra. Có phải ngươi chưa bị vấn vương với vợ chăng? Đừng kiếm vợ.
    28 Nhưng nếu ngươi lấy vợ, thì chẳng phạm tội gì; và nếu người nữ đồng trinh lấy chồng, thì cũng chẳng phạm tội gì. Song những người cưới gả sẽ có sự khó khăn về xác thịt, và tôi muốn cho anh em khỏi sự đó.
    29 Hỡi anh em, vậy thì tôi bảo nầy: thì giờ ngắn ngủi. Từ nay về sau, kẻ có vợ hãy nên như kẻ không có;
    30 kẻ đương khóc, nên như kẻ không khóc; kẻ đương vui, nên như kẻ chẳng vui; kẻ đương mua, nên như kẻ chẳng được của gì;
    31 và kẻ dùng của thế gian, nên như kẻ chẳng dùng vậy; vì hình trạng thế gian nầy qua đi.
    32 Vả, tôi muốn anh em được thong thả chẳng phải lo lắng gì. Ai không cưới vợ thì chăm lo việc Chúa, tìm phương cho Chúa đẹp lòng.
    33 Song ai cưới vợ rồi thì chăm lo việc đời nầy, tìm cách cho vợ mình thỏa dạ.
    34 Người nữ có chồng và đồng trinh cũng khác nhau như vậy: ai không chồng thì chăm lo việc Chúa, đặng cho thân thể và tinh thần đều được thánh; nhưng ai có chồng thì chăm lo các việc đời nầy, tìm cách cho đẹp lòng chồng mình.
    35 Tôi nói điều đó vì sự ích lợi cho anh em, chớ chẳng phải để gài bẫy, song để dắt anh em theo lẽ phải, hầu cho không phân tâm mà hầu việc Chúa.” (I Cô-rinh-tô 7:25-35)

    Nữ nhà văn Colleen McCullough là một giáo dân Công Giáo. Bà là một nhà khoa học trong ngành Y và cũng là một nhà nghiên cứu lịch sử xuất sắc. Các tác phẩm của bà có giá trị văn chương, lịch sử, và tâm lý. Nhưng có lẽ bà không hề kinh nghiệm được sự tái sinh cho nên không kinh nghiệm được quan hệ mật thiết giữa một người với Chúa sâu nhiệm, tuyệt vời đến mức nào. Vì thế, bà dễ dàng viết nên một tác phẩm, trong đó, cho nhân vật của mình chọn tình yêu nam nữ hơn là tình yêu của Thiên Chúa. Vì không hề nếm biết tình yêu của Thiên Chúa cho nên bà ca ngợi tình yêu của loài người.

    Thánh Kinh chép:

    “Tình yêu mạnh như sự chết, lòng ghen hung dữ như âm phủ.”(Nhã Ca 8:6)

    Mời bạn suy gẫm tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của câu Thánh Kinh này trong quan hệ giữa bạn và Chúa.

    Thân mến!

    Huỳnh Christian Timothy
    19.03.2007

    Có trích dẫn để tìm hiểu và mong có câu trả lời. Nhưng HungGiuse không trả lời được hoặc không dám trả lời mà nhảy chồm chồm lên. Con chiên của Chúa có những kẻ như như vậy à, ai dạy họ thế, chắc chắn Chúa không dạy.

  15. #15

    Mặc định

    Ông xem lại cái ông trích, ngay sau đoạn bôi đen gần khúc cuối, chính là CÂU TRẢ LỜI đấy. CƯỚI GẢ SẼ gây khó khăn về XÁC THỊT, thánh nhân nói TUY KT KO CÓ LỜI CẤM ĐOÁN, NHƯNG THÁNH NHÂN CÓ Ý KHUYÊN HÃY SỐNG ĐỘC THÂN MÀ LO VIỆC CHÚA. Tui viết lại đại khái, xin hãy đọc kỹ lại PHẦN CUỐI SAU ĐOẠN BÔI ĐEN KẾT TỘI NGƯỜI CG

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi HungGiuse Xem Bài Gởi
    Biết vui với người vui, buồn với người buồn. Đó là động thái của người có giáo dưỡng, tri thức, biết điều, biết cư xử và thấu cảm. Không gì vô duyên hơn khi người khác khóc mà mình lại cười – hoặc ngược lại. Sự “lệch pha” đó khả dĩ khiến chúng ta trở nên lố bịch, hợm hĩnh và kiêu ngạo.
    Nếu một thằng ngu đi đánh bài bị thua mất cả tài sản thì sẽ bị mọi người cười chê, chứ không ai khóc dùm thằng ngu đó đâu HungGiuse hahaha

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nhật Nam Xem Bài Gởi
    Có trích dẫn để tìm hiểu và mong có câu trả lời. Nhưng HungGiuse không trả lời được hoặc không dám trả lời mà nhảy chồm chồm lên. Con chiên của Chúa có những kẻ như như vậy à, ai dạy họ thế, chắc chắn Chúa không dạy.
    Ha ha có nên ngồi lại để nói chuyện không nhỉ? Nếu không vì Chúa không vì sự oai nghiêm của Ngài đã dạy con dân Chúa biết khiêm nhường yêu thương người lân cận hay chính quyền năng của Chúa có thể đã tha lỗi cho ông thì liệu ông có còn ngồi đó mà...phán linh tinh được nữa hay không? Đọc toàn bộ Kinh Thánh Chúa luôn hạ thấp con người để họ biết khiêm tốn mà tìm cách vươn lên.Trong lịch sử công giáo có những sai lầm nhưng đừng nhìn những cái đó để đánh giá công giáo và sự toàn năng của Thiên Chúa. Việt nam là quốc gia luôn chia rẽ chiến tranh liên miên do thù trong giặc ngoài. Ông để lại cái gì cho đời mà luôn khoét sâu vào những nỗi đau tôn giáo đang dần nhạt phai? ông được bao nhiêu tuổi ông đọc được bao nhiêu cuốn sách (?) nhìn thấy được cái gì (?) lịch sử Thiên Chúa Giáo có bao nhiêu tín đồ trung tín (?) họ đã đọc bao nhiêu cuốn sách (?) trải nghiệm cuộc đời họ với Chúa cụ thể ra sao (?) ông có biết gì không ?Mỗi con người là một thế giới thu nhỏ ông biết gì về linh hồn của hàng tỉ con người này (còn sống hoặc đã mất) mà nói lăng nhăng như những gì ông trích dẫn ở trên.Và từ ngày Chúa Giê su giảng đạo và trước đó đã có bao nhiêu tỉ tín đồ thực sự trải nghiệm cuộc sống trong lòng tin vào Chúa (?) ông có con số nào không (?) điều gì đã làm ông tự đưa mình lên trên tất cả những con người yêu Chúa thầm lặng mà ông chưa từng biết tới chưa từng gặp mặt đó ? Tôi thật sự xin lỗi ông vì tôi đã xúc phạm ông nhưng cũng thật sự là buồn nếu ai có một người con như ông song tôi cám ơn Chúa vì nhờ có ông mà tôi có dịp đọc lại Kinh Thánh để hiểu Chúa hơn yêu Chúa hơn và tôi luôn tin rằng Chúa Trời là ánh sáng của Chân lý.Hi vọng lúc nào đó ông tỉnh ra và bắt đầu dọn một phần rác ông đã thải cho đời tôi e là đã quá muộn
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  18. #18

    Mặc định

    HungGiuse lại quy kết rồi. Nếu có đống rác như HungGiuse nói thì là do Chính Thống giáo Đông phương và Tin Lành tạo ra. Tôi chỉ ra hiện tượng, còn rác hay không rác là do nhánh khác của Kitô giáo tạo ra nhé.

  19. #19

    Mặc định

    Ai cũng như Zhu hoặc ít ra như vohinh69 thì cái chuyên mục này cũng đỡ cãi nhau và ít kẻ nhảy chồm chồm lên.


  20. #20

    Mặc định

    Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ --- tiếp theo---

    Truyện: Hạnh phúc thật là thuận theo Ý Trời

    Một cụ già đầu râu tóc bạc, đi không còn vững, nhưng tinh thần vui tươi, vui vẻ chấp nhận cuộc sống với những thiếu thốn tiền bạc và rắc rối trong gia đình. Người ta hỏi cụ:

    - Làm sao cụ có thể an vui như thế?

    - Thưa, tôi suy nghĩ và nhìn đời bằng ba cái nhìn.

    - Như thế nghĩa là gì?

    - Thưa, tôi nhìn lên, nhìn xuống và nhìn ngang.

    - Xin cụ giải nghĩa thêm.

    - Vâng, trước hết, tôi nhìn lên trời và nhớ rằng công việc chính yếu của tôi là đạt tới Nước Trời. Trên đó cha tôi...đang chờ tôi. Tôi luôn sống thuận theo Ý Trời, Ý Cha tôi.

