Còn như long mạch ở miền bình dương ( đồng bằng) thì phần nhiều là di tông thất tích ( mất dấu tích cuống mạch) không biết ở đâu ra. Những chỗ ấy thì phải xem nước ở hai bên giáp long, chảy về phương nào, thì mới định được long lai, nếu không thì là đứt ngang đâu mất rồi khó mà suy lượng ra. Ở vùng bình dương có chỗ mạch đi chỉ hơi gợn lên một chút ít, đến tận nơi mới tấy, chứ ở xa mấy trăm thước thì không biết có mạch, nên gọi là “ Thảo xà, hôi tuyến chi mạch” ( con rắn luồn trong bãi cỏ, sợi dây tro tàn). Những tinh thể chỉ đột lên thấp nhỏ như là hình Lư tiên, Ngọc xích v.v… ( xem đồ hình sẽ rõ) như có, như không,khiến phải nghi hoặc? Vậy phải tế nhận ở chỗ chuyển mạch xuyên điền, truyền giác, hình như giây nọ dắt dây kia, như là bóng dáng nối đuôi, theo hút thôi. Hễ thấy có đột khởi tinh phong ( gò đống) là có mạch, bất luận lớn nhỏ, dài ngắn hễ đường bình thản ( bằng phẳng) mà có chỗ đột cao lên, là chỗ ấy hay có huyệt, nên có câu: “ bình trung nhất đột, tối vi kỳ” là nghĩa đó.
Hoặc ở giữa hồ ao, đầm vũng mà có gò đống nổi lên, và thể chất kiên cố ( bền nguyên thổ) là khí mạch rất tốt. Hoặc bên cạnh chỗ nước mà có huyệt đá ( bãi đá liền với đất) cũng có huyệt hay, nhưng ít người biết, nên có câu: “Thạch huyệt bàng tủy nhân mạc thức, cánh hữu chản nội phù du lạc”. Nghĩa là: “ Huyệt đá ở bên cạnh nước, người không biết, nhưng có báo hiệu là như có cái màng váng nổi trong cái chén nước”.
Trên đây là kể đại khái thể thức Chi long, cán long hành độ; còn về hình thể tinh phong, như là Ngũ tinh, Cửu tinh, phải thuộc hiểu để biết sinh, khắc mà tác dụng mới được.
Trong bộ kinh Tiết thiên cơ, chỉ lấy tám ( cái là: Sinh, Tử, Cường, Nhược,Thuận, Nghịch, Tiến, Thoái, để phân tách long hay, long dở. Nghĩa là: Sinh thì long sơn nghểnh đầu, nhiều đốt đoạn, nhiều bác hoán; Tử thì long không khởi phục, nằm đườn ra; Cường là đi mạnh mẽ dài rộng; Nhược là trông long gầy guộc, khô khan, yếu ớt; Thuận là long đi thẳng về phía trước mặt; Nghịch là đương đi, quay mặt trở lại phía sau lưng; Tiến là long mỗi tiết lại cao lên, Thoái là long lui dần rồi tan ( hết) huyệt.
Có hai câu phú: “ Sinh, Cường, Thuận, Tiến giai vi hảo; phú quý kiêm thọ khảo”, “Tử, Nhược, Nghịch, Thoái tối vi hung, yểu triết thụ bần cùng”. Nghĩa là: bốn cái Sinh, Cường, Thuận, Tiến là long tốt, sinh ra người giàu sang và sống lâu. Bốn cái Tử, Nhược, Nghịch, Thoái là long rất xấu, sinh ra người nghèo hèn và chết non.
Như vậy thì kinh Tiết thiên cơ luận long, còn nông cạn, chưa đủ. Theo đúng long pháp, thì phải xem xét cán long, chi long, để phân biệt đại địa, tiểu địa; lấy tinh thần ( tinh thể) mà định cát, hung.
Vậy chỉ có Nghi long, Hám long, Vọng long, bà (3) kinh này mới hiểu thấu tính tình sơn thủy, thực đúng phép kết tác của Thiên địa tạo thiết là chí chân, chí lý! Thời sư phải theo đủ các phép kể trên mà định long hay, dở, chứ không thể đơn giản được.
Quá giáp, xuyên điền
Quá giáp, Xuyên điền là cái thể độ bác hoán của hành long, tức là chỗ eo long sơn nọ, nối với long sơn kia, như chỗ phong yêu ( lưng ong).
Long mạch to hay nhỏ, quý tiện; huyệt kết chính hay trắc, thuận hay nghịch, cao hay thấp, đều hiện hình ra ở chỗ Quá giáp; nên phải theo Địa lý phép, mà phân biệt rõ. Hai cái Quá giáp, Xuyên điền đều là chỗ hành long bác hoán, nhưng Quán điền ( Xuyên điền) thuộc Dương khí, Quá giáp thuộc âm khí, mà Dương khí thì cần khoan thư, vậy Quán điền nên bình thản, dài rộng, khoan thư, mà Quán điền thường chỉ một bên có hộ sa, một bên không khuyết nhưng không ngại phong suy ( gió thổi). Chỉ có đại cán long hoặc chân quý long mới hay có như thế; có lẽ sơn là Âm thế, mà kiêm Dương khí hành long nên tốt. Còn Âm khí cần phải thu tụ, vậy Quá giáp nên ngắn và gần; cả hai bên cần phải có hộ sa giáp khẩn, để khỏi bị phong suy, bất luận cán long hay chi long, đều phải có như thế mới tốt.
Nếu long không Quá giáp, thì không bác hoán. Mà đại long Quá giáp thì tất nhiên khai trương đại trướng, đại nghinh, đại tống. Hai bên chỗ Quá giáp, có những tinh phong tủng tú ( cao đẹp) che kín gió thổi. Dầu ở trước hay sau, đều là quý địa. Nếu đằng trước còn đi dài nữa, kết huyệt tất nhiên là đại quý địa không sai!
Nếu trông thì đại thế, mà long sơn chỉ dài và hẹp, không khai trướng, sơn sa, hộ tống đơn bạc, cho Quá giáp khoáng khuyết ( không có núi đồi che gió) thì bị sát khí, dần dần tiêu tan, thì không có quý địa.
Xét xem chỗ Quá giáp thấy lai sơn đại (núi dẫn mạch lại to), khứ sơn tiểu (cái núi dần đi nhỏ) thì kết huyệt ở gần. Cái lại nhỏ, cái đi lớn, thì huyệt kết còn ở xa.
Nhận xem Quá giáp, nếu là dương tức là Quán điền ( qua đồng, ruộng, thấp hơn) mà trong chỗ bình thản ( bằng phẳng), có những gò đống, hình như thù ty, ma tích. Nếu là âm, tức là cao hơn và khân tế ( nhỏ gần). Mà ở chỗ nhỏ ấy có hình như phong yêu, hạc tất. Chính là những “ thanh tú chi khí” phát hiện, tất nhiên có quý huyệt! Nếu không có gì khác hiện, thì chỉ là làm thương chi khí thôi!
Xem chỗ Quá giáp cao, thì huyệt kết ở thấp. Quá giáp thấp thì huyệt ở cao.
Quá giáp chính thì huyệt tất chính. Quá giáp trắc ( cạnh nghiêng) thì huyệt tất thị trắc.
Nếu một bên Quá mà quay đầu trở lại, tức là “ hồi long có tổ chi huyệt”. Xem mấy minh họa đại lược dưới đây:
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks