Khi tôi mới xem ở khu đầu ngoài, thấy có chỗ kết đại huyệt và nhiều kiểu quý huyệt lấy làm mừng; sau đi sâu vào bên trong, để xem nguyên lai, thì mới biết là đã bị cắt đứt mất cuống mạch rồi! Có chỗ đào xẻ sâu xuống, chứng bốn, năm mươi thước, chiều ngang chừng hai, ba mươi thước, chiều dài có chỗ ba, bốn năm trăm thước; công trình tổn phí có thể hơn người Pháp xẻ núi làm đường xe lửa, ở các đèo núi cao! Ai trông thấy cũng phải tiếc và không khỏi thán hận! đáng trách con người thâm độc của nước Trung Hoa!
Ngày nay, muốn đi xem, nếu lên núi không thể được, thì có cách hay hơn Cao Biền ngày xưa, là dùng phi cơ trực thăng thì tiện nhất!
B. – Chi Long thì phần nhiều là đê tiểu bạc nhược, không hùng cường như cán long, thể độ thì đa số là khởi phục bác hoán, đa sinh phong loan ( biến hóa ra nhiều tinh phong vòng cong), phân ra chi nhánh sơn sa hai bên tả, hữu và hay thiên thẹo lệch lạc. Hình thế thì phần nhiều là ngắn hẹp và triều bão vào cán long làm tùy tòng. Chỗ xuất mạch ( mạch đi ra) thì không lộ rõ, hình như là lén lút ẩn tích; những tinh phong thì thấp nhỏ, đa số là tiểu đôi và tiểu phụ ( gò đống thấp nhỏ) hành độ thì giắt díu, dây dưa, cong queo, kết cục thì nhỏ hẹp, hay thiên về một bên, ít cân đối. Đại khái Chi long là thế.
Nếu như chi trung cán, hay cán trung chi, thì tự lập riêng một thế cục, dầu nhỏ, dầu lớn cũng không dựa thế nào cán long, tức là “ tự kỷ thành gia”, “ biết lập tiểu giang sơn” ( ví như người: riêng mình tự một khu vực, không ỷ lại khuất phục người nào). Các tinh phong sơn sa hai bên long hổ triều bão, cũng như cán long không khác, chỉ phân biệt nhau là đại cục thế với tiểu cục thế. Tức là đại cán thì đại tụ, tiểu cán thì tiểu tụ; đại chí thì cũng tiểu tụ, tiểu chi cũng có tụ nhưng tụ chút ít. Tuy tụ nhiều, tụ ít khác nhau, nhưng tình ý cũng đều như nhau cả.
Cũng có chỗ “ Thư Hùng lưỡng chi tịnh xuất” ( hai chi cùng đi song song ra) thì chi Hùng ( đực, mạnh) là chủ, chi Thư ( cái, yếu) là tùy, thì kết huyệt ở chi chủ (Hùng) thường thường là quý hơn.
Nếu hai chi tương đương, không phân biệt Thư, Hùng thì cả hai đều cùng kết huyệt. Chỉ phân biệt quý, tiện; ở chỗ có cách và không có cách thôi.
Kết huyệt thì rất nhiều dạng vẻ khác nhau, không thể kể xiết, chỉ kể đại khái như là “ Lão cán sinh nộn chi” ( cành già biến ra nhánh non) thì huyệt kết ở nộn chi ( cành non); hoặc trước thấp sau thấp, tiết giữa cao lên, xét xem tinh diện ( mở mặt) hướng về bên tả thì huyệt ở bên tả, mặt hướng về bên hữu thì tìm ở bên hữu. Nếu khoảng giữa không phân khai, cón đương đi, thì huyệt ở đoạn sau, hay đoạn cuối; nếu cuối cùng ( tận đầu) mà sơn phi, thủy tẩu thì tức là không tụ, không có huyệt và huyệt kết ở đoạn giữa; nếu thấy chỗ nào sơn thủy tụ hội, loan hoàn cung bão ( vòng cong ôm vào), hình thế kín đáo tôn nghiêm, là chỗ ấy có huyệt quý, hoặc âm thịnh dương suy, thì huyệt ở chỗ âm, dương thịnh âm suy, khi huyệt ở chỗ dương v.v…