    Rồi tôi nhìn xuống đất, nghĩ rằng tôi sẽ nằm trong đó sau khi chết, một chỗ thật bé nhỏ. Thánh vịnh nói: "3 tấc đất mới thật là nhà"

    Sau cùng, tôi nhìn ngang, nhìn đến biết bao nhiêu người đàn ông, đàn bà, trẻ em bên cạnh tôi, trên khắp trái đất này có khi còn nghèo hơn tôi, cực khổ hơn tôi, bị oan ức hơn tôi, thiệt thòi hơn tôi: có người bị cùi, có người bị điên, có người bị bệnh Aids...Tôi còn hơn nhiều người. Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria, tôi còn sống đây, chưa phải vào Hỏa ngục.

    Ba cái nhìn đó làm tôi sống hạnh phúc, vì tôi biết có Chúa yêu tôi, tôi không than vãn trách móc kêu ca ...như hồi tôi chưa vào đạo Chúa....


    Chúa chúc phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Nghèo Phúc Âm là nghèo thế nào? Chúa Giêsu thương yêu người nghèo. Phúc Âm hay Tin Mừng cũng vậy, được Chúa Cứu Thế đem đến, cách riêng, cho những người nghèo khổ như lời sấm ngôn qua miệng Tiên Tri I-sa-i-a đoạn 61 câu 1, mà Thánh Luca đã nhắc lại:




    - " Ngài đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó " Lk 4:18 )

    Ngài thương yêu cách riêng những người cùng khổ, ở đây, phải được hiểu là: Con người với mọi nỗi khổ, mọi loại cùng khổ. Tinh thần của Đạo Phúc Âm là tinh thần đặc biệt lưu tâm, chú ý, để ý đến, và đặt trọng tâm vào người nghèo. Chúa Giêsu đã lấy người nghèo làm trung tâm điểm của giáo lý Ngài dậy.




    -" Nếu con muốn trở nên toàn hảo, hãy bán hết gia tài sản nghiệp đi, và đem cho người nghèo, con sẽ được kho tàng châu báu trên trời. Rồi đến theo Thày" (Mt.19:21) . Xin hãy suy nghĩ, việc bán gia tài của mình và cho hết đi có ý nghĩa gì?

    Hãy nghe đây:

    a- Chúa Giêsu đã phán dạy ở một nơi khác: " Vì khi Ta đói, ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát ngươi đã cho uống, Ta bơ vơ, ngươi đã đón mời Ta, Ta cần áo quần, ngươi đã cho ta đồ che thân, Ta đau yếu, ngươi đã chăm sóc cho Ta, khi Ta bị giam cầm trong tù ngục, ngươi đã thăm viếng Ta" (Mt.25:35-36) . Đó là „cái nghèo“ thực tế nhất.









    b- " Người mù được thấy, kẻ què đi được, người hủi được chữa lành, người chết được sống lại, và Tin Mừng được rao giảng cho những kẻ nghèo khổ " (Mt.11:5). Chính Chúa Kitô đã thực hiện công ơn cứu chuộc của Ngài qua kiếp sống của một người nghèo. Các thánh nhân của Thiên Chúa, tất cả đều đã sống nghèo, đã quay lưng lại trước những sang giầu và của cải vật chất nơi trần thế (Phanxicô Assisi…)

    c- Tinh thần của Đạo Phúc Âm là tinh thần bỏ tất cả để vác lấy Thánh Giá mà theo Chúa: " Những ai muốn theo Thày, hãy từ bỏ mình, vác lấy thánh gía của mình mà theo Thày" (Mt.16:24)




    Ta hãy tự hỏi khi nhìn vào những thực tế hôm nay: Chúa đi đâu mà theo? Có muốn theo Chúa không? Bỏ mình là bỏ cái gì? Bỏ mình nghĩa là gì? Bỏ mình được định nghĩa là thế nào? Bỏ mình được hiểu là làm sao? Vác lấy thánh gía mình là thế nào? Tại sao lại gọi là thánh giá? Thánh gía là gì? Tại sao lại phải vác? Kéo, lôi, hoặc đẩy, hay bỏ lên xe hơi, lên máy bay mà chở có được không? Nhờ ai khác, như thuê người khác vác (chuyên chở) cho mình như nhờ Bưu Điện chuyên chở, giao hàng (vác giúp) có được không?



    Chí lý lắm: Nghèo khổ là thánh gía nặng nhất! Nghèo khổ là thánh gía mỗi người nghèo phải vác lâu nhất. Có khi vác cả một đời cho tới khi nhắm mắt lìa đời cũng vẫn còn nghèo, còn khổ! Nhưng cũng chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã phán: " Phúc cho kẻ nào có tinh thần nghèo khó ". Nghèo khổ là thứ thánh gía ai cũng ghê sợ, ai cũng ớn, ai cũng tởn, ai cũng tránh, ai cũng chỉ muốn quay đi! Ai cũng chỉ muốn trúng số độc đắc cả! Đối với những người nghèo suốt cả một đời thì thánh gía này dữ dằn, ác liệt, ghê gớm lắm. Nhiều người chịu không nổi, nên đã qụy ngã dưới sức nặng của thánh giá (nghèo) này, của nỗi khổ này. Họ đã tự tử. Họ đã trở thành những tay trộm cướp!







    Truyện


    Thầy Napoléon Almoint đã kể câu chuyện vui sau đây:

    Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với hai trong số muôn vàn môn đệ của mình, và Ngài đưa họ đến một đầu đường, rồi trao cho mỗi người một cây thập giá giống nhau và nói: Mỗi người các con hãy vác lấy thập giá này đi đến cuối đường trước mặt, Thầy sẽ đợi các con ở đó. Nói xong, Chúa biến đi. Hai đồ đệ bắt đầu vác lấy thập giá mình. Người thứ nhất vác lấy thập giá mình cách nhẹ nhàng, chân rảo bước ngày càng nhanh, xem ra như không có vấn đề gì cản trỏ hay gây phiền phức cho anh cả. Nội trong ngày, anh đã đến cuối đường và gặp Chúa Giêsu đang chờ sẵn nơi đó.



    Người thứ hai, mãi sang chiều ngày hôm sau mới đi trọn con đường. Có vẻ anh rất mệt mỏi, không còn vác nổi mà chỉ còn biết kéo lê cây thập giá. Thập giá của anh xem ra mỗi lúc một nặng thêm. Anh gần như kiệt sức. Vừa gặp Chúa, anh phàn nàn ngay: Chúa đối xử bất công quá. Chúa cho con cây thập giá rất nặng. Còn anh kia, Chúa cho cây thập giá nhẹ hơn, nên anh đã đến trước con từ lâu rồi.

    Gương mặt vui tươi của Chúa bỗng trở nên nghiêm nghị. Chúa đáp: „Này con, Ta không đối xử bất công đâu. Hai cây thập giá giống nhau và nặng bằng nhau. Con đừng trách! Thập giá nhẹ mà trở nên nặng là vì bên trong tâm hồn con. Ngay từ lúc đầu, trong suốt thời gian đi trên quãng đường Ta chỉ, con luôn luôn than phiền, trách móc, thập giá nặng, và càng than phiền, thì thập giá càng trở nên nặng nề. Người bạn đồng hành với con đã đến trước vì lúc nào tâm hồn cũng tràn đầy an vui yêu thương. Tình yêu làm thập giá trở nên nhẹ nhàng. Tình yêu là đường ngắn nhất dẫn tới Thiên Đàng.








    Cái nghèo (Thánh Giá của mỗi người, ai cũng có và phải vác tới đích), như những niềm đau, như những thánh gía, đặt trên vai ta, nhiều lúc như muốn xô đẩy mình qụy ngã dưới sức nặng của nó. Chỉ khi ta biết chấp nhận nó như một thực tế, một thực tại, trong hiện tại, với sự thật, trong nếp sống của mình, hân hoan với nó, bằng lòng với nó, bằng lòng với kiếp nghèo của mình, sung sướng, vui tươi và thoải mái với mình trong cảnh nghèo, để bước theo Chúa Giêsu, thì nỗi khổ này mới nhẹ nhàng đi được mà thôi. Sách Thánh dạy: " Vì lời rao giảng về thập Thập Giá, đối với những người hư mất, thì là điên dại, nhưng với chúng ta, những kẻ được cứu rỗi, thì lại là quyền năng của Thiên Chúa"(1Cor. 1:18) .

    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 09-01-2014, 05:02 PM
  2. Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 20-01-2013, 01:20 AM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 31-08-2012, 07:29 AM
  4. Trả lời: 32
    Bài mới gởi: 07-01-2012, 11:27 PM
  5. Nguyên Thủy Thiên Tôn Thuyết Thăng Thiên Đắc Đạo Chân Kinh--元始天尊說升天得道真經
    By The_Sun in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 02-09-2011, 05:31 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •