Đi tìm long ( mạch ) , thì trước hết phải biết Sơn từ phương nào lại, đột khởi lên? Thủy từ phương nào chẩy lại giao hợp? Phía nào là trước mặt? Phía nào là sau lưng? Đâu là cán long? đâu là chi long? Chỗ nào là chuyển thân? Chỗ nào là giao hội, tụ hợp? Đại lược cả một vùng đó, nhập trong tâm mình rồi. Theo như chỗ đó thì đâu là chủ kết? Đâu là tùy kết? Có tể suy tìm được. Nếu không nhìn thấy thì phải lên đỉnh núi cao mà trông mới thấy long tích và rõ được tổ tông, cũng không phải là khó! Chỉ khó là theo long tích ( xương sống mạch), đi thẳng đến chỗ tận xứ ( chỗ hết sơn), mà lại không phải tận xứ, vì không thấy khai trướng, không thấy biến đổi phục khởi. Tức là long mạch còn đang đi, chưa phải chỗ kết huyệt. Còn tiềm ẩn, sẽ tiếp khởi tông sơn khác, thì phải theo long mà tìm. Hễ thấy khai trướng, bất luận dài, ngắn, rộng, hẹp hễ thấy trung xuất (xuyên tâm) vi động là kết huyệt đấy.
Vậy thì Tổ long cũng có cách của Tổ long, Tông long cũng có cách của Tông long. Khai trướng cũng có cách của Khai trướng, Xuất mạch cũng có cách của Xuất mạch, Cán có cách của Cán, Chi có cách của Chi. Mà Chi Cán chuyển thân, hành độ, khúc triết, đốn khởi mọi cách là do long sơn biến chuyển ở khoảng quá quan, độ giáp, chẳng chỗ nào là không có cách. Nhưng mà chỗ giáp là tối khẩn, cần ở hai bên nghinh, tống, bài bố thị vệ, ủng hộ để cung cấp chỗ không khoáng, bồi bổ chỗ khuy khuyết ( thiếu thốn); hết thẩy cũng có cách tác dụng thần điệu cả, đều đặt ở chỗ hành độ.
Đời xưa, Dương Công chỉ luận long tinh; Liêu Công chỉ luận huyệt tinh; Lại Công chỉ luận phương vị. Cả ba nhà đều không tường hành độ, không biết long biến hóa chính hay tùy.
Vậy thì thành tụ hoặc bại hoại, là bởi ở những hành độ kể trên. Nếu không tường hành độ, thì dầu có thánh thần đến thế nào cũng vẫn còn là mơ hồ! Vậy trung gian các nhà Triết lý đã công luận: Phải hiểu thấu hành độ của long thì mới là tường tận.
Thái tổ mà nhiều Hỏa tinh là cách Long lâu, Phượng các, Xung tiêu phượng ( Phượng vượt mây), Cái thiên kỳ ( cờ che lưng trời) v.v… Lại còn những biến hóa kỳ quái, không thể gọi tên được và còn đặc khởi nhiều cách, như là Trướng thiên thủy, Thấu thiên thổ, Hiến thiên kim, Xung thiên mộc, Nhật hoa vân lạn, Trùng vân phúc vụ, Bảo điện, Bảo tòa, Phi tiên, Phi long v.v…những tinh thể ấy đều có thể là Tổ sơn, nhưng cũng có nhiều cách lạ kỳ:Ngũ tinh tụ giảng, Ngũ tinh quy viên, Ngũ tinh thố chí; hoặc Thiên trì, Ngưỡng thiên hồ ( là những cái hồ, cái ao ở trên đỉnh núi cao, hàng mấy chục, trăm dặm), sức người không tể đi tới được, hoặc rộng dài hàng mấy trăm ngàn dạm, trên đỉnh ngọn thường cao khuất mây mù như núi tuyết, có khi đóng thành khối băng, muôn ngàn xưa không tiêu tan được, đấy là Cực đại Thái tổ sơn, nhưng trong địa cầu này cũng ít có, thường thường Thái tổ sơn là đặc khởi lên mấy ngọn núi cao ở trong xứ, miền, tỉnh, quận. Kế đó, lại phục khởi ra mấy rặng núi dài rộng, trông thì thấy mà đi thì không thể tới cùng tận; trong đó thường cũng có nhiều đại địa phú quý, thịnh vượng bền lâu.
Nếu những hành độ hoặc cách cục nghiêng bên tả, lệch bên hữu, vừa phản vừa phục; hoặc như là gầy gò trông như lột da, róc thịt là thế lực bình thường, cũng có thể yên định phần mộ hoặc dương cơ kết phát phú quý, nhưng không phồn thịnh lâu bền, là vì tổ sơn, tông sơn, lực bạc, cớ vậy!
* Tông sơn đại khái cũng như tổ sơn, hành long trường viễn. Khoảng giữa ngừng lại, phục xuống một tiết ( đoạn) rồi lại đột khởi lên tinh thần ( sơn cao) để mở thêm tông phái ( chi nhánh). Nhưng tổ sơn phần nhiều là lão đại ( to lớn) thì tông sơn mới cường tráng. Tổ thì một, nhưng tông thì phân ra 2,3 hoặc 5,10 rặng núi không chừng, càng nhiều càng quý.
Tông cũng có đại tông, tiểu tông, cũng như thân cây nẩy cành, phân nhánh, mầm, lá vô hạn.
Tổ sơn mà điệp điệp ( nhiều núi) Tông cũng trùng trùng (nhiều lần núi). Tức là Tổ có dày công, Tông có đức lớn. Tông cũng gọi là Thiếu tổ, tiết nào khai trướng là hay có kết huyệt. Khai trướng dài rộng là đất to, ngắn hẹp là đất nhỏ.
Khai trướng là quý cách của hành long. Ví như quý nhân ra đi, hẳn là có những cờ biển, trưng bày ra hai bên uy nghi rực rỡ!
* Hỏa tinh khai trướng gọi là Liên hoa trướng, cư sỉ ( răng cưa); Kiềm vân (mây hình cái kiềm); Phượng quán ( mào phượng); Kê quán ( mào gà); Long diễm ( vây rồng).
* Mộc tinh gọi là Lan hoa trướng; Nhất lâm xuân duẫn ( một rừng măng non); Mãn sàng nha hốt ( dầy giường hốt ngà); Vạn hốt triều thiên ( nhiều hốt chầu trời).
* Mộc hỏa tương liên gọi là tản thương ( dàn súng); Liệt kích ( hàng dáo); Bút trận (nhiều ngọn bút) v.v…
* Thủy tinh khai trướng gọi là Vân mẫu trướng ( ý nói Vương mẫu trên mây); Thủy tinh ( sao sáng trong nước); Phù dung trướng ( hoa phù dung).
* Thổ tinh khai trướng gọi là Bình ( cái bình phong) hay là Liệt bình ( một dãy bình phong) trướng.
* Thủy, thổ tương bạn ( liền nhau) gọi là thủy thổ liên vân. Chi có Kim tinh thì không khai trướng. Liên kim tức thành thủy, gọi là Vân Mẫu trướng hay là Phù dung trướng ( khai trướng hình như hoa cây phù dung).
Khai trướng quý nhất là hoành phi, trường đại ( sơn sa buông ra ngang và dài rộng, một, hai dặm hoặc 5,7 dặm không chừng; hoặc mấy trăm dặm càng dài, rộng, lớn, cao, càng quý, tức là đại địa ở trong khu vực đó. Có chỗ khai một lần, chỗ khai 2,3 lần hoặc 5,10 lần bao bọc không chừng, càng nhiều lần bão nhiễu càng quý thêm bấy nhiêu, tức là đại quý, đại địa mới có trùng trùng điệp điệp sơn sa loan bão như vậy.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks