Trang 2 trong 3 Đầu tiênĐầu tiên 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 21 tới 40 trên 44

Ðề tài: BẢO NGỌC THƯ QUYỂN 1 (NỬA PHẦN 1 )

  1. #21

    Mặc định

    Minh diệu là thoái điền bút ở phía trước mặt. Quý địa, mà hồ nghi không biết là bút, vậy xem họa hình trên đây để nhận rõ:
    Phụ đoán bút sơn
    - Tiến điền bút là nghịch thủy chảy ra
    - Thoái điền bút thì thuận thủy chảy ra
    - Đoạn đầu bút là ở đằng sau tay ra
    - Vi quan bút ở trên án nẩy ra
    - Học sĩ bút là ngọn cao giáp mây
    - Trạng nguyên bút là đâm xiên lên cao và ở Cấn vị
    - Tú tài, Cử nhân bút là ở tên giá bút ra
    - Họa sĩ bút là loạn bút tầm thường, chẻ 2,3 ngọn
    - Thái sư bút là thường ở phương Kiền, Khôn, Cấn, Tốn
    - Bút đầu đới thạch ( đá) là giao dịch bút, ngoại sứ, ngoại giao bút.
    “ Ẩn tiền nhược kiến bút đấu khai; thập tao phó cử cửu không hồi”! Nghĩa là: Phía trước án, thấy đầu bút mở ra, là “ ma thiên bút”… thì mười (10) khoa đi thi, chín (9) khoa trượt về không!
    “ Bút giá hậu đầu, tài cao bất đệ”! Nghĩa là: “ Bút gác ở đằng sau mộ, thì học giỏi, nhưng thi không đậu!
    Dư khí
    Dư khí có hai loại: Đại dư khí và Tiểu dư khí.
    Đại dư khí: Đại long mạch kết đại địa rồi sau lại thừa khí, đi ra lại kết tiểu địa nữa.
    Tiểu dư khí: Cái huyệt tinh thè lè ra ở dưới, trước mặt, như lưỡi con trai, con sò hoặc môi con cá chiên, bằng phẳng, gọi là “ nhân lậu” ( cái mền, cái đệm).
    Đại dư khí thì đại long mạch mới có; hoặc cực vượng chi long mới có, mà không có cũng được. Còn tiểu dư khí thì không nên thiếu, thiếu dư khí là long bạc nhược, thiểu nhân dinh ( ít con cháu) câu chữ: “Bạn vô dư thiệt, hãn sinh nhi” là nghĩa đó.
    Luận hình
    - Tại sao cứ phải nói đến hình nọ, hình kia.
    - Bởi vì, xưa cho những diệu lý ( lẽ hay) khó nói cho thường nhân cùng thông hiểu, nên mượn lấy cái hình tượng để ví vào thì dễ hiểu biết hơn, vì những sơn đầu cũng có thành hình thực. Cho nên kinh Ngọc tủy bàn luận về hình thể, nhưng vô hình thì có nhiều mà hữu hình thì ít.
    Mỹ địa ( đất tốt, hay) không hẳn là phải thành hình thể gì cả, mà đời cứ muốn bàn nói đến hình thể, là vì tinh thần ( tinh phong, gò đống) không biết gọi nó là gì để phân tách ra được; chi, cán cũng không phân biệt được, sinh khí cũng chẳng rõ là thế nào, huyệt pháp cũng chẳng am tường, thiên tinh lý khí cũng chẳng hiểu ra sao, như thế thì không thể nói ra được một câu. Mà đạo lý thì không thể không nói, không làm sao được. Cho nên chỉ luận hình nọ, hình kia, cho người ta nghe, thì mới vui thích. Chứ thực ra không cần hình tượng gì cả, cũng vẫn hay, vẫn quý. Là vì hay dở, quý tiện, đều do địa khí sinh ra, chứ không phải là ở hình tượng. Vậy những người hiểu hình thì không phải là hạng Minh sư.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  2. #22

    Mặc định

    La thành
    La thành là cái sơn sa bao bọc chu vi cả phía trước, phía sau, bên tả, bên hữu của huyệt, như cái thành lũy rộng lớn. Đất nào là cực đại cán long, thì mới có những tùy sa của bản thân đi ra, quanh làm La thành. Còn các đất khác thì mượn khách sa họp lại mới có La thành. Được một lần bao là kín, không có chỗ khoáng khuyết là tốt rồi. Nếu nhiều lần thì là đại quý địa.
    La tinh, Cầm tinh, Thú tinh
    Hoa biểu, Hấn môn, Bắc thần

    * La tinh là cái gò đống hoặc đống đá nhỏ ở thủy khẩu, hoặc 1,2,3 đống nổi lên ngăn chặn nước chẩy, để đóng cửa giữ nội khí khỏi tán. Cái tinh phong này với tổ long mà ứng liền ra, hẳn là Đại tinh khởi tổ thì thủy khẩu mới có những tinh ấy, đó là Hỏa tinh dư khí nên gọi là La. Những long sơn thấy Hỏa tinh khởi tổ thì mới phát đại quý! Vậy thấy La tinh, tức là biết quý long, quý huyệt rồi.
    * Tinh phong cũng có cái Ngũ tinh hoặc Cửu tinh biến ra, hoặc thành Quy (rùa), Xà ( rắn) hình, thì gọi là Cầm tinh.
    * Thú tinh cũng là những tinh phong ở thủy khẩu, nhưng Thú tinh thì cao lớn , Cầm tinh thì thấp bé. Những tinh này tương phối thì hay.
    Nếu một bên như hình Sư tử, một bên như hình con voi, thì gọi là Sư tượng bả thủy khẩu. Thú tinh thì hình biến hóa nhiều hoặc như Hổ, hoặc như Lân, như Sư, như Tượng v.v…
    * Hãn môn là hai cái sơn đứng cao lên như canh gác thủy khẩu, nghĩa là ngăn thủy khẩu, nên gọi là Hãn môn. Hãn môn thì phần nhiều là thuộc về Cửu tinh. Chỉ có Thái âm, Thái dương thì gọi là Nhật Nguyệt hãn môn, là đất cực quý.
    * Hoa biểu, nếu hai cái sơn hình mộc tinh, thì gọi là hoa biểu hãn môn, một cái cũng là Hoa biểu.
    * Bắc thần là cái đại sơn ở thủy khẩu, thường là ba tinh: Liêm trinh, Phá quân, Lộc tồn. Ở xa trông như Thái tổ sơn một phương, nhưng ở gần mà xét thì là cái chi cước gần thủy khẩu, không hay xa ra, nên gọi là Bác thần. Tinh này tốt quý, phi Đế vương địa thì không hay có!
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  3. #23

    Mặc định

    giỏi kinh, khâm phục bác, ,mong mình có kai duyên để được học

  4. #24

    Gia nhập
    Oct 2012
    Nơi cư ngụ
    Thái Bình, Việt Nam
    Bài gởi
    7

    Mặc định

    Cháu xin kính nhờ bác giúp nhà cháu với, Cuối năm nay (2013), nhà cháu sẽ cải táng mộ phần cho Ông nội cháu, vậy cháu nhờ bác xem giúp nên đặt mộ phần ông cháu theo hướng nào ạ. Ông cháu sinh 1915, mất năm 2006.

    Cháu xin cảm ơn và kính chúc bác sức khỏe!

  5. #25

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nguyenmanhthang01 Xem Bài Gởi
    giỏi kinh, khâm phục bác, ,mong mình có kai duyên để được học
    Thực ra mình không thông thạo môn địa lý này . mình chỉ load bài viết của Giáo sư Hoàng-Văn-Hưởng mà thôi. Xin cám ơn bạn đã quá khen
    Thân
    470525

    :wave:
    Last edited by 470525; 16-05-2013 at 03:13 PM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  6. #26

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi ducthoan.huce48 Xem Bài Gởi
    Cháu xin kính nhờ bác giúp nhà cháu với, Cuối năm nay (2013), nhà cháu sẽ cải táng mộ phần cho Ông nội cháu, vậy cháu nhờ bác xem giúp nên đặt mộ phần ông cháu theo hướng nào ạ. Ông cháu sinh 1915, mất năm 2006.

    Cháu xin cảm ơn và kính chúc bác sức khỏe!
    Thực chất mình không giỏi Phong thủy này đâu, mà chỉ sưu tầm các sách mà bạn chưa biết load lên đây để mọi người tham khảo.
    Thân
    470525
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  7. #27

    Mặc định

    Đi tìm long ( mạch ) , thì trước hết phải biết Sơn từ phương nào lại, đột khởi lên? Thủy từ phương nào chẩy lại giao hợp? Phía nào là trước mặt? Phía nào là sau lưng? Đâu là cán long? đâu là chi long? Chỗ nào là chuyển thân? Chỗ nào là giao hội, tụ hợp? Đại lược cả một vùng đó, nhập trong tâm mình rồi. Theo như chỗ đó thì đâu là chủ kết? Đâu là tùy kết? Có tể suy tìm được. Nếu không nhìn thấy thì phải lên đỉnh núi cao mà trông mới thấy long tích và rõ được tổ tông, cũng không phải là khó! Chỉ khó là theo long tích ( xương sống mạch), đi thẳng đến chỗ tận xứ ( chỗ hết sơn), mà lại không phải tận xứ, vì không thấy khai trướng, không thấy biến đổi phục khởi. Tức là long mạch còn đang đi, chưa phải chỗ kết huyệt. Còn tiềm ẩn, sẽ tiếp khởi tông sơn khác, thì phải theo long mà tìm. Hễ thấy khai trướng, bất luận dài, ngắn, rộng, hẹp hễ thấy trung xuất (xuyên tâm) vi động là kết huyệt đấy.
    Vậy thì Tổ long cũng có cách của Tổ long, Tông long cũng có cách của Tông long. Khai trướng cũng có cách của Khai trướng, Xuất mạch cũng có cách của Xuất mạch, Cán có cách của Cán, Chi có cách của Chi. Mà Chi Cán chuyển thân, hành độ, khúc triết, đốn khởi mọi cách là do long sơn biến chuyển ở khoảng quá quan, độ giáp, chẳng chỗ nào là không có cách. Nhưng mà chỗ giáp là tối khẩn, cần ở hai bên nghinh, tống, bài bố thị vệ, ủng hộ để cung cấp chỗ không khoáng, bồi bổ chỗ khuy khuyết ( thiếu thốn); hết thẩy cũng có cách tác dụng thần điệu cả, đều đặt ở chỗ hành độ.
    Đời xưa, Dương Công chỉ luận long tinh; Liêu Công chỉ luận huyệt tinh; Lại Công chỉ luận phương vị. Cả ba nhà đều không tường hành độ, không biết long biến hóa chính hay tùy.
    Vậy thì thành tụ hoặc bại hoại, là bởi ở những hành độ kể trên. Nếu không tường hành độ, thì dầu có thánh thần đến thế nào cũng vẫn còn là mơ hồ! Vậy trung gian các nhà Triết lý đã công luận: Phải hiểu thấu hành độ của long thì mới là tường tận.
    Thái tổ mà nhiều Hỏa tinh là cách Long lâu, Phượng các, Xung tiêu phượng ( Phượng vượt mây), Cái thiên kỳ ( cờ che lưng trời) v.v… Lại còn những biến hóa kỳ quái, không thể gọi tên được và còn đặc khởi nhiều cách, như là Trướng thiên thủy, Thấu thiên thổ, Hiến thiên kim, Xung thiên mộc, Nhật hoa vân lạn, Trùng vân phúc vụ, Bảo điện, Bảo tòa, Phi tiên, Phi long v.v…những tinh thể ấy đều có thể là Tổ sơn, nhưng cũng có nhiều cách lạ kỳ:Ngũ tinh tụ giảng, Ngũ tinh quy viên, Ngũ tinh thố chí; hoặc Thiên trì, Ngưỡng thiên hồ ( là những cái hồ, cái ao ở trên đỉnh núi cao, hàng mấy chục, trăm dặm), sức người không tể đi tới được, hoặc rộng dài hàng mấy trăm ngàn dạm, trên đỉnh ngọn thường cao khuất mây mù như núi tuyết, có khi đóng thành khối băng, muôn ngàn xưa không tiêu tan được, đấy là Cực đại Thái tổ sơn, nhưng trong địa cầu này cũng ít có, thường thường Thái tổ sơn là đặc khởi lên mấy ngọn núi cao ở trong xứ, miền, tỉnh, quận. Kế đó, lại phục khởi ra mấy rặng núi dài rộng, trông thì thấy mà đi thì không thể tới cùng tận; trong đó thường cũng có nhiều đại địa phú quý, thịnh vượng bền lâu.
    Nếu những hành độ hoặc cách cục nghiêng bên tả, lệch bên hữu, vừa phản vừa phục; hoặc như là gầy gò trông như lột da, róc thịt là thế lực bình thường, cũng có thể yên định phần mộ hoặc dương cơ kết phát phú quý, nhưng không phồn thịnh lâu bền, là vì tổ sơn, tông sơn, lực bạc, cớ vậy!
    * Tông sơn đại khái cũng như tổ sơn, hành long trường viễn. Khoảng giữa ngừng lại, phục xuống một tiết ( đoạn) rồi lại đột khởi lên tinh thần ( sơn cao) để mở thêm tông phái ( chi nhánh). Nhưng tổ sơn phần nhiều là lão đại ( to lớn) thì tông sơn mới cường tráng. Tổ thì một, nhưng tông thì phân ra 2,3 hoặc 5,10 rặng núi không chừng, càng nhiều càng quý.
    Tông cũng có đại tông, tiểu tông, cũng như thân cây nẩy cành, phân nhánh, mầm, lá vô hạn.
    Tổ sơn mà điệp điệp ( nhiều núi) Tông cũng trùng trùng (nhiều lần núi). Tức là Tổ có dày công, Tông có đức lớn. Tông cũng gọi là Thiếu tổ, tiết nào khai trướng là hay có kết huyệt. Khai trướng dài rộng là đất to, ngắn hẹp là đất nhỏ.
    Khai trướng là quý cách của hành long. Ví như quý nhân ra đi, hẳn là có những cờ biển, trưng bày ra hai bên uy nghi rực rỡ!
    * Hỏa tinh khai trướng gọi là Liên hoa trướng, cư sỉ ( răng cưa); Kiềm vân (mây hình cái kiềm); Phượng quán ( mào phượng); Kê quán ( mào gà); Long diễm ( vây rồng).
    * Mộc tinh gọi là Lan hoa trướng; Nhất lâm xuân duẫn ( một rừng măng non); Mãn sàng nha hốt ( dầy giường hốt ngà); Vạn hốt triều thiên ( nhiều hốt chầu trời).
    * Mộc hỏa tương liên gọi là tản thương ( dàn súng); Liệt kích ( hàng dáo); Bút trận (nhiều ngọn bút) v.v…
    * Thủy tinh khai trướng gọi là Vân mẫu trướng ( ý nói Vương mẫu trên mây); Thủy tinh ( sao sáng trong nước); Phù dung trướng ( hoa phù dung).
    * Thổ tinh khai trướng gọi là Bình ( cái bình phong) hay là Liệt bình ( một dãy bình phong) trướng.
    * Thủy, thổ tương bạn ( liền nhau) gọi là thủy thổ liên vân. Chi có Kim tinh thì không khai trướng. Liên kim tức thành thủy, gọi là Vân Mẫu trướng hay là Phù dung trướng ( khai trướng hình như hoa cây phù dung).
    Khai trướng quý nhất là hoành phi, trường đại ( sơn sa buông ra ngang và dài rộng, một, hai dặm hoặc 5,7 dặm không chừng; hoặc mấy trăm dặm càng dài, rộng, lớn, cao, càng quý, tức là đại địa ở trong khu vực đó. Có chỗ khai một lần, chỗ khai 2,3 lần hoặc 5,10 lần bao bọc không chừng, càng nhiều lần bão nhiễu càng quý thêm bấy nhiêu, tức là đại quý, đại địa mới có trùng trùng điệp điệp sơn sa loan bão như vậy.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  8. #28

    Mặc định

    Tóm tắt: Khai trướng là mở màn, tức là long sơn đương di lững lại rồi mở ra hai bên tả, hữu, như con chim xòe ra hai cánh, hoặc ngắn , hoặc dài, lìa tổ, tông đi xa ra, và khởi phục; thường biến hóa ra nhiều hình dạng như Long lâu, Phượng các, Bút, Kiếm, Cờ, Trống. (Xem các cách họa đồ hình kiểu cách kể trên).
    Trướng khai ra hai bên, khoảng giữa trướng thò sơn hình gì ra chẳng hạn: đấy gọi là xuyên trướng trung hành hay là khai trướng xuyên tâm cũng vậy. Chính là nơi kết huyệt ở đó, và quý cách là ở đó.
    Khai trướng trung xuất, mà có cái sơn hình Hỏa tinh buông rủ xuống, gọi là “ Trướng nội tướng quân”hay là “Trướng hạ quý nhân” tựa như quý nhân xuất tướng, tức là quý cách đó.
    Giải thích thêm
    - Thế nào là khai trướng?
    - Ở chỗ long thân đâm thò sơn khác ra hai bên. Ví dụ, như con chim xòe hai cánh ra, hay là hai cánh cửa mở ra vậy.
    - Thế nào là Trung xuất? là xuyên tâm?
    - Ở chính giữa chỗ khai trướng mà có long sơn thò ra là trung xuất hay là xuyên tâm cũng thế. Ví như người trong cửa nhô ra vậy.
    Ở dưới Tổ sơn hay Tông sơn và dưới long tiết đều có chỗ xuất mạch.

    Chính diện trung xuất là cách quý nhất ( số 1, ở khoảng giữa phía trước), nhưng trời đất cũng có nhiều cái kỳ dị, núi sông cũng có nhiều cái kỳ, nên địa lý cũng phải quý những cái kỳ, chứ không thể nhất định. Vì có những cái tinh phong không tác chính diện, và cũng có cái trung xuất là giả ( dối) mà kỳ xuất lại là chân ( thực).
    Đạo trời đất thì cái trung chính là nhất, nhưng ở chỗ trung chính không định thể thì phải tùy ở cái tinh thần mà lấy làm trung chính. Cho nên tinh phong có cái chính diện mà còn sợ không phải là chính diện và cũng có cái trung xuất mà còn sợ không phải là cái trung xuất; Bởi vì, mạch có cái trung xuất, có cái kỳ xuất là thiên địa an bài, chứ không phải là người tự hiếu kỳ.
    Vậy tự thuật: Thấy rõ một chỗ Tổ, Tông bạt khởi như Long lâu, Phượng các, Triển khai trướng dực, chính giữa rủ xuống một cái long mạch, ai trông thấy mà không bảo là chân! Thế mà giả! Vì nó chuyển đi chưa được một, hai tiết hốt nhiên đoạn tuyệt, ngoảnh về bên tả, nhìn về bên hữu, đều thấy bức bách, ( chật hẹp) nghiêng lệch, thô ngạnh không biến hóa; hoặc bên sinh, bên tử v.v…Nếu nhầm mà cứ cho là đúng và cưỡng làm thì tất nhiên bại tuyệt!
    Nhưng Minh sư thì không lầm, liền theo tìm ở Kiên ( vai); hoặc ở Giác ( góc), hễ thấy được một cái long mạch xuất tinh xảo, uyển diệu ( dịu dàng, mầm dẻo) rồi nhìn xem phía trước, phía sau, ben tả, bên hữu thấy sơn thủy hồi hoàn loan bão, đường tụ, án triều, khoan dung ( rộng rãi) tương xứng mới là chân xuất. Nhưng còn phải xem cả sa thổ có nhuận sắc, có sinh khí, tức là cây cỏ tốt tươi; nếu thạch cốt thô lộ hoặc cát rời, sỏi vụn, khô khan, cây cằn cỏ héo, tức là tử khí vô mạch, thì đều là giả xuất. Nếu hạ táng tức là tài tán, gia vong! Nhân đinh tuyệt tự!
    Thai phụ
    Thai phục là hai tinh phong Thư, Hùng ở trên long tích, hướng diện vào nhau. Thư, Hùng ( đực, cái) giao cấu thành thai. Một tinh phong hướng về đằng trước, một tinh phong hướng về đằng sau, là cả hai tinh ngoảnh mặt vào nhau.
    Tinh phong sau là Hùng, gọi là Phục.
    Tinh phong trước là Thư, gọi là Thai.
    Long mạch thì theo đằng sau lưng Thai tinh chạy đi, có hình như thế thì hay kết huyệt.
    Tinh này trông tương tự như hình Kim ngưu chuyển xa. Kể ra có nhiều hình thể, nhưng phác họa một hình đại khái dưới đây để suy xét tế nhị.
    Last edited by 470525; 16-05-2013 at 03:33 PM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  9. #29

