Cùng tìm hiểu về 8 mối phúc thật, 1 phương cách dẫn đưa chúng ta đến thiên đàng

-------------------------------------------------------------------------------



Bài Giảng Trên Núi / 8 mối Phúc thật


Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:




“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”.



I. PHÚC CHO NGƯỜI CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ.

1. Một mẫu gương sống khó nghèo: thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan.



Chúa nhật 19-10-1997, Ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 đã tôn phong thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh. Nữ “Tiến sĩ Hội Thánh” thứ ba mươi ba (33) trong Giáo Hội Công Giáo là một nữ tu Dòng Kín Cát-Minh Lisieux, nước Pháp, qua đời ngày 30-9-1897, hưởng dương 24 tuổi.

24 tuổi đời và 100 năm sau ngày sinh nhật trên trời, thánh nữ trẻ tuổi Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, đã đạt tột đỉnh vinh quang mà Giáo Hội Công Giáo dành cho một vị thánh! Vị thánh ấy lại là một nữ tu dòng Kín Cát-Minh! Và bí quyết nên thánh của Chị lại hệ tại việc sống cách phi thường tất cả những chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày và sống tâm tình khiêm tốn, khó nghèo, đơn sơ phó thác của một trẻ thơ..

Trong cuốn Truyện Một Tâm Hồn, Hồi Ký của Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và được Kim Thiếu - tức linh mục Vũ Đức Khâm - dịch, có đoạn sau đây.

Đức CHÚA GIÊSU dạy rằng: “Ai xin, các con cứ cho, ai lấy gì của các con, cũng đừng đòi lại” (Lc 6,30). Cho mọi người đến xin, chưa thỏa bằng tự lòng quý mà đem đến đãi; và khi người ta xin tử tế mà cho cũng không khó; nhưng chẳng may, người ta dùng lời khiếm nhã, làm cho linh hồn chưa thấm nhuần đức bác ái, bực tức khó chịu, rồi tìm trăm lý nghìn lẽ để thoái thác, hay ít nhất, cũng làm cách để người xin hiểu được họ khiếm lễ đã, đoạn mới làm ơn, hay là hộ giúp chút việc vặt, chút việc vặt ấy giá mà giúp ngay thì chẳng mấy chốc, thế mà đã mất thì giờ gấp mấy để nói lên những lý lẽ không đâu.

Nếu ai xin cũng cho đã là khó, càng khó thay sự để người ta lấy của mình mà chẳng đòi lại. Ôi thưa Mẹ, con nói là khó, lẽ thì con phải nói hình như khó mới phải; bởi vì, “ách Chúa nhẹ nhàng và êm dịu” (Mt 11,30): hễ ghé vai gánh liền thấy dịu dàng êm ái.

Con vừa nói Chúa chẳng muốn con đòi lại của đã bị lấy; với con, lẽ đó cũng rất tự nhiên vì thật con chẳng có chút gì là của riêng tư; con lấy sự túng thiếu làm vui lòng vì nhân đức khó nghèo mà con đã khấn giữ. Trước đây con đã tưởng mình chẳng còn để lòng dính bén của hèn thế gian; nhưng từ khi biết hiểu thấm thía lời Chúa dạy, con mới nhận ra mình còn hèn kém lắm. Chẳng hạn khi con vào bàn vẽ để làm việc, thấy bút mực lộn xộn, hoặc thiếu cái thước, hoặc mất con dao, thì hầu như không nhịn được. Con phải ép mình hết sức mới khỏi thốt ra những cung giọng chua chát khi đòi lại các vật liệu cần thiết ấy.

Đã hẳn, con có thể đòi lại những vật dụng cần thiết ấy mà chẳng lỗi giới răn Chúa, miễn là đòi lại cách khiêm nhượng vui vẻ; nhưng không, con muốn ở như người ăn xin, giơ tay van của bố thí, chẳng được người thương cho thì cũng chẳng lạ lẫm gì, nào ai nợ gì thứ người ăn xin mà đòi!. Ôi! linh hồn biết vươn lên trên những tâm tình tự nhiên ấy, sẽ cảm thấy mình được tràn trề bình an khoan khoái dường nào! Nhất định không có sự vui sướng nào sánh được cùng sự vui sướng của tấm lòng thật sự yêu thích sự khó nghèo.

Kẻ thật lòng nghèo khó, khi thành tâm xin một sự cần thiết mà người ta không cho, người ta lại lấy cả chút mình đang có, sẽ biết làm theo lời Chúa dạy: “Các con hãy cởi cả áo ngoài cho kẻ cố tranh tụng lấy áo trong” (Mt 5,40). “Cởi cả áo ngoài” như con hiểu, là từ bỏ cả chút quyền lợi còn lại, suy mình như tôi bộc, như nô lệ người ta. Một khi đã cởi cả áo ngoài, người ta đi càng dễ, chạy càng nhanh, cho nên Chúa GIÊSU đã phán thêm: “Và bất cứ ai bắt con đi theo một cây số, con hãy theo họ cho tới cây số thứ ba” (Mt 5,40).

Ai xin cũng cho, con chưa lấy đó làm đủ, con phải đi trước lòng ước ao của người khác. Con phải tỏ mình rất hảo tâm, rất hân hạnh được giúp đỡ chị em, và khi ai lấy đồ vật con quen dùng, con ở như sung sướng vì đã bớt được một bận rộn ..

Giáo huấn và tâm tình sống tinh thần nghèo khó của vị thánh Nữ Tiến Sĩ Hội Thánh Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, làm liên tưởng đến một câu chuyện xảy ra tại nước Đức. Ngày 7-5-1997, hãng thông tấn Pháp AFP, truyền đi bản tin tựa đề: “Ông chủ quảng đại nhất nước Đức để lại hãng thầu của mình cho một người phu quét đường”. Đó là ông Hans Baranek, 64 tuổi. Ông là chủ hãng thầu quét dọn đường phố ở Nuremberg, thuộc Bang Bavière, miền Nam nước Đức. Hãng ông Baranek có 12 người phu với 21 xe cam nhông dùng để xúc tuyết và quét vĩa hè. Khi đến tuổi về hưu, ông bàn với người em gái, quyết định giao lại hãng thầu của gia đình cho một trong các người phu của ông. Ông nói: Những người làm công trung tín của chúng tôi đã giúp chúng tôi kiếm được nhiều tiền. Vì thế, lẽ nào chúng tôi không để lại hãng thầu của chúng tôi cho họ?.. Và anh Mustafa Berk - một người di dân Thổ Nhĩ Kỳ - 38 tuổi, đã trúng giải. Khi được loan báo tin vui, anh Berk cảm động nói: “Tôi vẫn ao ước được độc lập. Vì thế, lúc nhận tin này, tôi tưởng như mình đang sống trong mơ!”

Thật thế, “tin vui” đẹp như một “giấc mộng”, nghe như chuyện thần tiên. Mọi người chia vui với anh Mustafa Berk - giống như chuột sa hũ nếp - và nức lời ca tụng ông chủ thầu có quả tim vàng! Phúc cho ông Hans Baranek, vì ông có tinh thần nghèo khó, không bám víu vào của cải chóng qua ở đời này!

Ông Gioan Trịnh Xuân Vũ (1899-1986) sinh ngày 28-3-1899 tại Ninh Phố, Trung Hoa. Ông là một nhà luật học quốc tế danh tiếng, một nhà nhân bản học đặc sắc, một người đã kết hợp hài hòa những nét tuyệt hảo của nền văn hóa cũ mới Đông-Tây. Sau cùng, ông là một người đã sống đạo Công Giáo một cách toàn vẹn. Khi theo học Luật tại Thượng Hải do giáo hội Mê-tô-đích điều khiển, ông đã xin rửa tội theo giáo hội này. Sau đó, nhờ quen thân với một gia đình Công Giáo đạo đức - gia đình ông Doãn Chí Hoàng - và nhất là, sau khi được đọc truyện thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, ông Vũ quyết định theo đạo Công Giáo. Ông lãnh nhận bí tích Rửa Tội ngày 23-12-1937, từ tay cha Georges Germain, dòng Tên, Viện Trưởng đại học Bình Minh ở Thượng Hải.

Trong tác phẩm “The Science of Love”, bằng Anh ngữ, ông Gioan Trịnh Xuân Vũ đã viết nhiều chủ đề khác nhau dựa trên đời sống và giáo huấn của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux. Xin trích dẫn chương suy tư về cách thức thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU sống tinh thần nghèo khó như thế nào.

“Tình Yêu đem lại Tự Do”. Tự nguyện chọn làm nô lệ tình yêu, Chị Têrêxa đã được tự do như chim trời Bay nhảy. Càng khắng khít chặt chẽ với Hôn Phu của Chị, càng ngày Chị càng không dính bén với tạo vật. Ngay từ khi còn nhỏ, Chị đã thấu triệt “tạo vật hư không nay còn mai mất”:

“Chúa GIÊSU không phải là bạn chí thiết của con sao? Con chỉ biết nói chuyện với Chúa. Nói chuyện với chị em, dù là truyện đạo đức, linh hồn con cũng dễ nhọc mệt lắm. Thật sự, những lúc trơ trọi một mình, nhiều lần con cũng cảm thấy tẻ lạnh. Nhưng con thường hay tự an ủi bằng cách ngâm nga lời thơ đẹp đẽ mà cha con đã có lần đọc cho con nghe: Thế gian không phải là nhà Thuyền con xuôi bến chính là thế gian” (Một Tâm Hồn: MTH). Như thế, Chị Têrêxa đã nhìn thế gian dưới ánh sáng vĩnh cửu và đã dọn đường cho Chị biết thoát ly tư lợi, mặc dù nó quyến rũ Chị. Chị dần dần cắt đứt tất cả các mối ràng buộc khiến phải nô lệ tạo vật: sự ham muốn làm đẹp, sự quyến rũ của nghệ thuật, bản năng chiếm hữu của cải vật chất, hoặc những cái mà Chị gọi là “kho tàng thiêng liêng”:

“Nếu tôi là người có của, tôi không thể nhìn một người đói khát mà không cho ăn uống. Tôi thực hành điều ấy trong đời sống thiêng, tùy kiếm được nhiều ít, tôi đem phân phát ngay cho những linh hồn đang bên bờ vực thẳm trầm vong đời đời. Hành động như thế, thật không còn lúc nào nói được là tôi hành động cho bản thân tôi nữa” (MTH).

Một chị Nhà Tập đã kể lại giai thoại sau đây: “Có người xin tôi chiếc kim đan mà tôi vẫn thích dùng, tôi lấy làm tiếc lắm. Bấy giờ Chị thánh bảo tôi: Ồ, chị giàu có quá! Chị không thể sung sướng được đâu!” (MTH). Lời khiển trách nhẹ nhàng nhưng xúc tích dường nào! Người ta có thể giàu có với một chiếc kim đan, và có thể nghèo khó với một triệu bạc.

Biết Bao người không thoát ly tạo vật! Chiếm hữu một chiếc kim thôi có thể ngăn trở họ lên cao hơn trong Nước Trời. Trái lại, nếu chỉ coi mọi vật như những phương tiện hữu ích để giúp đỡ tha nhân, thì chiếm hữu cả vũ trụ cũng không làm hại tâm hồn họ, vì họ luôn có “tinh thần nghèo khó”. Chị Têrêxa cắt nghĩa bài học bàn tay trắng cho một chị Nhà Tập như thế này:

“Một cách duy nhất cưỡng bách Chúa đừng phán xét ta điều gì hết, là ta ra mắt Chúa với hai bàn tay trắng. Làm sao lại như thế được? Rất đơn giản. Chỉ việc đừng nắm giữ gì cả, có gì thì đem cho hết đi. Phần em, giá mà Chúa cho em sống tới 80 tuổi, em vẫn cứ nghèo như bây giờ, em không biết tần tiện, có cái gì em liền cho phí ngay để mua chuộc các linh hồn. Nếu em cứ cố gắng đợi mãi đến giờ chết mới đưa ra mấy đồng xu nhỏ của em để xin Chúa định giá cho thì có mà chết! Chúa sẽ khám phá ra nhiều rỉ sét ở mấy đồng tiền ấy, và chắc chắn em sẽ bị đem vào lọc lại trong Luyện Ngục” (MTH).

Đối với Chị thánh, chúng ta còn phải thoát ly cả những việc đạo đức riêng tư:

“Chị phải trục xuất những công việc cá nhân, sử dụng một cách ý thức thời giờ đã quy định, nhưng với một tâm hồn dấn thân thực sự. Có lần em đọc thấy dân Israel xây thành Giêrusalem, một tay xây, một tay cầm gươm. Đó là hình ảnh mà chúng ta phải làm, chứ đừng để mình hoàn toàn bị thu hút vào công việc!”.

Phải chăng đó cũng là tư tưởng của Lão-Tử khi ông nói: “Hãy làm việc mà đừng quá để ý đến công việc của bạn”. Nhà triết học lão thành Trung Hoa đã học được điều ấy sau Bao năm kinh nghiệm, còn Têrêxa, cô bé người Pháp, đã học được ở trường TÌNH YÊU. Phải, tình yêu, tình yêu quảng đại tận hiến vô giới hạn, đã giải thoát tâm hồn Chị và chấp cánh cho Chị bay cao. Chị Têrêxa nói với chị Céline:

“Chúng ta hãy thoát ly trái đất này, hãy bay lên núi TÌNH YÊU để bông hoa xinh đẹp là tâm hồn chúng ta trú ngụ trên ấy. Hãy thoát ly cả những an ủi của Chúa GIÊSU để có thể kết hiệp với chính Người mà thôi”.

Và Chị thánh Têrêxa đã hy sinh tất cả hữu thể Chị. Chị không còn gì để thoát ly nữa ngoài việc từ bỏ chính tư tưởng muốn thoát ly của Chị. Chị quả thật là chiếc bình chứa đựng Chúa Thánh Thần. Đó là tất cả. Chỉ có THÁNH THẦN THIÊN CHÚA mới có thể đào tạo vị hôn thê nhỏ của Người “leo lên tới cao độ trọn lành nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như chú hươu con”.

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan không được nâng cao hơn các vị thánh khác, nhưng chị đã hiện đại hóa sự thánh thiện. Chị thuộc loại những nhà cách mạng biết canh tân trong khi giải phóng. Giáo Hội Công Giáo là một thân thể sống động, không ngừng phát triển qua bao thế kỷ. Nhưng vào thế kỷ 20, thế kỷ mà chúng ta có thể gọi được là một thế kỷ tâm lý tế nhị, cần có một vị thánh như Têrêxa, một trong những nhà tâm lý thâm thúy nhất, một trong những nhà phân tích cực kỳ tinh tế. Nhờ Chị, sự thánh thiện không còn là một cái gì cao siêu, mà như nước thấm vào tận cõi vô thức sâu thẳm. CHÚA THÁNH THẦN luôn tạo nên những vị thánh mới, để đáp ứng với nhu cầu của thời đại. Vào thế kỷ 16, thế kỷ phát sinh chủ nghĩa cá nhân, CHÚA THÁNH THẦN đã làm nên một Têrêxa Avila (1515-1582) mà linh mục Hernandez sau khi tiếp xúc với thánh nữ đã tuyên bố: “Người ta nói với tôi đó là một phụ nữ đặc biệt. Nhưng theo tôi, đó là một nam-tử mà tôi chưa hề thấy một người thứ hai như thế”.

Cũng không phải là vô lý mà CHÚA THÁNH THẦN đã làm nên trong thời đại chúng ta một “trẻ thơ lão luyện”. Thế kỷ chúng ta chính vì đã già, nên rất cần trở nên trẻ thơ. Chị thánh Têrêxa đã vạch cho chúng ta con đường đó. Với tính đa cảm, trực giác, vui tươi, sắc sảo, tế nhị, thanh khiết, Chị đã thực hiện trong đời sống thiêng liêng những điều mà các vĩ nhân đương thời đã làm trong lãnh vực hoạt động của họ.

(trích "The Science of Love - Khoa Tình Ái" của ông Gioan Trịnh Xuân Vũ, bản dịch Việt ngữ của Thạch Sơn, tái bản năm 1996: "YÊU", trang 36-39).


Ma quỷ đã gieo rắc vào lòng con người “cơn sốt tiền của” để tạo nên hai hạng người: giàu và nghèo. Người giàu sống vì tiền, chỉ biết tiền, vơ vét thật nhiều tiền. Vàng bạc, tiền của là thần tượng của người có tinh thần giàu có! Trong khi đó, người nghèo sống vì thù hận. Họ oán ghét người giàu, kẻ có quá nhiều vàng bạc tiền của. Họ oán ghét và thầm rủa mọi tai ương khốn khổ cho người giàu! Cho dù họ không đích thân giết chết người giàu, nhưng lòng nguyền rủa của họ cũng mang trọng tội như tội sát nhân vậy!



Đối nghịch với hai hạng người trên đây là “người có tinh thần nghèo khó”. Người có tinh thần nghèo khó thì dù cho họ có tiền rừng bạc biển, giàu nứt khố đổ vách, họ vẫn không hề phạm một tội nào vì tiền của. Trái lại, họ khôn ngoan dùng chính tiền của để mưu ích cho chính mình và để giúp đỡ người khác. “Người giàu” có tinh thần nghèo khó giống như một giòng suối mát nơi sa mạc khô cằn hoang vắng. Giòng suối quảng đại cho đi nước uống giải khát cho tất cả những ai tìm đến với giòng suối. Cho dồi dào, cho không tính toán, cho cách vui vẻ ..



“Người có tinh thần nghèo khó” thì dù cho họ có nghèo xơ nghèo xác, nghèo rớt mồng tơi, họ vẫn hạnh phúc trong cảnh huống nghèo khó của mình. “Người nghèo” có tinh thần nghèo khó luôn sống vui vẻ, bởi vì, họ không bị cơn khát tiền của dày vò. Người có tinh thần nghèo khó thường được hưởng một giấc ngủ an bình, êm dịu.

Sự giàu có thường được hiểu theo nghĩa vật chất như: vàng bạc, nhà cửa, ruộng đất, đồ dùng, nghĩa là tất cả những gì đem đến tiện nghi sung túc cho cuộc sống con người. Thế nhưng, sự giàu có cũng nằm trong lãnh vực tinh thần và luân lý nữa, chẳng hạn như: các mối liên hệ họ hàng thân thích, các tình nghĩa bạn bè, các hiểu biết trí thức và những quyền bính cùng trách nhiệm công cộng, vv.

Đối với sự giàu có vật chất thì “người có tinh thần nghèo khó” không mảy may bận tâm tới vấn đề tiền của. Không thèm khát tiền của, không tham muốn tiền của, không oán ghen người có nhiều tiền của. “Người có tinh thần nghèo khó” luôn luôn an vui với số phận của mình, sống thanh thản ngày qua ngày và phó thác tương lai trong tay Chúa.

Đối với sự giàu có luân lý thì “người có tinh thần nghèo khó” không dính bén hoặc bám víu vào bất cứ tình yêu và mối liên hệ nào: cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, họ hàng, bạn hữu, trí thức, chức quyền, vv. Khi con người có lòng dính bén tức là con người phạm tội. Chính nhờ sự “thoát ly” khỏi những ràng buộc của cải luân lý mà con người được tự do hoàn toàn, được độc lập thật sự và được hưởng nếm hạnh phúc toàn vẹn.

Giới răn Thiên Chúa đòi buộc con người phải yêu thương cha mẹ, con cái, vợ chồng và “yêu thương người khác như chính mình vậy”. Đúng thế. Con người phải yêu thương trước tiên cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, rồi đến người khác: người ở gần cũng như kẻ ở xa. Thế nhưng, con người phải yêu thương trong mức độ được Chúa vạch ra: “như chính mình”. Điều này có nghĩa là, chúng ta phải “yêu mến Chúa trên hết mọi sự, yêu mến hết lòng hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”.. THIÊN CHÚA phải là đối tượng trên hết và là đối tượng duy nhất của con người.

Thánh nữ Perpétua thuộc một dòng quý tộc ở Bắc Phi. Gia đình thánh nữ được hồng ân lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chỉ trừ người cha. Năm 303, Perpétua bị bắt cùng với 4 tín hữu Công Giáo khác. Lúc đó Perpétua là người mẹ trẻ (22 tuổi) với đứa con dại còn bú. Chính thánh nữ đã tự tay viết lại những diễn tiến, những chiến đấu trong thời gian bị bắt bớ và bị giam cầm.

... Giữa lúc cơn bách hại các tín hữu Kitô nổi lên dữ dội, cha tôi thường dùng đủ mọi lý lẽ cũng như tình phụ tử để thuyết phục tôi từ bỏ ý định xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Tôi thưa với cha: - Ba có nhìn thấy bình cắm hoa đang để trên bàn, hoặc bức ảnh treo trên tường, hoặc bất cứ vật dụng nào khác trong căn phòng này không? - Có, Ba thấy. - Người ta có thể gọi chúng bằng những tên khác không? - Không - Con cũng vậy. Con không thể tự đặt cho mình một tên nào khác ngoài tên con là KITÔ HỮU.

Nghe tôi trả lời thế, Ba tôi không còn tự chủ được nữa. Người nhẩy chồm đến bên tôi, như muốn móc cặp mắt tôi. Tuy nhiên, người chỉ đấm đá tôi túi bụi rồi bỏ đi, thất bại trước những lý lẽ rành mạch của tôi. Những ngày sau đó Ba tôi lánh mặt, không thèm gặp và nói lời nào với tôi. Tuy nhiên thái độ này đem lại cho tôi sự thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi được hoàn toàn bình an để chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Và chỉ vài ngày sau, chúng tôi bị bắt và bị tống giam trong hầm tối.

Ngục tối đối với tôi thật vô cùng khủng khiếp. Tôi chưa bao giờ trải qua một kinh nghiệm như thế. Các tù nhân chúng tôi bị dồn thật chặt, không chỗ trống, không ánh sáng, không khí thở. Tiền bạc bị tước đoạt hết. Riêng tôi bị dằn vặt vì cuộc sống khốn khổ của đứa con nhỏ còn bú, tôi mang theo với mình. Sau một thời gian vô cùng khốn khổ, hai thầy phó tế có nhiệm vụ săn sóc chúng tôi, đút lót tiền bạc, nên người ta di chuyển chúng tôi đến một trại giam khác, ít khốn cực hơn.

Một thời gian sau, có tiếng đồn chúng tôi sẽ bị đem xử. Vừa nghe tin, Ba tôi tức tốc chạy đến nhà giam thăm tôi, lòng buồn sầu vô hạn. Ba tôi tìm cách thuyết phục tôi lần cuối. Người nói với tôi:

- Con ơi, hãy thương xót cha già. Hãy nhìn mái tóc bạc của cha. Hãy thương đến cha của con, nếu cha còn xứng đáng được con gọi là cha. Con ơi, vì đôi bàn tay này, đôi bàn tay đã từng chăm sóc cho con đạt đến nét đẹp vẹn toàn của tuổi đời con hôm nay, và vì tình thương đặc biệt cha dành cho con, cha thương con hơn các anh em con, xin con đừng làm cho cha nên trò cười cho thiên hạ. Xin con hãy nhìn các anh em con, hãy nhìn mẹ con và cô con, hãy nhìn đứa con nhỏ của con, nó sẽ không thể sống sót, nếu chẳng may con có mệnh hệ nào. Xin con hãy rút lại quyết định của con, hãy từ bỏ đạo Công Giáo, để tránh cho gia đình ta khỏi rơi vào cảnh danh dự quyền hành bị phá hủy tan tành. Không ai trong gia đình ta còn được ăn nói tự do, nếu chẳng may con bị xử tử!

Ba tôi vừa nói vừa khóc, vừa cầm hôn tay tôi, vừa sụp lạy dưới chân tôi. Trong nỗi niềm thương đau khôn tả, Ba tôi không còn gọi tôi bằng con nữa, nhưng gọi bằng bà. Tôi cảm thấy thương cha vô vàn, nhưng nhất là tôi thương cho số phận của cha, người duy nhất trong gia đình, không chia xẻ niềm hãnh diện được tuyên xưng đức tin Công Giáo của tôi. Tôi đành an ủi cha già yêu dấu:

- Xin Ba hãy ngước mắt nhìn đoạn đầu đài này. Không gì xảy ra trên đó mà không do thánh ý Chúa. Cha biết rõ là định mệnh đời sống chúng ta không tùy thuộc chúng ta, nhưng nằm trong tay Thiên Chúa.

Nghe tôi nói như vậy, Ba tôi giận dữ bỏ ra về..

Một ngày, chúng tôi bị đưa ra công đường để chịu thẩm vấn. Tiếng đồn lan nhanh đến độ đã có đông người chen chúc đến tham dự cuộc thẩm vấn. Khi đến lượt tôi bị gọi, tôi liền chạm trán với Ba tôi, đang có mặt cùng với đứa con trai nhỏ của tôi. Ba tôi kéo tay tôi và nói:
- Hãy thương đến con trai của con.

Thấy thế, vị quan tòa nói với tôi:

- Hãy thương đến mái tóc bạc của cha già và hãy thương đến tuổi đời non dại của con trai ngươi. Hãy đốt hương tế hoàng đế.

Tôi trả lời: “Không, tôi không tế hoàng đế, vì tôi là tín hữu Kitô”.

Cùng lúc đó cha tôi tiến lại gần tôi, để thuyết phục tôi, nhưng quan tòa ra lệnh đuổi Ba tôi ra và đập mạnh vào người. Tôi nghe như tiếng đập giáng xuống trên người tôi, và cảm thấy đau nhói nơi tim. Tôi thật cảm thương cho tuổi già kém may mắn của cha tôi..

Ngày 7-3-303, thánh nữ Perpétua bị đưa ra hý trường, làm mồi cho bò cái húc, cùng với thánh nữ Félicitas, một phụ nữ nô lệ.

Theo tục lệ, trước khi vào hý trường, các tử tội phải khoác lên mình tấm áo của các phụ nữ có nhiệm vụ tế thần. Nhưng các Kitô hữu một mực từ chối và nói: “Sở dĩ chúng tôi bị điệu đến đây là vì chúng tôi cương quyết bảo vệ sự tự do Kitô của chúng tôi, và vì chúng tôi từ chối tế thần. Mạng sống của chúng tôi đánh đổi hai quyết định trên đây của chúng tôi. Vậy xin tôn trọng quyết định của chúng tôi, vì đó cũng là điều mà quý vị đồng ý”. Nghe vậy, quan tòa đành phải chấp thuận.

Vào hý trường, Perpétua bị đối đầu với một con bò cái. Nó húc tung thánh nữ lên không. Thánh nữ bị rơi ngửa xuống đất. Vừa khi có thể ngồi dậy, thánh nữ liền lấy tay kéo chiếc áo che kín một phần thân thể bị lộ ra vì một mảnh áo bị rách đi. Tiếp đến, thánh nữ lấy kẹp, kẹp lại mái tóc bị xỏa tung. Cử chỉ kín đáo đoan trang và quý phái của thánh nữ, như muốn nói với đám đông đang chứng kiến cuộc tử đạo của thánh nữ rằng:

“Một phụ nữ Kitô tử đạo, không nên bước vào vinh quang Nước Trời với mái tóc xõa tung, vì đó là dấu hiệu của tang chế”.

Sửa soạn tề chỉnh xong, Perpétua bình tĩnh đứng lên. Nhìn thấy người nữ nô lệ Félicitas bị bò húc, đang nằm sóng soài dưới đất, Perpétua tiến lại, giơ tay cho nàng Félicitas nắm và kéo người nữ nô lệ đứng thẳng lên. Nhìn thấy hai phụ nữ Kitô oai dũng đứng lên, đám đông bỗng như cảm thấy hổ thẹn thất trận trước nét anh hùng của hai phụ nữ. Họ im lặng thán phục và những người có nhiệm vụ điều khiển cuộc hành quyết vội vàng đưa hai phụ nữ Kitô vào cửa dành cho những người còn sống.

Tại đây, thánh nữ Perpétua được một tín hữu tân tòng chạy đến chăm sóc. Chính lúc này, thánh nữ mới trở lại với thực tế. Như người vừa trở về sau một thời gian xuất thần, thánh nữ ngạc nhiên nhìn chung quanh và hỏi: “Bao giờ thì tôi mới bị đưa ra cho bò cái húc?”. Và khi được trả lời là xong rồi, thì thánh nữ không tin, cho đến khi nhìn thấy những vết thương trên mình và áo quần rách nát, lúc đó thánh nữ mới hiểu là mình đã bị bò cái húc. Thánh nữ liền nói với người em trai đang đứng đó với người tân tòng rằng: “Xin anh em hãy kiên vững trong đức tin và đừng sợ hãi gì khi nhìn thấy các tín hữu Kitô bị hành hung như thế”.



Nhưng rồi đám đông lại lên cơn điên, la ó đòi phải dẫn các phụ nữ Kitô ra hý trường. Lần này thì thánh nữ Perpétua thực sự nếm cái chết đau đớn thể xác. Tên đao phủ cầm gươm tiến đến gần thánh nữ, nhưng anh ta lúng túng vụng về chỉ đâm vào hông thánh nữ. Thánh nữ Perpétua thét lên một tiếng lớn, rồi nắm chặt lấy tay người đao phủ, hướng tay anh ta cầm gươm tiến đến họng mình, đâm thẳng vào đó. Đám đông ngạc nhiên theo dõi cử chỉ anh hùng cuối cùng của người phụ nữ Kitô.

Thánh nữ Perpétua oai dũng như người đang làm chủ tình thế, như người chiến thắng, tự mình dâng hiến cuộc đời vì lý tưởng Kitô cao cả! Thánh nữ đã chọn Thiên Chúa trên cha mẹ, con cái, dòng tộc, gia đình cùng mọi thứ sang giàu khác.. Phúc cho thánh nữ, vì thánh nữ đã hiểu lời Chúa dạy: “Phúc cho người có tinh thần nghèo khó Vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5,3).

----------

còn tiếp