    Mặc định

    Những thời sư xưa nay, phần nhiều chỉ thấy long sơn khởi phục nhiều thì cho tốt. Có biết đâu khởi phục nhiều , cũng chưa phải là long thật tốt, vì khởi phục nhiều là thể độ của chi long, chứ như đại cán long, thì bất luận cao hơn, hay bình cương, thường hay ngang nhiên, đi thẳng lưng, không hay khởi phục và cũng không đột tinh phong nữa, nên có câu: “ Chính long đầu thượng bất sinh phong” là chỉ vào nghĩa thế! Nếu long mạch đi thẳng băng được vài ba dặm thì “ quý bất khả ngôn”, ( hay không thể nói xiết), hoặc một dặm hay nửa dặm, mà kết huyệt, đều là quý huyệt, thượng hạng cả.
    Phần nhiều người chỉ biết lấy khởi phục là hay, mà không biết hay ở chỗ nào, chính là hay ở cho đoạn long bình trực ấy ( đi thẳng và băng).
    Và chỉ thấy nói long sơn trường trực là quý, thích ý cho rằng hay có biết đâu trường trực, lại không phải là quý long, mà là cái thể độ của tiện long. Chứ như quí long thì bất luận là núi cao, hay đồi bằng đều phải mở dương hai cánh, rộng ngang ra hai bên, ( tức là khai trướng). vì có mở rộng ngang ra, thì mới là đại nghinh, đại tống ( đưa đón nhiều) thì mới có nhiều kiểu quý, cách hay.
    Vậy chỉ có “ hoành khoát chi long” ( long sơn mở rộng ngang) mới là cục quý, bất luận cán long hay chi long đều là đại quý cả. Chính là cái hay ở chỗ hoành khát đó, chứ không phải long sơn trường viễn ( dài xa) mà cho là cực hay, thì chưa thực là danh sư.
    Chính trong sách địa lý của các Lý gia cổ truyền, cũng đã có mâu thuẫn, tương phản ( trái nhau) về những cái chưa xác, hay là chưa thấu đáo, hoặc không đúng với “ Thiên địa chi chính khí”. Nhưng mỗi cái tương phản, lại là một cái hay, vì đã công khai triết lý, phân tách rõ rệt, chứng kiến kinh nghiệm, không còn chối cãi được nữa, thì mới công nhận là phải, đúng là chí lý.
    Ghi thêm về Cán Long và Chi Long
    A. – Cán Long thì phần nhiều là những núi cao lớn, hùng cường, cương trực. Đi thăng bằng, không hay khởi phục và không hay đột khởi tinh phong ở trên long tích, trong rất là nguy nga, đồ sộ, tôn nghiêm, thẳng thắn, không chầu hướng vào chi long. Hoặc đi dài mấy trăm dặm, mấy ngàn dặm không chừng. Phân ra nhiều đại chi, tiểu chi hai bên tả, hữu, làm sơn sa hộ vệ tiền nghinh, hậu tống. Khởi phục bác hoán, biến hóa tinh phong, thành muôn ngàn kiểu quý, cách hay. Trùng trùng, điệp điệp, phô trướng, cao ngất giáp chân mây! Dưới thì hai bên khe to, suối lớn, là nội thủy chẩy theo. Ngoài xa thì trường giang, đại hà, thủy lai triều tụ. Kết huyệt phần nhiều ở trên đỉnh núi, lấy những núi cao làm long, hổ bao vi kết cục. Lấy sông to, hồ rộng, hoặc vịnh biển, làm minh đường tụ thủy v.v… Thật là bao la, quảng đại như vạn lý trường thành. Những chỗ có đại thể như vậy, tức là đại địa cao quý, tất nhiên phát phúc, sinh ra những người thông minh, tuấn kiệt, cực phẩm nhân gian, như hạng Hoàng vương, Đế Bá, Hùng Tướng phi thường, vi nhân thiên hạ! Ít nhất cũng công hầu, khanh tướng, xưa kia ( tức là cấp Tổng thống, Thủ tướng, Quốc trưởng thời nay).
    Những đại địa này, thường hay ở nơi sơn lâm hiểm trở, khi đi xem phải kiếm lối đi lên đỉnh núi cao mà chiếu, thì may ra mới nhận được long mạch từ đâu phát nguyên. Chỗ nào khởi đính, chỗ nào quá giáp, chỗ nào phân tán, chỗ nào đoàn tụ v.v.. Chỗ phân tán long mạch còn đang đi. Cần nhận biết chỗ Sơ lạc ( mới đầu xuống), trung lạc ( quãng giữa), mạt lạc ( đoạn cuối); xem ba đoạn này âm dương thế nào, mà tế nhận kết huyệt hoặc huyệt ở chỗ khởi phục, hoặc ở chỗ bình cương, hoặc ở chỗ bình dương chẳng hạn. Thấy chỗ nào sơn xuyên tụ hội là sơn chỉ thủy giao, tức là kết cục, huyệt trường ở trong vòng nơi ấy. Nếu huyệt trường ở vào sơn lâm hiểm trở thì khó mà chân đơn bước tới được.
    Ngày xưa, Cao vương ( Cao Biền) sang đô hộ nước ta, y là người am hiểu địa lý. Y làm cái diều to, rồi ngồi lên trên mới trông được chỗ có đại địa; vì vậy y đã biết, mà triệt mất mấy cái đại long mạch có đại địa của nước Nam ta.
    Hiện tôi đã được mục đích thấy ở khu làng Triệu, Cung Bái và vùng Vàng Gián thuộc tỉnh Hải Dương giáp Bắc Giang, do giải núi Huyền Đinh, phát nguyên tự dẫy núi tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây Trung Hoa ( Thập vạn đại sơn) qua vùng Móng Cái, Quảng Yên phân ra một giải Đông triều về mé biển, một giải qua xuống Lục Nam đi đến Sùng Nghiêm, Kiếp Bạc giáp Lục đầu giang.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  10. #30

    Mặc định

    Khi tôi mới xem ở khu đầu ngoài, thấy có chỗ kết đại huyệt và nhiều kiểu quý huyệt lấy làm mừng; sau đi sâu vào bên trong, để xem nguyên lai, thì mới biết là đã bị cắt đứt mất cuống mạch rồi! Có chỗ đào xẻ sâu xuống, chứng bốn, năm mươi thước, chiều ngang chừng hai, ba mươi thước, chiều dài có chỗ ba, bốn năm trăm thước; công trình tổn phí có thể hơn người Pháp xẻ núi làm đường xe lửa, ở các đèo núi cao! Ai trông thấy cũng phải tiếc và không khỏi thán hận! đáng trách con người thâm độc của nước Trung Hoa!
    Ngày nay, muốn đi xem, nếu lên núi không thể được, thì có cách hay hơn Cao Biền ngày xưa, là dùng phi cơ trực thăng thì tiện nhất!
    B. – Chi Long thì phần nhiều là đê tiểu bạc nhược, không hùng cường như cán long, thể độ thì đa số là khởi phục bác hoán, đa sinh phong loan ( biến hóa ra nhiều tinh phong vòng cong), phân ra chi nhánh sơn sa hai bên tả, hữu và hay thiên thẹo lệch lạc. Hình thế thì phần nhiều là ngắn hẹp và triều bão vào cán long làm tùy tòng. Chỗ xuất mạch ( mạch đi ra) thì không lộ rõ, hình như là lén lút ẩn tích; những tinh phong thì thấp nhỏ, đa số là tiểu đôi và tiểu phụ ( gò đống thấp nhỏ) hành độ thì giắt díu, dây dưa, cong queo, kết cục thì nhỏ hẹp, hay thiên về một bên, ít cân đối. Đại khái Chi long là thế.
    Nếu như chi trung cán, hay cán trung chi, thì tự lập riêng một thế cục, dầu nhỏ, dầu lớn cũng không dựa thế nào cán long, tức là “ tự kỷ thành gia”, “ biết lập tiểu giang sơn” ( ví như người: riêng mình tự một khu vực, không ỷ lại khuất phục người nào). Các tinh phong sơn sa hai bên long hổ triều bão, cũng như cán long không khác, chỉ phân biệt nhau là đại cục thế với tiểu cục thế. Tức là đại cán thì đại tụ, tiểu cán thì tiểu tụ; đại chí thì cũng tiểu tụ, tiểu chi cũng có tụ nhưng tụ chút ít. Tuy tụ nhiều, tụ ít khác nhau, nhưng tình ý cũng đều như nhau cả.
    Cũng có chỗ “ Thư Hùng lưỡng chi tịnh xuất” ( hai chi cùng đi song song ra) thì chi Hùng ( đực, mạnh) là chủ, chi Thư ( cái, yếu) là tùy, thì kết huyệt ở chi chủ (Hùng) thường thường là quý hơn.
    Nếu hai chi tương đương, không phân biệt Thư, Hùng thì cả hai đều cùng kết huyệt. Chỉ phân biệt quý, tiện; ở chỗ có cách và không có cách thôi.
    Kết huyệt thì rất nhiều dạng vẻ khác nhau, không thể kể xiết, chỉ kể đại khái như là “ Lão cán sinh nộn chi” ( cành già biến ra nhánh non) thì huyệt kết ở nộn chi ( cành non); hoặc trước thấp sau thấp, tiết giữa cao lên, xét xem tinh diện ( mở mặt) hướng về bên tả thì huyệt ở bên tả, mặt hướng về bên hữu thì tìm ở bên hữu. Nếu khoảng giữa không phân khai, cón đương đi, thì huyệt ở đoạn sau, hay đoạn cuối; nếu cuối cùng ( tận đầu) mà sơn phi, thủy tẩu thì tức là không tụ, không có huyệt và huyệt kết ở đoạn giữa; nếu thấy chỗ nào sơn thủy tụ hội, loan hoàn cung bão ( vòng cong ôm vào), hình thế kín đáo tôn nghiêm, là chỗ ấy có huyệt quý, hoặc âm thịnh dương suy, thì huyệt ở chỗ âm, dương thịnh âm suy, khi huyệt ở chỗ dương v.v…
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  11. #31

    Mặc định

    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  12. #32

    Mặc định

    Còn như long mạch ở miền bình dương ( đồng bằng) thì phần nhiều là di tông thất tích ( mất dấu tích cuống mạch) không biết ở đâu ra. Những chỗ ấy thì phải xem nước ở hai bên giáp long, chảy về phương nào, thì mới định được long lai, nếu không thì là đứt ngang đâu mất rồi khó mà suy lượng ra. Ở vùng bình dương có chỗ mạch đi chỉ hơi gợn lên một chút ít, đến tận nơi mới tấy, chứ ở xa mấy trăm thước thì không biết có mạch, nên gọi là “ Thảo xà, hôi tuyến chi mạch” ( con rắn luồn trong bãi cỏ, sợi dây tro tàn). Những tinh thể chỉ đột lên thấp nhỏ như là hình Lư tiên, Ngọc xích v.v… ( xem đồ hình sẽ rõ) như có, như không,khiến phải nghi hoặc? Vậy phải tế nhận ở chỗ chuyển mạch xuyên điền, truyền giác, hình như giây nọ dắt dây kia, như là bóng dáng nối đuôi, theo hút thôi. Hễ thấy có đột khởi tinh phong ( gò đống) là có mạch, bất luận lớn nhỏ, dài ngắn hễ đường bình thản ( bằng phẳng) mà có chỗ đột cao lên, là chỗ ấy hay có huyệt, nên có câu: “ bình trung nhất đột, tối vi kỳ” là nghĩa đó.
    Hoặc ở giữa hồ ao, đầm vũng mà có gò đống nổi lên, và thể chất kiên cố ( bền nguyên thổ) là khí mạch rất tốt. Hoặc bên cạnh chỗ nước mà có huyệt đá ( bãi đá liền với đất) cũng có huyệt hay, nhưng ít người biết, nên có câu: “Thạch huyệt bàng tủy nhân mạc thức, cánh hữu chản nội phù du lạc”. Nghĩa là: “ Huyệt đá ở bên cạnh nước, người không biết, nhưng có báo hiệu là như có cái màng váng nổi trong cái chén nước”.
    Trên đây là kể đại khái thể thức Chi long, cán long hành độ; còn về hình thể tinh phong, như là Ngũ tinh, Cửu tinh, phải thuộc hiểu để biết sinh, khắc mà tác dụng mới được.
    Trong bộ kinh Tiết thiên cơ, chỉ lấy tám ( cái là: Sinh, Tử, Cường, Nhược,Thuận, Nghịch, Tiến, Thoái, để phân tách long hay, long dở. Nghĩa là: Sinh thì long sơn nghểnh đầu, nhiều đốt đoạn, nhiều bác hoán; Tử thì long không khởi phục, nằm đườn ra; Cường là đi mạnh mẽ dài rộng; Nhược là trông long gầy guộc, khô khan, yếu ớt; Thuận là long đi thẳng về phía trước mặt; Nghịch là đương đi, quay mặt trở lại phía sau lưng; Tiến là long mỗi tiết lại cao lên, Thoái là long lui dần rồi tan ( hết) huyệt.
    Có hai câu phú: “ Sinh, Cường, Thuận, Tiến giai vi hảo; phú quý kiêm thọ khảo”, “Tử, Nhược, Nghịch, Thoái tối vi hung, yểu triết thụ bần cùng”. Nghĩa là: bốn cái Sinh, Cường, Thuận, Tiến là long tốt, sinh ra người giàu sang và sống lâu. Bốn cái Tử, Nhược, Nghịch, Thoái là long rất xấu, sinh ra người nghèo hèn và chết non.
    Như vậy thì kinh Tiết thiên cơ luận long, còn nông cạn, chưa đủ. Theo đúng long pháp, thì phải xem xét cán long, chi long, để phân biệt đại địa, tiểu địa; lấy tinh thần ( tinh thể) mà định cát, hung.
    Vậy chỉ có Nghi long, Hám long, Vọng long, bà (3) kinh này mới hiểu thấu tính tình sơn thủy, thực đúng phép kết tác của Thiên địa tạo thiết là chí chân, chí lý! Thời sư phải theo đủ các phép kể trên mà định long hay, dở, chứ không thể đơn giản được.
    Quá giáp, xuyên điền
    Quá giáp, Xuyên điền là cái thể độ bác hoán của hành long, tức là chỗ eo long sơn nọ, nối với long sơn kia, như chỗ phong yêu ( lưng ong).
    Long mạch to hay nhỏ, quý tiện; huyệt kết chính hay trắc, thuận hay nghịch, cao hay thấp, đều hiện hình ra ở chỗ Quá giáp; nên phải theo Địa lý phép, mà phân biệt rõ. Hai cái Quá giáp, Xuyên điền đều là chỗ hành long bác hoán, nhưng Quán điền ( Xuyên điền) thuộc Dương khí, Quá giáp thuộc âm khí, mà Dương khí thì cần khoan thư, vậy Quán điền nên bình thản, dài rộng, khoan thư, mà Quán điền thường chỉ một bên có hộ sa, một bên không khuyết nhưng không ngại phong suy ( gió thổi). Chỉ có đại cán long hoặc chân quý long mới hay có như thế; có lẽ sơn là Âm thế, mà kiêm Dương khí hành long nên tốt. Còn Âm khí cần phải thu tụ, vậy Quá giáp nên ngắn và gần; cả hai bên cần phải có hộ sa giáp khẩn, để khỏi bị phong suy, bất luận cán long hay chi long, đều phải có như thế mới tốt.
    Nếu long không Quá giáp, thì không bác hoán. Mà đại long Quá giáp thì tất nhiên khai trương đại trướng, đại nghinh, đại tống. Hai bên chỗ Quá giáp, có những tinh phong tủng tú ( cao đẹp) che kín gió thổi. Dầu ở trước hay sau, đều là quý địa. Nếu đằng trước còn đi dài nữa, kết huyệt tất nhiên là đại quý địa không sai!
    Nếu trông thì đại thế, mà long sơn chỉ dài và hẹp, không khai trướng, sơn sa, hộ tống đơn bạc, cho Quá giáp khoáng khuyết ( không có núi đồi che gió) thì bị sát khí, dần dần tiêu tan, thì không có quý địa.
    Xét xem chỗ Quá giáp thấy lai sơn đại (núi dẫn mạch lại to), khứ sơn tiểu (cái núi dần đi nhỏ) thì kết huyệt ở gần. Cái lại nhỏ, cái đi lớn, thì huyệt kết còn ở xa.
    Nhận xem Quá giáp, nếu là dương tức là Quán điền ( qua đồng, ruộng, thấp hơn) mà trong chỗ bình thản ( bằng phẳng), có những gò đống, hình như thù ty, ma tích. Nếu là âm, tức là cao hơn và khân tế ( nhỏ gần). Mà ở chỗ nhỏ ấy có hình như phong yêu, hạc tất. Chính là những “ thanh tú chi khí” phát hiện, tất nhiên có quý huyệt! Nếu không có gì khác hiện, thì chỉ là làm thương chi khí thôi!
    Xem chỗ Quá giáp cao, thì huyệt kết ở thấp. Quá giáp thấp thì huyệt ở cao.
    Quá giáp chính thì huyệt tất chính. Quá giáp trắc ( cạnh nghiêng) thì huyệt tất thị trắc.
    Nếu một bên Quá mà quay đầu trở lại, tức là “ hồi long có tổ chi huyệt”. Xem mấy minh họa đại lược dưới đây:
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  13. #33

    Mặc định

    Trên đây ko biêt đã có ai từng đến xem vùng đất đường lâm bất bạt ( thuộc hà tây cũ ấy) chưa. Quê m phú thọ nen mình về hay đi qua đó. Mình hieu biêt ít nhưg cũng nhìn ra dc thế đất này đôi chút. Nói chug long mạch nhiều,phải gọi là quần long hộ tụ ấy chứ,mỗi long mạch dừng đều có thanh long bạch hổ hai bên hình thé rõ ràng.nhìn ko khác một tý tẹo nào so.với trong sach cụ TẢ ao vẽ ra cả .minh di qua đến cả vài chục lần rồi nhưng lần nào cung dừng lại ngắm nghía chán rồi mới về. Mình vốn đam mê phong thủy lắm mà ko có thầy để học theo. Toàn phai tự tìm sách đọc và hỏi thêm những người biết một chút. Nhưg nói chung ko có thày dạy thì cug chỉ xem và xem cho thỏa mãn đam mê thôi.

  14. #34

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nguyenmanhthang01 Xem Bài Gởi
    Trên đây ko biêt đã có ai từng đến xem vùng đất đường lâm bất bạt ( thuộc hà tây cũ ấy) chưa. Quê m phú thọ nen mình về hay đi qua đó. Mình hieu biêt ít nhưg cũng nhìn ra dc thế đất này đôi chút. Nói chug long mạch nhiều,phải gọi là quần long hộ tụ ấy chứ,mỗi long mạch dừng đều có thanh long bạch hổ hai bên hình thé rõ ràng.nhìn ko khác một tý tẹo nào so.với trong sach cụ TẢ ao vẽ ra cả .minh di qua đến cả vài chục lần rồi nhưng lần nào cung dừng lại ngắm nghía chán rồi mới về. Mình vốn đam mê phong thủy lắm mà ko có thầy để học theo. Toàn phai tự tìm sách đọc và hỏi thêm những người biết một chút. Nhưg nói chung ko có thày dạy thì cug chỉ xem và xem cho thỏa mãn đam mê thôi.
    Cám ơn lời chia sẻ thật lòng của bạn . Mình cũng vậy cũng chỉ học mò thôi , nhớ lại ngày mình để mộ cho cha mình, mình có đọc quyển Tả Ao bí kíp chỉ độ 40 trang nhưng cụ viết rất khúc chiết và rõ ràng cho người đọc. Do vậy mình đặt mộ cho cha mình chỉ là "duyên" là may mắn mà thôi chính vì anh em mình cũng làm nên ăn ra cho nên ông bác mình có nói 1 câu mà mình rất hoảng là" Thằng này nó để mộ cha có lợi cho nó " và mình cúi lạy bác đừng nói vậy mà em cháu đào mả cha cháu lên đó . Vì người quê ít học nên họ dễ bị kích động và có thể làm thật .
    Qua câu chuyện đó mình nghĩ " Tiên tích đức hậu tầm long " do vậy con người ta phải ăn ở có đức sẽ có duyên thôi .
    Cũng mảnh đất ấy có người đến lấn chiếm phần đất của mẹ mình về già , mình cũng không nói gì nhưng họ lộc chả thấy mà nhà có 5 người con trai chết mất 4 mà chỉ còn 1 ông nhưng cũng khó bảo toàn vì ông ta bị ung thư rất nặng
    Nói theo kiểu nhà PHẬT là " Con người ta có duyên " đấy
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  15. #35

    Mặc định

    Cục pháp
    Cục là sơn thủy tụ hội lại một khu, cấu kết thành cục diện gọi là cục. Tức là Thư, Hùng giao hợp ( sơn, thủy là thư, hùng). Từ chỗ Long sơn phát nguyên lìa tổ sơn ra đi, là ở hai bên sát cạnh phải có hai rạch nước đi theo. Sơn đi đến đâu, thì thủy đi đến đấy. Chữ là: “ Sơn hành tắc thủy tòng”, dầu đi xa hay gần rồi sơn, thủy vẫn phải tụ lại, hợp lại làm bạn với nhau, như “thư hùng giao cấu”thành thai ( kết huyệt).
    Tất nhiên là Long tả toàn, thì thủy hữu toàn. Long hữu toàn thì thủy tả toàn.
    Nghĩa là: Long ở bên tả lại, thì Thủy ở bên hữu đến Long ở bên hữu đến thì Thủy ở bên tả lại, hai bên Sơn, Thủy gặp nhau thì mới kết huyệt. Nếu hai cái sơn, thủy đều quay đi tức là Sơn phi, Thủy tẩu thì không kết huyệt.
    Cục pháp có bốn cách là: Thuận cục, Tà cục, Hoành cục và Hồi cục.
    - Thuận cục là long đi thẳng lại huyệt.
    - Tả cục là long ghé chếch sang một bên.
    - Hoành cục là long quay ngang hẳn về một bên.
    - Hồi cục là long quay ngang rồi chuyển hướng, nghịch trở lại về tổ sơn, tức là “ hồi long có tổ”.
    a. – Thuận cục thì hướng trông khoảng giữa hai bên long hổ, thủy tụ hợp, rồi theo thuận hướng chi huyền chảy đi ( nước đi ngoắt ngoéo như hình chữ chi, chữ huyền gọi là thủy chi huyền).
    b. – Tả cục thì không hướng vào giữa như Thuận cục, hoặc ghé gác sang tả sa, hoặc ghé gác bên hữu sa, chỉ có một rạch nước qua minh đường rồi hợp với rạch nước bên kia, ở phía cạnh chảy đi.
    c. – Hoành cục thì hướng ngang hẳn về một bên hoặc long sa, hoặc hổ sa, cũng chỉ có một rạch nước qua minh đường thôi, hai rạch nước hợp nhau ở phía dưới bên cạnh chảy đi.
    d. – Hồi cục thì long thân quay ngược trở lên đối diện với tổ sơn, cũng chỉ thu có một bên nước theo long thân chảy lại, tức là “nghịch thủy triều đường”, rồi hoàn bão về sau lưng huyệt hợp với rạch nước bên kia chảy đi.
    Vậy thì, chỉ có đại cán long mới hay thu được cả hai rạch nước và kết được Thuận cục thôi, còn đại chi long, chi trung cán, chi trung chi long, thì thường thường là thu được có một bên nước và không kết được Thuận cục, chỉ là kết Tả, Hoành, Hồi ba (3) cục thôi. Tất nhiên là không bằng Thuận cục thu hợp được cả hai bên nước, tức là đại địa.
    - Hành độ của đại cán long, thì thể ngạnh ( ngạnh là không khởi phục, không đột khởi tinh phong) đi thì cũng có chỗ hay triết (triết là gãy khúc) như là long mạch ở đằng bắc đi về đằng Nam, nhưng một đưa về Tây, rồi một đoạn đưa về Đông, như cái thước thấp, không kéo thẳng, chữ gọi là: chi Huyền. Sa, thì hay tề ( tề là hai bên tả, hữu sa đều đi đến, như bày đặt đăng đối). Thủy thì xuất ( xuất là cả hai bên nước cùng chảy ra trước mặt hợp lưu rồi chày đi). Cục thì ( thuận là thu cả hai giải nước theo long, cũng đi thuận một chiều ra rồi hợp ở trước mặt.)
    - Hành độ của đại chi long, thì thể cường ( cường là đại khởi, đại phúc, hay khởi hục mạnh), đi thì trắc ( trắc là mặt hướng nghiêng về một bên, Sa thì hay cái (cái là che, ngăn nước theo chảy thuận xuống, khỏi chảy tán mạn), Thủy thì triều ( triều là chi huyền, chảy ngoắt ngoéo như hình chữ chi, chữ huyền), cục thì hay nghịch (nghịch là quay ngược trở lại, thu được một bên đại thủy.)
    - Chi trung cán là cái cán của các chi nhỏ, thuộc trong chi lớn, long này hành độ thì thể động ( động là khởi phục nhiều) và hay chính ( chính là ngay thẳng mặt về đằng trước), Sa thì hoặc cái hoặc thu ( cái là sa ở trên đằng sau, che qua huyệt; thu là sa ở dưới, đằng trước huyệt, quay ngược lại hạn thu nước ở trên chảy xuống), Thủy thì hay bão ( bão là vòng trước huyệt, như cái đai thắt vào mình) Cục thì hay hoành ( hoành là quay ngang mặt, thu một bên nước qua minh đường).
    - Chi trung chi, hành độ thì thể nhược ( nhược là không đột khởi tinh phong, họa là mới khởi phục ít thôi), đi thì tà ( tà là chếch nghiêng về một bên), Sa thì cũng hay phối ( phối là được một bên sa đối diện), Thủy thì đoản ( đoản là chỉ thu được một đoạn ngắn tiểu thủy thôi), Cục thì hay tạp ( tạp là hoặc hoành, hoặc hồi, hoặc thuận).
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  16. #36

    Mặc định

    Trên đây là kể đại khái những tính tinh kết tác của sơn thủy là như thế. Nên có câu: “ Hữu thị long tắc hữu thị cục; hữu thị cục tắc hữu thị long”. Tuy sơn xuyên biến hóa cũng như mặt người, không ai giống ai, nhưng cách cấu tạo cũng vẫn thế, không thể vượt qua được. Vậy tướng địa sư tự suy xét, thấy long là biết cục, thấy cục là hiểu long, không khó gì cả. (Xem đồ họa cục thế sẽ rõ).

    Thượng sa, hạ sa
    Sa là để ủng hộ long thân và bảo vệ khu huyệt, bố trí cục thế.
    Long mà không có sa hộ, thì cô đơn; huyệt mà không có sa hộ thì không khoáng; cục mà không có sa hộ thì phiêu tán, lấy gì làm bố trí v.v…Tiếng sa là gọi chung, kể phân tách ra thì có nhiều thứ như là: thượng sa, hạ sa, tả sa, hữu sa, hậu sa, tiền sa, nội sa, ngoại sa v.v…Nhưng có hai cái thượng sa và hạ sa, là tối khẩn hơn.

    A. – Thượng sa là cái sa đi theo hộ vệ chính long, từ chỗ mới phân xuất để hãm thủy ( ve nước) hai bên từ trên chảy thuận ( xuôi xuống, bố trí cục thế, ủng hộ huyệt trường). Sa này cần nhất là mở được rộng, buông được dài và triều bão làm thành quách bao vây đại thể bên ngoài, yểm hộ sinh khí bên trong.

    B. – Hạ sa là cái sa ở phía dưới, về trước mặt để thu nạp được bản thân chi thủy ( nước tự gốc,theo long thân đi ra) và ngăn cản ngoại thủy ( khách thủy khỏi nhập nội đường). Nghĩa là, ngăn cái nghịch thủy ở ngoài xa, không cho chảy xung vào mình đường bên trong, trước huyệt. Sa này cũng cần hồi hoàn loan bão ( cong ôm về huyệt) và hãn thủy đình tụ lại, khỏi tán mạn ( chảy buột đi)
    Trong hai sa này thì Thượng sa cần thiết hơn, xem thượng sa có thể suy xét, quyết đoán được huyệt khí quý hay tiện. Thượng sa mà trùng trùng điệp điệp ( nhiều lần bão lại) là huyệt khí quý; nếu đơn bạc (ít lần ôm lại) là huyệt khí tiện.

    Sơn với Thủy cũng như phu phụ ( vợ chồng), hễ sơn thấy thủy đều là phải thu hút, không kể gì quý hay tiện, chỉ cốt sao có thủy dễ dưỡng long hộ khí thôi. Còn như khí quý thì ở cục thế khai trương tức là thượng sa dài rộng, nhiều lần vây bọc, cục thế rộng lớn bao la trái lại thượng sa đơn bạc ( có một lần mỏng manh) thì thủy bức thành cước, là thủy xung long, cắt chân huyệt sơn, gọi là “ Cát cước chi thủy” hay là “ Cát cước chi long” cũng vậy. Như thế thì không tốt lắm, bởi vì giảm mất khí quý là tiện.

    Vậy thượng sa cần được dài rộng, ôm qua trước huyệt ngăn cản khách thủy (nước ở ngoài xa nghịch lại) không chảy xung vào minh đường, thì nội khí hoàn cốt (trong cục, khí tụ được nguyên vẹn, bền tĩnh không bị phiêu tán).
    Vậy những quý long thường không thu khách thủy, chỉ thu “ tự kỷ thủy”, nước ở bản thân long thân.
    Còn cái khách thủy là nước của long sơn khác đã xài thừa rồi chảy qua, không nên cho nhập nội đường ( vào trước huyệt). Triết gia nói: như: “ Quý nhân bất thực, tha nhân chi tàn thực”; nghĩa là: Những khách sang không chịu ăn đồ thừa của người khác!

    Nên, hạ sa chỉ cần một phiến nghịch chuyển là được, bất luận to hay nhỏ; dài hay ngắn, cũng thành quý huyệt. Các triết gia đều công nhận rằng: những đại địa phần nhiều là “ thượng sa tác án”; hạ sa chỉ cần một phiến nghịch chuyển thôi, nếu có nhiều cũng cho là dư sa ( coi như thừa).
    Phần nhiều những thời sư thấy hạ sa phi tẩu, thuận thủy phiêu lưu cho là xấu; có biết đâu như thế là quý cách của quý địa chứ phú địa không hay có cách như thế.
    Nhà tiền triết Dương Quân Tùng: “ Hạ sa hoặn như kiếm; thuận thủy tà lưu phi nhiễm nhiễm , thời sư đáo thử, đoán ly hương; bất tri nội hữu chân long chiếm; tuy nhiên hữu thử huyệt bất kiến”.
    Bộ sách Lý gia hoạt sáo: “ Sa bất phi dương, quan bất bái tướng”.
    Nghĩa là: Ở tận cuối cùng hạ sa hình như mũi dao, mũi gươm buông theo chiều nước chảy xuôi đi, trông như giáng bay tuồn tuột, các thày đến, thấy vậy, bảo là kiểu đất có người phải bỏ làng ! Chứ có biết đâu là ở trong đó đã có chân long chiếm giữ rồi, tuy phóng đi nhưng mà ở huyệt không trông thấy.
    Nghĩa của câu Lý gia hoạt sáo: Sơn sa mà không dương ra như buông bay đi, thì làm quan không lên đến chức vị Tể tướng, ( tức Thủ tướng).
    Hai câu chữ tuy khác, nhưng ý nghĩa vẫn như nhau, nhận xét ra thì cũng đúng. Không ra ngoài thì làm quan thế nào được, càng làm to thì càng phải ly hương xa, chứ đâu phải bỏ làng như kẻ bần cùng?
    Ngẫm ra thì hết cả các long, bất luận chấn long hay chi long, đã kết huyệt thì không chịu thu khách thủy, vì mỗi giải sơn di đến đâu thì đã có hai, hay một giải nước đi cùng, nước ấy triều phối với long mạch ấy, tức là thấm nhuần với nhau rồi, không cần khách thủy nữa, tất nhiên “ Thư, Hùng tương thực, tẫn mẫu tương giao” không hợp với khách thủy nũa cũng đủ.
    Như đại long kết huyệt, tự hữu đại sa ngăn cách khách thủy không xung nhập nội cục, chỉ triều tụ triền nhiễu ở ngoài thành thôi, còn như chi long, thường không buông dài ra được, đến chỗ kết huyệt thường hay quay ngang, hay là quay ngược trở lại, kết tác với nội thủy, tất thị không hướng vào khách thủy. Chỉ có nô sa kết huyệt; thì phần đa số là không có tùy thủy, chỉ hướng vào khách thủy, thì cũng như người gác kho cho nhà giàu, vậy đó là tiểu địa.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  17. #37

    Mặc định

    Tả sa, hữu sa
    Tả sa là những sa ở bên trái của huyệt tinh, gọi là Thanh long sa.
    Hữu sa là những giải sa ở bên tay phải ( mặt) của huyệt tinh gọi là Bạch hổ sa.
    Hai sa này là hai sa hộ vệ huyệt trường, bố trí cục địa, cần phải loan hoàn củng bão ( vòng ôm, về phí huyệt) mềm , dẻo thì tốt, nếu thô ngạnh thì xấu, không nên triết yêu ( gẫy lưng) không nên khuy khuyết không khoáng, nếu thiếu hoặc đứt, cách quãng thì phong suy xạ huyệt ( gió thổi bắn vào huyệt) thì khí tán, kỵ ngang đầu ( là đầu sa ngóc lên, tức là khinh khi chủ huyệt) tối kỵ phản bội ( là đầu, lưng quay đi, tức bất phục chủ) thì không phải là huyệt.

    Hai sa này thường không đều nhau, bên ngắn bên dài, nhưng long trường ( dài), hổ đoản ( ngắn) thì hợp phép của địa lý, tức là tốt. Chỗ thì bên có, bên không; chỗ thì cả hai bên giao nhau, ôm qua trước huyệt gọi là duy hội ( ràng rịt). Có chỗ thì chủ tinh không có sa, mà phụ mẫu sơn phân sa ra ôm huyệt tinh, làm tay long, tay hổ; có chỗ thì bản thân long, không có tay long, tay hổ mà mượn khách sơn ( sơn sa ở ngoài) chầu lại làm long, hổ; có chỗ một bên là bản thân sa, một bên phải mượn khách sa ( ở ngoài) lại thấu hợp, mỗi chỗ một khác chứ không mấy chỗ giống nhau. Vậy chớ nên câu nệ, chỉ cốt lai triều hoàn bão, kết thành cục chu mật là khí tụ, tự nhiên kết huyệt được, bất tất phải có đủ mới có huyệt.

    Giáp sa
    Giáp sa là cái sơn sa ở ngoài tay long, tay hổ của huyệt tinh, “đĩnh khởi đặc tú chi sơn” ( núi cao đẹp, ngoạn mục), bão củng giáp chủ tinh ( huyệt) gọi là “ giáp nhĩ sơn” ( núi giáp tai). Nếu đột khởi trên long thân ở hai bên thì gọi là Thái ất, Thiên ất, là “ đặc quý chi sa” ( quý đặc biệt phi quý long, quý huyệt, thì không có như vậy).
    Ứng tinh, Biến tinh, Gián tinh

    Tinh thể tổ sơn thì đại để là Liêm trinh ( Diệm thiên hỏa) hoặc là Trướng thiên thủy. Nếu không phải là Thủy, Hỏa hai tinh thì không hay làm tổ sơn được. Hai tinh này trông ở xa thì cao tủng tú lệ, nhưng đến gần thường thấy những tầng đá to lớn, đồ sộ lam nham ghê sợ....

    Ứng tinh, Biến tinh, Gián tinh

    - Ứng tinh là tinh phong do tổ sơn phân ra đột lên, dẫn mạch vào huyệt tinh ở phía trước, vì đối diện với huyệt tinh tương ứng, nên gọi là Ứng tinh; tức là chủ sơn hành long.
    Thí dụ: Ứng tinh là Tham lang, thì gọi là Tham lang hành long. Kết huyệt ở trước mặt hẳn là sinh nhũ đầu ( như đầu vú đàn bà).
    Nếu trong khoảng giữa Ứng tinh và Huyệt tinh, lại biến nảy ra Tham lang tinh nhỏ bé khác nữa, mà Huyệt tinh không theo Ứng tinh lại theo biến tinh ra, cũng vẫn gọi là “Tham lang bất biến sinh nhũ đầu” v.v…
    - Biến tinh là tinh phong ở vào khoảng giữa của Ứng tinh và Huyệt tinh, do Ứng tinh bác hoán ( thay đổi hình dạng) biến ra, nên gọi là Biến tinh. Tất thị Huyệt tinh theo Biến tinh ra, thì gọi là “ Chân biến tinh”.
    Thí dụ: Tham lang hành long, trong khoảng ấy biến ta Tả phụ tinh (phần nhiều là Yến oa ( tức tổ én) nên gọi là Biến tác phụ tinh. Huyệt ngửa lên như hình tổ én, dính liền với sườn núi cao, thường gọi là “ Quải đăng chi huyệt” (huyệt hình như cái đèn treo).
    Gián tinh là những tinh phong gián tiếp ( cách nhau) ở khoảng giữa hành long ( dẫn mạch), gọi là Gián tinh. Vì hành long không hản là có một loại tinh mà đáo đầu, tất nhiên có tinh thể khác xen vào, nên gọi là Gián.
    Thí dụ: Tham lang hành long, khoảng giữa cách một tòa Lộc tồn, rồi mới đến tinh phong gì khác v.v…
    Vậy Tam cát hành long cần gián ( cách) Tứ hung, thì mới “ phân nha, bá trảo” (chia nanh, nẩy vuốt). Tứ hung hành long, cần phải gián Tam cát thì mới hay thành thai kết huyệt.
    Tam cát mà không gián TỨ hung , thì đất phát phúc không có uy quyền hiển quý.
    Tứ hung hành long mà không gián Tam cát, thì không hóa khi tác huyệt, quyết phạm hình hung v.v…
    ( Tam cát là ba (3) tinh phong lành: Tham lang, Cự môn, Vũ khúc; Tứ hung là bốn tinh thể ác: Phá quân, Lộc tồn, Liêm trinh, Văn khúc).
    Còn như những long sơn đê bình (thấp bằng) phần nhiều là Lộc tồn, Văn khúc, Tả phụ; ba tinh phong này hay gián tạp (liên, cách lẫn nhau) nhưng bình, thấp. Nếu thấy dắt dây ra lan man là Văn khúc; dột lên trên đỉnh, tròn trông thanh tú (xinh đẹp) là Tả phụ; nếu ở trên đỉnh, trông to lớn, thô xuẩn, cương ngạnh là Lộc tồn, hoặc một chi vươn dài ra, như giây dưa rồi khởi lên, trông thô ngạnh, quá độ hình như cổ hạc, đó là “ Lộc tồn tán bá”. Lộc tồn không biến ra Cát tinh gì khác, thì không kết huyệt; nều biến ra Tả phụ thì phần nhiều là kết huyệt hay, mà huyệt tất nhiên khai khẩu, hoặc khai oa rõ rệt.
    Tướng địa gia ( người xem đất) cần phải am hiểu, nếu lờ mờ thì không phân biệt được là Lộc tồn hay Tả phụ. Hoặc có người nghi vấn, thì không giải đáp nổi, hẳn ấp úng nói là, “Kim thủy hành long”thì buồn cười!

    Chính thế - Biến thế - Kiêm thế - Niêm thế - Thân thế

    - Chính thể là Ngũ tinh.
    - Biến thể là Cửu tinh.
    - Kiêm thể là một tinh thể gồm hai tinh, trông không phải là Thổ mà cũng không phải là Kim, tức là Thổ Kim kiêm thể. Đông trông hình như Kim, nhưng bên Tây trông lại như Mộc, tức là Kim Mộc kiêm thể; đầu tròn chân nhọn, tức là Kim Hỏa kiêm thể.
    Trong Cửu tinh, thì Lộc tồn là Thổ Kim kiêm thể, Phá quân là Kim Hỏa kiêm thể.
    Trong thiên cơ cửu tinh, thì Thái âm, Thiên tài, Kim thủy, Thiên cương, Cô diệu, đều là những tinh thần (tinh phong) kiêm thể cả. Xem kiêm thể mà tâm mục thông minh thì nhận xét được mau chóng.
    - Niêm thể là ở trên Huyệt tinh lại gợn khởi lên một tinh bé nhỏ, cao hơn chút xíu chẳng hạn; nhưng không phải là tình hình khắc, với chủ tinh ( huyệt tinh) thì mới tốt.
    - Thân thể là sau huyệt tinh lại liền dính nảy ra một tinh nhỏ bé, mà cũng không hình khắc với chủ tinh thì mới hay.
    Hai tinh Niêm thể và Thân thể này, chỉ cần xem ở huyệt thôi. Vì sự sinh, khắc đối với huyệt tinh là tối khẩn, nên nhận xét cho kỹ.
    Tất cả Ngũ thể tinh vừa kể trên đây, cần phải hiểu từ trong tâm, trong nhỡn, trước khi đi tìm đất đã, thì khi gặp thấy mới phân biệt được ngay là loại tinh gì; nếu không thì sẽ bị loạn mục, và hoang mang tâm trí.

    Thái tổ - Thiếu tổ - Tổ tông - Phụ mẫu

    - Thái tổ là chỗ đột lên quả núi rất cao đại, làm tổ sơn, phát nguyên của những long mạch một phương rộng lớn. Hoặc một quận hay mấy quận, hoặc một tỉnh hay hơn không chừng; hai bên tất thị có hai giải đại thủy như sông hay khê chẳng hạn, giáp giới bên tả, bên hữu tổ sơn, tất cả các long mạch to, nhỏ trong vùng thuộc khu vực ấy đều do hai giải sông to đó chứa đựng rồi phân tán ra.

    Tinh thể tổ sơn thì đại để là Liêm trinh ( Diệm thiên hỏa) hoặc là Trướng thiên thủy. Nếu không phải là Thủy, Hỏa hai tinh thì không hay làm tổ sơn được. Hai tinh này trông ở xa thì cao tủng tú lệ, nhưng đến gần thường thấy những tầng đá to lớn, đồ sộ lam nham ghê sợ. Chắc là một khối ác khí kết thành, nếu không phải là cương sát khí thì sao đứng lừng lững giữa trời! Chịu nổi tám phương gió bão mưa quăng từ khi khai thiên lập địa cho đến nay?

    Những long sơn tuy cũng phát nguyên, từ một Thái tổ ra, nhưng cũng có long hậu, long bạc, long quý, long tiện. Muốn biết hậu bạc, quý hay tiện, thì phải xem từ chỗ Thái tổ phát ra, long sơn nào thoát đại trường viễn (rộng lớn dài xa) là khí mạch hậu, nếu tiểu đoản xúc hiệp ( bé thấp ngắn hẹp) là khí mạch bạc.

    Muốn biết quý hay tiện thì phải xem ở cục thể; nếu hai bên tả, hữu và xung quanh tổ sơn, có nhiều tinh phong tủng bạt ( cao đại) ủng hộ bao bọc thành cách, thành cục là quý. Trái lại, là tổ sơn đơn cô độc lập, ít hay không có quần sơn hộ vệ là Tiện.
    Thái tổ sơn mà tinh thể phương chính, đoan nghiêm ( vuông vắn ngay thẳng) thì hay sinh ra người giỏi, chính trực, hiền nhân, quân tử. Trái lại, nếu thiên, tà, oa, trắc ( méo, vẹo, lệch lạc, nghiêng ngả) thì địa phương ấy sinh ra nhiều kẻ gian tà, xảo trá, tiểu nhân v.v…

    - Thiếu tổ sơn là sau Thái tổ phân ra, lại khởi lên Đại sơn nữa, làm tổ sơn của các cán long, chi long vùng đó. Tinh thể thường không giống như Thái tổ nhưng cốt đoan chính tú lệ, trông có vẻ non bồng ngoạn mục, thì hay kết huyệt to. Nếu được tinh phong tủng tú cao thanh thì phát quý, phi hậu ( to mập) thì phát phú quý vượng đinh tài thôi.
    - Tổ tông là cái sơn cũng do Thiếu tổ phân lạc ra sau, nhưng tự biệt lập một mình một khu vực.
    Tinh thể Tông sơn này cốt là cát tinh, mà có khai bình, liệt trướng sơn sa triều bão, thành cách cục thì thường thường là có là có quý huyệt; trái lại nếu không phân khai ra được, là vô lực, không có đất hay.
    - Phụ mẫu sơn là cái sơn ở đằng sau huyệt tinh dẫn mạch vào huyệt. Tinh này cốt là cát tinh và, mở được hai cánh dương ra thì mới kết tác ( có huyệt), bằng không khai được là vô huyệt.
    Trên đây kể về Thái tổ, Thiếu tổ, Tổ tông, Phụ mẫu là để cho rõ căn nguyên, thứ tự từng tiết, từng đoạn thôi, chứ thực ra thì tìm đất tự hạng trung địa trở xuống không cần hỏi đến Thái tổ, Thiếu tổ mà chỉ Tổ tông và Phụ mẫu là đủ.
    Vì phần nhiều chỗ sơn xuyên biến hóa ( núi sông thay hình đổi dạng), không thể cứ phải nhất định câu nệ được; có nhiều chỗ thuần dương hành long ( long mạch đi thấp) thường chỉ một phiến bình thản dài thẳng đến đầu, khởi đột lên một cái tinh phong, thì huyệt kết ở trên tinh phong ấy. Như vậy, thì chẳng những đã không có Tổ tông mà lại còn không có cả Phụ mẫu sơn nữa, như những chỗ ấy thì chỉ cô lập có một thân mình ( tức huyệt tinh), không thể bàn nói đến Tổ tông làm gì nữa!

    Cán long – Chi long – Chủ long - Tùy long

    - Cán long là cái long sơn chính tự Tổ sơn đi thẳng ra, tức như bản thân người ta. Cán long thì lực lượng hùng cường, vì thân long quảng đại trường viễn, hẳn là phân chi ra hai bên tả, hữu làm hộ vệ, tiền nghinh hậu tống, cả hai giải nước giáp với cán long. Thế nhưng cũng có chỗ cán long, chỉ theo một bên là đi ra, mà chỉ long đều ở một bên phân phối ra. Bên cán long càng đi ra, lại càng mạnh, nhưng chỉ thu được có một bên nước thôi, còn một bên là các chi, thì ngắn hẹp, không hay đi dài xa được.

    - Chi long là long sơn, do cán long phân ra, tuy là chi long, nhưng cũng có nhiều chỗ lực đại khí cường, không kém cán long mấy chút, nên ở trong chi lớn, chính trung xuất cũng có thể là cán long nữa, gọi là “ Chi trung cán kết” và còn nhiều chi long, lại phân ra các chi nữa, gọi là “ Chi trung chi kết”. Chi long phần nhiều là lực bạc ( mỏng).
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  18. #38

    Mặc định

    - Chủ long là long sơn cường đại, chính cán xuất ( to, lớn chính cán ở tổ sơn ra), thường đi dài xa, thẳng tiến, tôn nghiêm, không chiều hướng sang hai bên, hẳn là bên tả, bên hữu có những sơn sa tùy tòng hộ vệ triều bão, lưỡng thủy giáp lai ( hai bên nước giáp lại) tức là cán long.

    - Tùy long là long sơn phụ thuộc vào chủ long, nhưng nhỏ hẹp hơn, tức là những chi long, và thường là chầu hướng vào chủ long, làm hộ vệ sơn, nên gọi là Tùy long, nhưng cũng có quý huyệt và tùy ở cách cục chứ không nhất định.
    Chỉ dẫn hình đại liên Long Sơn trên
    1/ Thái tổ sơn, tinh thể là Diệm thiên hỏa tức Liêm trinh khởi tổ.
    2/ Thiếu tổ sơn, kế liền với long mạch ở Thái tổ ra, khởi đột cao đại, tinh thể là Thủy tinh, tức: Trướng thiên thủy.
    3/ Tổ tông sơn, do Thiếu tổ sơn phân ra đại chi. Hình trên này Thiếu tổ phân ra ba chi là ba (3) Tổ tông sơn:
    A. – Chi giữa Thiếu tổ thẳng ra là chính đại cán long, khởi lên một đại sơn, tinh thể là Kim Thủy tức là Tổ tông sơn; sau Tổ tông sơn lại khởi lên một Tham lang tinh, tức là Phụ mẫu sơn, và gọi là Ứng tinh. Ứng tinh này biến ra một Tả phụ tinh, tức là Biến tinh, rồi mới đến Huyệt tinh, như thế gọi là Chân biến tinh, rất quý, thế là thoát, tá, bác hoán đúng với câu chữ “Thô giả dĩ biến tinh, lão giả dĩ phục nộn”. Nghĩa là: Thoát khỏi cái lớn đã biến ra cái nhỏ, cái già cũng đã lột thành cái non mềm v.v… Huyệt này là “ Cán long cán kết” và là chủ long, còn hai huyệt ở bên tả, bên hữu cán long là tùy long cả và gọi là “ chi trung chi kết”. Bên tả thì gọi là “ hồi long nghịch kết” (hồi long có tổ), bên hữu thì gọi là “thuận long hoành kết” (quay mặt ra ngang) cùng chung một án sơn với huyệt chính. Hai huyệt hai bên, đều là huyệt tùy hay huyệt bàng cũng thế. Riêng có bên tay hổ ( bên hữu của chính cán long, nẩy ra một chi, biệt lập một môn hộ, khai trướng lưỡng dực ( mở màn ra như hai cánh) làm long hổ không hướng chiều về cán long và đại chi, huyệt này gọi là “chi trung cán kết”.

    Chi A này là chính cán của Thiếu tổ nên lực lượng trường viễn, cục thế quảng đại, mới kết thành huyệt chính và ba huyệt bàng như thế là đại địa mới có chính, tùy. Nếu càng nhiều trung địa và tiểu địa thì là Đế vương địa, vì có nhiều chư hầu; nếu có một đại địa mà không có bàng huyệt, dầu có quý cách cũng chỉ là: “vi vương nhất quốc” ( làm vua một nước hay một xứ, miền).

    B. – Chi bên tả cán long, cũng do Thiếu tổ phân ra, khởi lên một đại sơn cũng là Tổ tông sơn, Tổ tông sơn này tinh thể là Tham lang. Sau tinh nàu lại khởi lên một tinh Tham lang nữa gọi là Phụ mẫu sơn, và là Ứng tinh, sau Ứng tinh này, lại đột lên một Tham lang tinh nhỏ nữa, tức là Huyệt tinh. Ở bên sườn Huyệt tinh lòi ra một cái núm đính vào núi, trông như tổ én bám vào tường mà huyệt ở trong tổ én ấy nên gọi là Yến oa huyệt hay là “Quải đăng chi huyệt” ( hình như cái đèn treo). Đấy là cán long cán kết, như thế gọi là: “ Tham lang bất biến sinh nhũ đầu” v.v…Ở bên Tả cán long này tức là tay long còn có một huyệt nữa, theo trong chi chạy dài ra kết huyệt, tức là thuận long. Gọi là “ Cai trung chi kết” và là tùy long, tùy huyệt. Chi này không mạnh bằng chi cán long ở giữa, nên chỉ có một chính một tùy thôi.

    - Chi bên hữu cán long, cũng do Thiếu tổ phân ra, khởi lên một đại sơn. Cũng là Tổ tông sơn sau cũng lại khởi lên tiểu sơn, làm phụ mẫu sơn, rồi đến huyệt sơn là Thổ tinh. Nhưng chi này bé nhỏ hơn cả hai chi A và B, nên chỉ kết có một huyệt chính, không có huyệt bàng.

    Tóm lại, Cùng Tổ sơn phân ra, nhưng chi nào to lớn rộng hơn, thu được cả đại thủy ở hai bên, tức là cán long hay là chủ long, thì mới là đại địa. Nếu nhỏ hơn không tu được đại thủy cả hai bên, hoặc chỉ thu được một bên đại thủy, hay chỉ thu được nước nhỏ của hai bên long hổ, tức là Trung địa, là tùy huyệt, hay bàng huyệt thôi.
    Muốn biết rõ đại cán, đại chi thì phải xem tự Thái tổ phát nguyên ra.
    Muốn nhận rõ cán long, chi long và chi trung cán, chi trung chi, thì phải xem tứ Thiếu tổ phân ra, hay Tổ tông sơn cũng thế.
    Ví dụ: Cán long như tân người; Chi long như chân tay; Chi trung cán như ngón tay giữa; Chi trung chi như mấy ngón cái, ngón út, ở hai bên ngón giữa. Xem bản đồ lược họa Đại liên long sơn trên thì rõ.

    Cán long phần nhiều là ở khoảng giữa Tổ sơn đi thẳng ra, nên lực lượng, khí mạch hùng cường, phát phúc dầy, lớn hơn chi long.
    Nhưng bất luận là cán long, hay chi long, đều cần phải Thoát, Tá, Bác, Hoán ( nghĩa chữ Thoát là: rút khỏi, Tá là: trút lui, Bác là:lột bóc, Hoán là: thay đổi ). Tóm lại là lớn rút lại nhỏ, già đổi thành non thì kết Huyệt mới hay, lành. Vì long sơn khi phát nguyên ở tổ sơn ra, phần nhiều là thô ngạnh, ngoan ác. Vậy cần phải biến hóa đổi thay sát khí đi, thành sinh khí thì mới tốt. Vậy càng khởi phục bác hoán nhiều thì càng tốt, càng quý. Có nhiều chỗ già biến thành non, rồi lại đổi trở lại già, lại thúc khí lại, hóa non, chứ không nhất định. Vậy nên tìm huyệt ở chỗ uyển diệu ( mềm dẻo) tức là chỗ non, thì mới lành. Còn chỗ thô ngạnh, chỉ nên làm Tổ sơn hay chỗ trấn thủy khẩu thì hay.

    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  19. #39

    Mặc định

    Long hành không thấy bác hoán một đoạn nào, chỉ vẫn thô ngạnh, kéo dài thẳng một mạch đến huyệt. Thì đâu có sơn sa hộ vệ, bai vi, thành quách chu mật. Thường nhân không hiểu địa lý, cho là mãn mục giang sơn, thích thú lắm!Như thế, gọi là địa ý, có biết đâu là: không bác hoán thì sát khí vị trừ (chưa diệt được khí độc) những chỗ ấy là rất hung, gọi là “ thảo khấu diệt tộc chi địa” (là đất làm giặc!bị chu diệt cả giòng họ).

    Trên đây là bàn về hành long, phải có bác hoán, thoát, tá, thì mới dùng, chứ chưa phải là thật quý. Quý hay không là ở cách cục, (cách cục là những cách quý, hay tiện, ở trong cái cục đất ấy).

    Vậy muốn rõ quý, hay là tiện, sau khi xem thấy long bác hoán rồi, thì phải xem có cách gì quý không? Có cách quý thì mới quý long, và mới phát phúc, hiền quý ( sinh ra người tài giỏi, làm nên chức vị cao quý). Nếu không có cách gì quý, thì dầu là thế cục đại địa, hùng cường, chẳng qua là chỉ phát đại phú, đa vinh, vượng tài thôi, chứ không phát quý.

    Vì vậy thấy có đất kết, thực là cán long mà không thấy phát quý. Có nơi huyệt kết, chỉ là chi long, mà lại phát phúc, hiền quý. Chính là bởi có cách và không có cách v.v..
    Nói về cách cục thì có rất nhiều. Nhưng tìm đất cũng ít gặp thấy những cách kỳ dị quá! Nếu biết thêm ra thì cũng hay, không thì thôi, chẳng cần lắm. Cứ xem xét những quý cách thông thường có lược họa dưới đây cũng tạm đủ.

    Viên cục

    Viên cục

    Bắc thần nhất tinh thiên trung tôn
    Thượng tướng, thượng tướng cư tứ viên
    Thiên ất, Thái ất mình đường chiếu
    Hoa cái, tam thai tương hậu, tiên
    Thử tinh vạn lý, bất đắc nhất
    Thử long bất hứa thời nhân thức
    Thức đắc chi thời, bất dụng tang
    Lưu giữ tinh triều, trấn gia, quốc.

    Giải nghĩa
    - Một cái tinh phong tôn nghiêm đứng giữa trời, như ngôi sao Bắc cực.
    - Bốn cái tinh phong cao lớn ở bốn bên viên cục ví như bốn vị thượng tướng.
    - Hai cái tinh phong ở hai đầu tả, hữu chầu soi vào Minh Đường, được gọi là Thiên Ất và Thái Ất.
    - Những tinh này, muôn dặm chẳng có được một.
    - Long cục đất này, chẳng được cho người đời biết đến.
    - Nếu đã biết rồi, không được giấu diếm dùng làm của riêng.
    - Phải để cho Quốc gia lập kinh đô, triều chấn, cung điện.
    - Đấy là nơi ví như ngôi Tử vi, là Đế tinh ở giữa vòng Viên tinh. Hết thẩy chúng tinh đều chấu vào, rất là tôn nghiêm. Ví như văn võ, bá quan, thần dân hộ vệ ở ngoài ngôi Hoàng đế ngự.
    Cục đất này là huyệt đế Vương, ít chỗ có. Nên mới nói là: “Vạn lý bất đắc nhất”.
    Nếu ở vùng Bình Dương rộng rãi thì phải nhường để làm Kinh đô, cung điện. Nếu ở vùng sơn khê chật hẹp thì là nơi cấm địa; thời xưa nước Trung hoa, triều đình nghiêm cấm.
    Vậy, các sách Địa lý không dám bình luận đến, chỉ có kinh Triết thiên cơ nói rõ thôi.
    Đặc biệt có Tam viên: Tử vi viên, là đệ nhất (1), Thái vi viên là thứ hai (2) và Thiên vị viên là thứ ba (3); đại khái cũng tương tự gần như Tử vi viên đều là hạng Đế vương địa cực cả. Ba viên cực này, chỉ có Hoàng triều được dùng thôi; còn tất cả các thần dân đều không được ngó đến! Các triều đại ở Trung quốc đều độc tài ngiêm cấm, nên không có kinh nào dám bàn đến, tam viên kể trên, đến cả những sách có nói đến nhiều kiểu cách quý, như bộ Bích ngọc cấm thư, Hồng vũ cấm thư, mà các danh sư gọi là Cẩm nang, cũng giấu diếm lẫn nhau, không cho phổ biến. Mãi về sau, mới có số ít người tò mò tìm kiếm ra.

    Cửu tinh
    Cửu tinh là Bắc đầu thất tinh, với Phụ Bật nhị tinh, cộng là Cửu tinh ( 9 ngôi sao). Thứ tự như sau:
    1. – Tham lang 2. – Cự Môn 3. – Lộc tồn
    4. – Văn khúc 5. – Liêm trinh 6. – Vũ khúc
    7. – Phá quân 8. – Tả phụ 9. – Hữu bật.
    ( Tả phụ ở liền Vũ khúc tinh; Hữu bật thì hữu danh, vô hình, như là ẩn náu không thấy rõ).
    Cửu tinh thì có: Tham, Cự, Vũ là Tam cát (3 tinh lành) và Phụ bật là Thứ cát.
    Phá, Lộc, Văn, Liêm là Tứ hung ( 4 ác tinh). Xem hình cũng nhận thấy là cát, là hung ! Nhưng vẫn một tinh biến ra, mà có cát có hung. ( Coi hình đồ ở dưới sẽ rõ).

    1. Tham lang tinh
    Tham lang tinh thuộc thủy, thân hình cao như cái măng mới mọc, ngắn thấp vừa đâm lên khỏi mặt đất, đầu tròn; đó là chính hình thể. Nếu sinh chi như nhú nẩy cành mà lệch lạc, cong hoặc khởi đính ( đột chỏm) mà nghiêng mặt là Tham lang phá diện, thì hung ( xấu); thân thẳng mà hơi nhọn đầu, dưới chân hai bên thò ra gọi là Thừa long. Nếu dưới chân đâm ngang ra, mà nhọn, gọi là Tham lang đới kiếm, là cách tài kiêm văn võ, nắm cả binh quyền.
    Nếu 2,3,4, cái liền nhau, trông ngang là ngọn núi, mà trông sang bên là dãy núi nhọn, mở mặt về một phía chạy thẳng đi gọi là Xuất trận long, đó là cách đại địa. Nếu là triều sơn tử khí ( ở ngoài chầu về huyệt) thì không phải là Tham lang chính long.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  20. #40

    Mặc định

    Tham lang tính có 12 hình dạng:
    1. – Tiêm 2. – Viên 3. – Bình 4. – Trực
    5. – Tiểu 6. – Kha 7. – Tà 8. – Trắc
    9. – Nhai 10. – Đảo 11. – Phá 12. – Không

    Giải thích
    - Tiêm là ở chỗ đất bằng đột cao lên như cái măng mới mọc.
    - Viên là ngay ngắn, không lệch vẹo.
    - Bình là nằm ngang ở trên đỉnh núi như cây gỗ, thường gọi là ngọa tàm ( con tằm nằm).
    - Trực là từ trong đâm thẳng đi.
    - Tiểu là một cái tinh phong mà nhọn, ở trên đỉnh núi.
    Năm (5) cái tinh hình trên này là cát long ( tốt)
    - Kha là núi có đá chơm chởm, bên cao bên thấp, bốn bề thì không, đều nhau.
    - Tà là bên có, bên không và lệch thiên.
    - Trắc là nghiêng mặt về một bên, chỗ xuất mạch lại nhọn đầu, và nhỏ hẹp.
    - Nhai là sườn núi đá mọc thò ra chơm chởm.
    - Đảo là một ngọn núi queo lệch như sắp nghiêng đổ.
    - Phá là đường nước chảy ra, vở lỡ như xẻ kẻ tua ra.
    - Không là núi đá có nhiều hang rỗng không.
    Bảy (7) cái vừa kể là hung tinh ( rất xấu):
    * Kha, Tà, Trắc, Đảo thì sinh ra kẻ gian tà, bạo ác.
    * Nhai, Phá thì sinh ra tai họa.
    * Không thì sinh người cô độc, xuất gia làm tăng đạo, tu sĩ.
    Lược kể để độc giả tế nhận định đoán hung, cát; tinh nào cũng có tốt, xấu, chứ không toàn mỹ.

    2. Cự môn tinh
    Cự môn thuộc thổ, đầu bằng, thân hình vuông, là chính thể, tinh này tính đoan chính, hình cao, ngang thổ, hai bên không sinh chi cước; phần nhiều là đồi vuông như bốn góc.
    Tinh này chỉ bình chính ( vuông vắn) thì mới tốt, hay kết huyệt ở chỗ thấp bình, và gần nơi Thủy tụ.
    Cũng có chỗ kết huyệt ở cao, nhưng phần nhiều là ở hình nhân ( hình người ở trên núi) nhưng bốn bề trước, sau, tả, hữu đều là núi đồi cao, thì mới phải là đích huyệt.






    3. Lộc tồn tinh
    Lộc tồn thuộc thổ, hình tròn, đầu bình như cái trống để đứng, dưới sinh chi cước ( chân ) khúc khuỷu, thất ngẫng, thò ra như đuôi quả dưa, quả bầu nhọn; đây là chính thể, rồi biến ra nhiều thể, kiêm cả 3 thể khí là thổ, kim, thủy, vậy là phức tạp, lẫn lộn, cho nên làm gián tinh cho tam cát tinh thì là đại địa, phát võ có uy quyến danh tiếng. Nếu kết huyệt ở Lộc tồn tinh thể thì sinh ra người hung bạo, làm giặc cướp sát hại lương dân thôi! Và sao cũng bị tiễu trừ, tiêu diệt dòng giống v.v..



    4.Văn khúc tinh
    Văn khúc tinh thuộc thủy, hình thể như con rắn, con lươn, cổ cò v.v…Tinh này phần nhiều là làm gián tinh, biến thể thành tinh khác, đột khởi để kết huyệt. Nếu không có Văn khúc tinh thì long không bác hoán thoát tá, nên hành long đa số là Thủy tinh.
    Cát tinh nhờ ở hung tinh làm uy quyền vũ dũng. Vậy hành long có đoạn cao, đoạn thấp, đoạn to, đoạn nhỏ, đoạn dài, đoạn ngắn, mỗi tiết đoạn là một đời; theo long hành mà đoán phát văn hay phát võ, phát hung hay cát v.v.. Nếu chỉ một phiến đê bình ( bằng phẳng) không đột khởi được là nhược long thì không kết huyệt, nếu có kết huyệt cũng chỉ là ty tiểu, bần tiện và không thịnh vượng lâu bền.

    5. Liêm trinh tinh
    Liêm trinh thuộc hỏa, hình thể rất cao lớn và nhọn đầu, thường thường là núi đá tầng đồ sộ, thô ngạnh trong ghê sợ, ít khi có ở núi đất.
    Có một ngọn cao nhọn ở giữa, thì gọi là long lâu; nhiều ngọn nhọn, ngang hàng bằng nhau gọi là bảo điện. Tinh này rất có uy quyền mãnh lực, cho nên không phải là Liêm trinh thì không phải là đại cán long. Vì Liêm trinh khi đã khởi lên, thì mạnh lắm! Hay có nhiều chi phái hùng cường, và hay biến hóa ra Cửu tinh hành long, của những nơi hay có đại quý địa.

    6. Vũ khúc tinh
    Vũ khúc tinh thể thuộc kim, hình thể thì đầu tròn, chân rộng trông như cái chõ úp, hoặc như cái chuông úp xuống; cao mà đoan nghiêm là Vũ khúc, thấp là Tả phụ, hai tinh này cùng một thể và đều là cát tinh nhưng Vũ khúc thì hay làm Chủ tinh tôn quý, Tả phụ thì phần nhiều làm Hộ vệ tinh. Những núi cao hành long, khi sắp kết huyệt, trong Cửu tinh biến đổi ra Tả phụ tinh, thì mới hay kết huyệt; nếu không biến hóa thì cao quá, khó mà tụ khí kết huyệt. Các long đều biến ra Tả phụ tinh kết huyệt, mà tác huyệt thì theo chủ tinh, như Tam lang hành long mà biến ra Tả phụ tinh, thì huyệt xuất nhũ; Cự môn hành long mà biến ra Tả phụ thì huyệt khai oa, nhưng theo ở long tinh, chẳng phải theo ở phụ tinh v.v..


    7. Phá quân tinh thể
    Phá quân tinh thuộc Kim, hình thể, thì đầu tròn, thân cao, đuôi duỗi ra thấp dần dần xuống, trông thiên nghiêng như đuôi lá cờ nhọn bay chạy. Ở dưới cuối cùng chân, sắc nhọn như mũi gươm, mũi dáo; tinh này hình thái hung ác, trông thấy thì chán ghét! Nhưng có biết đâu, tinh này lại là một tinh có uy quyền võ dũng! Nếu cùng với tinh Lộc tồn là hai tinh dương nha, bá trảo, phát ra người có uy thế cao quyến lẫm liệt! Tinh này là “ Tôn quý chi khí sở sinh”, chớ coi là khinh thường! Long này mà trên đằng đầu có Tam thai, Lục phủ quý tinh. Ở đằng trước mặt cũng có Vũ khúc, Tam thai, Lục tinh, hai bên đăng đối với nhau, thì ở trên đỉnh núi bình, sẽ hay có tinh phong nhỏ khởi đột, đó là Lục phủ tinh. Cái Lục phủ tinh là do bẩm sinh ở cái quý khí của Tam thai sinh mà thành, tức thuộc về quý khí của Văn xương tinh. Nhưng cũng phân từng loại của Ngũ hành. Như là tròn thì thuộc Kim, gọi là Thái dương tinh. Tròn mà thấp và mỏng dẹt, gọi là Thái âm tinh. Đầu tròn, thân cao thuộc mộc, thì gọi là Tử khí. Khuất khúc như sinh động, thuộc thủy, thì gọi là Nguyệt bột. Vuông thuộc thổ, thì gọi là Kế; Nhọn thuộc hỏa, thì goi là La. Những tinh này là đại quý long mới có, chứ những long tầm thường, thì không hay có.
    Tuy gọi là Lục tinh ( 6 tinh phong) nhưng cũng bất chấp hẳn thế, hoặc nhiều, hoặc ít không chừng. Có một cái cũng là quý. Có hai cái như mắt cá, thì thành nhị thai đã là quý đến nhất nhị phẩm cao quan. Hễ thấy trên đỉnh núi mà có những tinh nhỏ như thế thì phi tiểu quý! Tức là đại quý. Tinh này xưa nay cũng ít có người biết, vì những sách địa lý thường không bàn đến.










    8. Tả phụ tinh
    Tả phụ tinh thuộc kim, hình thể thì khởi lên như hai ngọn núi tròn, một cái cao, một cái thấp, hình như cái đầu bịt khăn. Cao thì gọi là Thiên mã; biến thể thì hai cái ngọc đi ra xa nhau một chút, khoảng lưng nó dài như cái trượng cổ ( cái trống hai đầu to giữa thắt nhỏ, tựa như cái eo lưng dài). Tinh này gần giống như Vũ khúc tinh, cũng có thể là kim cả, cao lớn là Vũ khúc, thấp nhỏ là Tả phụ.
    Nhưng Tả phụ tự có hình thể của Tả phụ : Ở dưới cái kim tinh cao, có cái kim tinh thấp như cái nguyệt phủ ( cái búa hình bán nguyệt).
    Nếu Tả phụ tinh không gần Vũ khúc tinh tức là Tả phụ chân thể, là tự kỷ hành long, gọi là Tả phụ hành long: Ở giữa cao như cái đầu bịt khăn, hai bên phân cước ( chân) ra, cái cao cái thấp chạy đi như một dẫy gò đống nhỏ nổi lên trên đỉnh núi cao, 2,3,4 cái chẳng hạn, lún xuống, nhô lên, đó là Tả phụ hành long.


    9. Hữu bật tinh
    Hữu bật tinh thuộc thủy, hình thể thì bình thản ( đồng bằng rộng rãi) đều là chỗ tinh phong đứt khúc, ở chỗ hết đồi núi, mà là đất bằng. Những đại địa ở bình dương đều là Hữu bật tinh làm chủ, tức là không khởi đột cao, nên mới gọi là ẩn diệu, hoặc có hình bé nhỏ vào những cuống mạch nhỏ thấp tựa như con cá lên bến ghềnh, hay là con rắn đi vào trong bãi cỏ thấp, hoặc như vết chân ngựa (mã tích) hoặc như con nhện nhả tơ ( chi thù ty)v.v…ẩn ẩn vi vi ( hình như ẩn giấu, nho nhỏ không nhận thấy rõ lắm, rất là khó hiểu, như có như không). Tinh này đã thoát hết cái cương sát rồi, nếu kết huyệt thì tốt lành, không sợ còn ác khí xung nữa.
    Tư Mã Đầu và Dạt Tăng vấn, đáp


    "Lối thuận cầu thì tìm thấy đất khó nhọc.
    Lối nghịch cầu thì tìm được đất dễ dàng.
    Một đằng theo chỗ Thực đi tìm chỗ Không.
    Một đằng theo chỗ Không đi tìm chỗ Thực."

    Tư Mã Đầu và Dạt Tăng vấn, đáp

    - Vấn:Xưa nói: Ở Bình Dương chẳng cần phải hỏi tông tích long, hễ thấy thủy nhiễu là chân long! Nếu bảo chỗ thủy nhiễu làm long, thì chỗ đất nào mà không có thủy, mà không phải phân tách sa và cục, thì hết thẩy đều là long à?

    - Đáp: Hai dòng nước giáp hai bên long, chẩy xuôi dòng xuống dầu mạnh như sóng đuổi, nhưng đến chỗ giao nhau, được có sa hội, thì định là long, huyệt.

    - Diệp Cửu Thăng nói : Ở miền Bình dương, những chỗ phẳng lì một mặt, thì không hay kết tác. Đến chỗ có không giới ( là chỗ cao, thấp giáp nhau) mà gặp thủy thì mới thành huyệt, cho nên lấy chỗ thủy nhiễu làm chân long. Nhưng long có thủy nhiễu, sa cũng có thủy nhiễu, mà long thì hữu huyệt, sa thì vô khí, nếu cứ thấy thủy nhiễu mà nhận là chân long, thì là nhầm lắm! Không thể nói xiết được!
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. SỰ LẠNH LẼO VÀ CÔ ĐỘC ( NEW )
    By duonghoanghai in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 31
    Bài mới gởi: 25-04-2012, 04:43 PM
  2. Khoát Lạc Linh Quan Bảo Kinh--豁落靈官寶經
    By The_Sun in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 02-09-2011, 05:32 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 06-06-2011, 07:42 PM
  4. Quốc bảo: Ấn vàng, ấn ngọc triều Nguyễn
    By Bin571 in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 30-01-2011, 09:20 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •