*IV). HT. TTL: Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”, cái ý muốn của mình là gì? Là Bản Ngã Ác Pháp, Bản Ngã Ác Pháp không ly thì làm sao có Niết Bàn? Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn, chứ không phải Vô Ngã là Niết Bàn, vì vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá. [trang 41 TCB1] Ðạo Phật chủ trương: lấy thiện diệt ác, lấy đạo đức nhân quả làm cuộc sống của mình không làm khổ mình khổ người, từ chỗ này chúng ta suy ra để thấy Ðạo Phật không mâu thuẩn, vì Ðạo Phật "Vô ngã ác pháp chứ không phải vô ngã thiện pháp". Nếu chúng ta tu hành vô ngã cả thiện pháp và lẫn ác pháp thì hóa ra chúng ta là cây, là đá; cây đá là một loại vô tri vô giác, đó là cái vô ngã của Ðại Thừa, Ðạo Phật không có vô ngã như kiểu đó. (ĐVXP-Tập 8)
IV). Phản biện: Căn bản của Đạo Phật là làm lành tránh làm ác, lấy thiện diệt ác, lấy đạo đức nhân quả làm cuộc sống của mình, không làm khổ mình khổ người; đó cũng là tôn chỉ của Phật Giáo Bắc truyền chứ chẳng phải riêng của Nguyên Thủy Nam truyền. Chúng ta lần lượt bàn đến các vấn đề này:
1). Nói rằng: “Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn” là không chính xác, chúng ta có thể lược trích dẫn Tứ Thiền trong Kinh Sa Môn Qủa của Kinh Trường Bộ thuộc Nam truyền do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch như sau:
Khi Vua A Xà Thế lần đầu tiên tới yết kiến và quy y Đức Phật, được Ngài giảng về qủa thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn như sau:
“Tỳ-kheo tự mình quán năm triền cái (tham ái, sân hận, hôn trầm, trạo hối, nghi) chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường sa mạc; này Đại vương, cũng như không mắc nợ, như không bệnh tật, như được khỏi tù tội, như được tự do, như đất lành yên ổn, này Đại vương, Tỳ-kheo quán năm triền cái khi diệt trừ chúng.
Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái, hân hoan sinh, do hân hoan nên hỷ sinh; do tâm hoan hỷ thân được khinh an; do thân khinh an lạc thọ sinh; do lạc thọ tâm được định tĩnh. Tỳ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm (nghĩ ngợi), với tứ (ý tứ); Tỳ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sinh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sinh ấy thấm nhuần”.
Đây là hành giả đạt qủa Thiền thứ nhất gọi là Tu Đà Hoàn; hành giả đạt qủa Tu Đà Hoàn là bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn ở bước khởi đầu, chứ chưa phải là A La Hán nên chưa tới Niết Bàn được, nên nói “Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn” là thiếu sót.
2). Nói rằng: “Không phải vô ngã là Niết Bàn” là không đúng lý, vì trong Tứ thiền, sau khi đạt qủa vị thứ Nhất, hành giả tiếp tục hành thiền để đạt qủa vị Thứ Hai như sau:
“Lại nữa, này Đại vương, Tỳ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sinh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sinh ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này Đại vương, Tỳ-kheo ly hỷ trú xả, chính niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và an trú thiền thứ ba. Tỳ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này Đại vương, Tỳ-kheo, xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỳ-kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần”.
Hành giả lià khổ dứt vui, vui buồn đều dứt, không buồn không vui, ly xả tất cả những gì còn sót lại, vị ấy an trụ Thiền thứ tư. Đạt được thiền này rồi, vị ấy còn phải tiến lên không còn không thô, tưởng không, tưởng thức mà có tưởng vi tế tức tưởng rỗng không, rồi cái tưởng rỗng không đó cũng phải bỏ, mới qua Diệt tận định; Diệt tận định còn gọi là Diệt thọ tưởng định. Thọ tức là cảm giác của sáu căn đối với sáu trần, tưởng là phần bên trong nội tâm; trong nội tâm thì lặng, ngoài đối với sáu trần không dính, như vậy vị ấy đạt vô ngã hoàn toàn, tới đây nhập Diệt thọ tưởng định, chứng vô sinh tức quả A-la-hán. Hoặc vị ấy sau khi an trụ Thiền thứ tư rồi tiếp tục tu Tứ Diệu Đế, Bát Chính Đạo để chứng Vô sinh qủa A La Hán., bấy giờ vị ấy chứng nghiệm hạnh phúc tối thượng; đây là Niết Bàn của vị A La Hán, tại sao nói Vô ngã không đạt Niết Bàn?
Đối với Thiền Tông, theo Hòa Thượng Thích Thanh Từ trong bài: “Phật Giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ” thì Thiền Tông đi thẳng vào xả niệm thanh tịnh, xả niệm thanh tịnh rồi lại tiếp tục tiến thẳng lên Diệt thọ tưởng định, chứ không qua Tứ thiền, không qua Tứ không; như vậy chỉ một bước buông niệm là thẳng tới Diệt thọ tưởng định chứng Vô sinh; đó là đối chiếu giữa Thiền tông với thiền Nguyên thủy.
3). Nói rằng: “vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá” là không đúng sự thực, đây là lời của người không hiểu Thiền Tông khi đọc Pháp Bảo Đàn Kinh. Câu chuyện như sau: Lục Tổ Huệ Năng sau khi nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đọc Kinh Kim Cang cho nghe đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (không đặt để cái tâm vào bất cứ cái gì thường hay sinh ra tâm tính rất kỳ đặc) thì đại ngộ, Ngài biết cả thẩy các Pháp đều chẳng lià tánh mình, nên Ngài buột miệng thốt ra năm câu kệ:
Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,
Nào dè tánh mình vốn thanh tịnh trong sạch,
Nào dè tánh mình vốn chứa đầy đủ muôn Pháp,
Nào dè tánh mình vốn không dao động,
Nào dè tánh mình vốn sinh ra muôn Pháp.
Do đó Ngũ Tổ ấn chứng và truyên y bát cho Ngài Huệ Năng làm Lục Tổ Thiền Tông, rồi Ngũ Tổ bảo Lục Tổ nên đi về phương Nam vì có những kẻ phàm phu tranh giành áo bát. Bởi vậy Lục Tổ ra đi, nhưng sau ba ngày tứ chúng biết được việc Lục Tổ đã lãnh áo bát và rời khỏi, nên một số đã đuổi theo mong giành áo bát. Khi Thượng Tọa Huệ Minh theo kịp thoáng thấy phiá trước, lúc ấy Lục Tổ nói: “Áo bát là vật làm tin, há dùng sức mà tranh giành được sao?”, rồi Ngài để áo bát trên tảng đá và đi ra núp dưới cỏ tranh. Khi Huệ Minh đi tới thấy áo bát mà không thấy người thì mừng thầm sẽ giành được, nhưng khi cầm nhấc áo bát lên không được thì hoảng kinh bèn nói:
- Hành-giả, Hành-giả, tôi vì Pháp mà đến đây, chứ chẳng phải vì tranh Áo-Bát đâu, xin Hành-giả từ-bi thương xót.
Nghe vậy, ngài Huệ-Năng bước ra khỏi đám cỏ tranh, rồi ngồi trên tảng đá; thầy Huệ-Minh liền làm lễ rồi nói:
- Mong ơn Hành-giả nói Pháp cho tôi nghe.
Ngài Huệ-Năng nói:
- Ông vì Pháp mà đến đây thì phải dứt hết duyên trần, chớ sinh một niệm tưởng, tôi sẽ nói rõ Phật-Pháp cho ông nghe.
Lẳng lặng một lúc, đợi cho thầy Huệ-Minh thi hành điều vừa nói, ngài Huệ-Năng mới bảo:
- Ông chẳng nghĩ việc lành, không nghĩ điều ác, chính trong thời gian đó, cái ấy, tức là tỏ thấy cái Bản-lai Diện-mục của Thượng-Tọa Minh vậy.
Thầy Huệ-Minh vừa nghe xong liền rất tỏ sáng, lại hỏi: …
Có lẽ tác giả Thông Lạc căn cứ vào câu “chẳng nghĩ việc lành không nghĩ điều ác” của Lục Tổ này mà kết luận là gỗ đá chăng? Nếu hiểu như thế thì cách xa Thiền Tông như trời với đất! Tâm không suy nghĩ tưởng nhớ nhưng tỉnh thức trong sáng như không quấy nước gây thành sóng, nếu mặt nước yên tĩnh không gợn sóng sẽ thấy hình bóng rõ ràng; cũng như nước không đục lặng trong sẽ thấy vật dưới đáy vậy, chứ chẳng phải không nghĩ thiện không nghĩ ác như người ngủ mê, người chết giấc chẳng biết gì. Trường hợp Thượng Tọa Huệ Minh trong lúc không có một niệm tưởng nào với tâm tỉnh thức nên khi nghe Lục Tổ nói liền tỏ sáng nghĩa là nhận ra bản thể của mình tức là ngộ. Như vậy thì làm sao nói: “vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá”?
4). Nói rằng: Ðạo Phật "Vô ngã ác pháp chứ không phải vô ngã thiện pháp".
Đối với Thiền Tông không chấp, nghĩa là không dính mắc, vẫn biết rằng việc thiện là điều tốt phải làm, việc ác là điều xấu phải tránh, nhưng nếu cứ dính mắc vào việc thiện thì tu hành chẳng thể mang lại kết qủa mà chỉ được phúc thôi. Nếu còn dính mắc vào việc làm thiện thì tâm sẽ vướng víu vào việc làm thiện, ví như có ta bố thí, có người nhận, như vậy không thể nói là vô ngã được; dù có làm thiện phải coi như không làm không nhớ, không thấy việc làm ấy là quan trọng, do đó sẽ không vướng víu vào việc làm thiện nên tâm được an ổn và mới đạt được vô ngã đích thực và và sẽ dẫn tới đạt qủa Niết Bàn. Người đạt vô ngã ác pháp như ở trên đã nói chỉ đạt sơ qủa mà thôi, khi nào vô ngã cả thiện lẫn ác mới đạt được qủa vị Tứ Thiền, do đó điều nhận xét của tác giả Thông Lạc là lầm lẫn vậy.
V). HT.TTL: Một người toạ thiền thân không động, miệng không nói và ý không tư duy thì giống như cây đá, đó là thiền của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, ngược lại thiền định của Đạo Phật thân không hành ác, nhưng thân hành thiện, miệng không nói lời ác, nhưng miệng nói lời thiện, ý không suy nghĩ điều ác, nhưng ý suy nghĩ điều thiện; cho nên Đạo Phật không chấp nhận hành không, không chấp nhận hành ác, chỉ chấp nhận hành thiện. Vì vậy tu theo đạo Phật không trở thành cây đá, mà trở thành một con người hữu ích cho mình cho người, có nghĩa là không làm khổ mình khổ người, tạo cảnh sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.....[trang 170 TCB 1]
V). Phản biện:
Nói rằng: “Một người tọa thiền thân không động, miệng không nói và ý không tư duy thì giống như cây đá, đó là thiền của Đại Thừa và Thiền Đông Độ”. Để giải thích, chúng ta tạm lấy 2 trường hợp tu khác nhau tiêu biểu trong nhiều lối tu của Thiền Tông hiện nay như dưới đây:
1). Xả niệm thanh tịnh địa: Niệm dấy lên liền buông bỏ, chúng ta có thể trích một đoạn trong bài “Phật Giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ” của Hòa Thượng Thích Thanh Từ như sau:
“… Nói theo thứ bậc Tứ thiền, Sơ thiền gọi là Ly sanh hỷ lạc. Ly là lìa ngũ dục mà được vui. Nhị thiền gọi là Định sanh hỷ lạc, do tâm được an định, tự nhiên thấy vui; tâm yên thấy vui đó là định sanh hỷ lạc. Tiến lên tới Tam thiền gọi là Ly hỷ diệu lạc, nghĩa là ta bỏ cái vui của Ly sanh được cái vui của Định sanh; bây giờ cái vui của định cũng bỏ luôn, chỉ còn niềm vui nhè nhẹ thầm thầm bên trong gọi là Ly hỷ diệu lạc, vì vui thô mất đi chỉ còn vui tế nên gọi là diệu lạc. Tiến lên Tứ thiền gọi là Xả niệm thanh tịnh địa, tức buông niệm; niệm dấy lên liền buông, do buông niệm được yên nên gọi là Xả niệm thanh tịnh. Tu theo thứ tự từng bậc thì như vậy. Cho nên người tu theo Thiền tông không nói cấp bậc gì cả, mà nhảy thẳng vào chỗ vô niệm, nghĩa là đi tắt ngang Xả niệm thanh tịnh. Như thế ngầm hiểu họ cũng trải qua các thứ lớp kia, nhưng không nói từng bậc chứng đắc.
Bởi Phật nói tu Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ là bốn loại thiền ngoại đạo, nếu không tiến lên Diệt thọ tưởng định thì không thể nhập Niết-bàn được. Vì vậy Phật khuyên các thầy Tỳ-kheo không nên đi theo con đường Tứ không, mà ngang tới Tứ thiền tu qua Tứ Diệu đế, chứng Tứ quả Thanh văn thì tốt hơn.
Nói về Tứ không, trước tiên là Không vô biên xứ, đây là do hành giả dùng tưởng trống không, từ trống không nhỏ tới trống không lớn dần đến vô cùng vô tận, chứng đạt Không vô biên xứ. Bỏ cái không đó quay lại quán thức phân biệt của mình, biết thức phân biệt không có tướng mạo, từ phân biệt thân đến phân biệt tâm, cứ bủa ra khắp hết vô cùng vô tận, đạt được Thức vô biên xứ. Kế tiếp tưởng thân tâm không có gì hết, rỗng tuếch không chỗ nơi, chứng đạt Vô sở hữu xứ; dù tưởng rỗng tuếch vẫn còn là tưởng, nên tiến lên Phi tưởng phi phi tưởng, nghĩa là không có tưởng mà không phải không tưởng. Đến đây không còn tưởng thô, tưởng không, tưởng thức mà có tưởng vi tế tức tưởng rỗng tuếch, còn cái tưởng đó cũng phải bỏ, mới qua Diệt tận định; Diệt tận định còn gọi là Diệt thọ tưởng định. Thọ tức là cảm giác của sáu căn đối với sáu trần, tưởng là phần bên trong nội tâm; trong nội tâm thì lặng, ngoài đối với sáu trần không dính, tới đây nhập Diệt thọ tưởng định, chứng vô sanh tức quả A-la-hán. Tu theo Thiền tông không mắc kẹt ở Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, mà đi thẳng vào Xả niệm thanh tịnh; Xả niệm thanh tịnh rồi lại tiếp tục tiến thẳng lên Diệt thọ tưởng định, chớ không qua Tứ không. Như vậy chỉ một bước buông niệm là thẳng tới Diệt thọ tưởng định; đó là tôi đối chiếu giữa Thiền tông với thiền Nguyên thủy, tu theo Tứ đế.
Trên đường tu nếu theo cấp bậc thì thấy được quả này, quả kia. Nhưng thấy “được” thì dễ mắc kẹt trong chứng đắc lắm, chấp bữa nay tôi chứng Sơ thiền rồi, tâm ngã mạn theo đó phát sanh. Còn tu thấy niệm dấy khởi liền bỏ, không nói chứng thì không có gì để chấp, nhờ thế tâm ngã mạn không phát sanh; khi nào các niệm lặng hết, muôn duyên bên ngoài không dính, nội tâm không kẹt, không động, đó là vô sanh, không nói Niết-bàn mà đã nhập trong Niết-bàn, đây là gốc của sự tu.
Thật ra cấp bậc đều là giả danh, cái hiểu, cái sống thực bên trong mới quan trọng, Phật vì phương tiện lập ta cấp bậc để chúng ta dễ tu, đó không phải là mục đích cứu kính; nhưng vì không hiểu, ta lại chấp phương tiện ấy là chân lý nên không nhận ra được chỗ chân thật đức Phật muốn chỉ bày. Lại chỗ chân thật ấy không có tướng mạo nên không thể chỉ thẳng, dùng ngôn ngữ người ta càng không biết do đó buộc lòng đức Phật phải dùng phương tiện nói quanh co; ai nhận được thì tu đúng với tông chỉ của Phật, đạt được kết quả viên mãn.
Thế nên: phương tiện chỉ giúp chúng ta trong một giai đoạn nào thôi, phải cố gắng tiến lên nữa đừng để mắc kẹt trong phương tiện; nếu chúng ta còn kẹt nơi chứng đắc là còn toan tính còn trông đợi, mà toan tính trông đợi thì tâm làm sao yên. Đi tới cứu kính thì phải hoàn toàn vắng lặng mọi suy tư phân biệt, tâm lặng lẽ thanh tịnh mới thể nhập được chỗ chân thật bất sanh bất diệt…”
Xem lời giảng của HT Thanh Từ như vậy thì tác giả Thông Lạc đã căn cứ vào những từ ngữ: “Vô niệm, buông niệm, thấy niệm khởi liền bỏ, các niệm lặng hết, muôn duyên bên ngoài không dính, nội tâm không kẹt, không động, hoàn toàn vắng lặng mọi suy tư phân biệt, v.v…” mà cho Thiền Tông là như gỗ đá thì tác giả Thông Lạc đã không nắm được ý chỉ tu theo Thiền Tông, vì tất cả chỉ là mục đích đạt vô ngã y như Thiền Nguyên Thủy không khác vậy.
Thiền Tông hành trì có khi như không hành, bởi vì hành là tâm hành chứ không phải là thân hành nên tưởng rằng không tu hành gì cả, Thiền Tông không chấp nhận hành ác, chỉ chấp nhận hành thiện nhưng không bám vào sự chấp làm thiện. Vì vậy tu theo Thiền Tông không trở thành cây đá, mà trở thành một con người hữu ích cho mình và cho người.
2). Tham Thiền:
Trong quyển Pháp Môn Đốn Ngộ của Toàn Không Đỗ Đăng Tiến viết: “Phật và các vị Tổ-Sư truyền xuống đường lối tham thiền, nên được gọi là Tổ-Sư thiền, tham thiền được kết quả kiến-tánh gọi là đốn-ngộ; phương pháp tham thiền được đốn ngộ nên gọi là Pháp Môn Đốn Ngộ. Tham thiền cũng không nhất thiết hẳn là phải ngồi thiền, Lục-Tổ Huệ-Năng bên Trung-Hoa giảng: “Phải khi lao động (làm việc) mà tham được mới tốt”. Ngài nói: “Đạo do tâm ngộ, chứ không phải do ngồi, nói ngồi thiền tức là tâm ngồi, chứ không phải thân ngồi, nghiã là đối với tất cả cảnh giới tâm niệm chẳng khởi gọi là ngồi, trong thấy tự-tánh chẳng động gọi là thiền”.
Có một số người không hiểu đã thực hành sai, bị Tổ Lâm-Tế quở trách như sau:
“Có một bọn người ăn cơm no rồi ngồi thiền quán hạnh, chụp bắt niệm lậu không cho sinh khởi, tránh ồn ào, cầu tĩnh lặng, ấy là pháp ngoại đạo. Tổ-Sư nói: “Nếu ông trụ tâm khán tịnh, cử tâm ngoại chiếu, nhiếp tâm nội trừng (trong lặng), ngưng tâm nhập định; người như thế đều là tạo tác”. Người nghe pháp này làm sao tu nó, chứng nó, trang nghiêm nó, nó vốn chẳng phải vật để cho tu, chẳng phải vật để trang nghiêm được; nếu bảo nó trang nghiêm ông được, thì tất cả vật đều được trang nghiêm. Sơn Tăng (tự xưng) nói hướng ngoài chẳng có pháp, học nhân không lĩnh (lãnh) hội được bèn cho là hướng trong, rồi liền dựa vách ngồi trạm nhiên chẳng động; chấp lấy cái này là Phật pháp của Tổ môn, thực là sai lầm lớn. Nếu ông chấp lấy cảnh thanh tịnh bất động là đúng, như vậy là ông nhận cái vô minh là chúa tể; người xưa nói: “Chỗ hầm sâu đen tối mịt mù thật đáng ghê sợ” là lý này vậy”.
Thế nào là tham câu thoại đầu?
Chữ tham tức là nghi, nghi là thắc mắc không hiểu, một việc đã hiểu rồi thì hết nghi, cho nên tham thiền rất chú trọng cái nghi, cũng gọi là nghi tình; muốn khởi lên cái nghi tình này phải nhờ câu hỏi không hiểu nổi, tức là phải nhờ câu thoại đầu, gọi là tham câu thoại đầu. Có nghi tình mới được gọi là tham thiền như: “sinh từ đầu đến (?)”, chẳng thể không nghi chỗ đến, “tử đi về đâu (?)”, chẳng thể không nghi chỗ đi; cái nghi tình này ắt phải phát sinh.
Cũng như tham câu: “Khi chưa có trời đất, ta là gì?” Có biết ta là gì không (?), mờ mịt chẳng hiểu, chẳng biết mình là gì; muốn biết rõ mình mà không biết được thì phải sinh khởi thắc mắc: tại sao muốn biết mà hiểu không được. Lúc ấy hỏi thầm trong bụng “Ta là gì?”, cảm thấy không hiểu thì đáp không ra, đáp không ra thì càng thấy thắc mắc nên trong tâm càng sinh khởi thắc mắc nhiều hơn, đó gọi là nghi tình; có nghi tình tức là tham thiền vậy.
Thiền-Sư Lai-Qủa nói:
“Nghi người, nghi vật, nói chung là nghi pháp là hồ nghi, còn cái nghi này (nghi chính mình) tức là công phu tham thiền cũng gọi là chánh nghi vậy”.
Khi ta không hiểu biết nổi, từ đó cứ thắc mắc, cứ thế mà hỏi, tức là có nghi tình, cứ thế mà hỏi mãi, càng hỏi càng thắc mắc, ấy là phát nghi tình; Thiền Tông dùng cách tham hay tham thiền một câu hay một chữ không hiểu để làm cái búa tạ đập bộ óc vô minh gọi là tham thoại đầu.
Ngài Hư-Vân cho thí dụ:
“Thoại đầu là cây gậy, nghi tình là đi, như người cụt chân muốn đi phải nhờ cây gậy, cũng như muốn khởi nghi tình phải nhờ câu thoại đầu vậy”.
Một số câu thoại đầu tiêu biểu:
Sau đây là vài câu thoại đầu tiêu biểu, người tham thiền phải cân nhắc cho kỹ trước khi chọn một câu cho mình thực hành, nên nhớ là khi đã chọn và thực hành rồi thì không được đổi sang câu khác.
1- Khi chưa có trời đất, ta là gì?
2- Khi cha mẹ chưa sinh, bản-lai ta ra sao?
3- Chẳng phải tâm, chẳng phải vật, chẳng phải Phật, là gì?
4- Chủ nhân thân ta là ai và bây giờ ở chỗ nào?
Câu thoại là câu tự hỏi chính mình, có hỏi phải có đáp, đáp không được thì càng thắc mắc, thắc mắc nhiều gọi là đại nghi tình; hỏi lần đầu đáp không được, hỏi lần thứ hai thứ ba, cứ tiếp tục hỏi mãi ngày đêm không ngừng. Bất cứ khi đi đứng nằm ngồi, đang làm việc tay chân hay trí óc, khi đi bộ, đi xe, ăn cơm, uống nước, đi tiêu, đi tiểu, v.v…, đều phải tiếp tục hỏi hoài, hỏi mãi không giây phút nào để gián đoạn.
Người mới tham thiền đạt đến thoại đầu sẽ đạt đến chỗ tự tại, sẽ được giải thoát tất cả, tức minh-tâm kiến-tánh; người đã đốn-ngộ triệt để trở thành bậc Thánh ngay khi còn sống, chứ không cần chờ tới khi chết, vì người ấy biết hết, hiểu trọn mọi việc.
Xem cách tu Tham Thiền như thế mà tác giả Thông Lạc bảo Thiền Đông Độ là gỗ đá thì rõ ràng là hồ đồ không hiểu nhiều về Đông độ Thiền.
VI). HT. TTL: Muốn triển khai Minh trí tuệ, các nhà Đại thừa và thiền Đông Độ dùng pháp hành ức chế niệm thiện niệm ác, cho tâm không niệm thiện niệm ác là định và do tâm định thì phát tuệ (chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền), bản lai diện mục hiện tiền là Phật Tánh, mà Phật Tánh là tánh giác, tánh giác tức là trí tuệ. Do những pháp hành tu tập để triển khai trí tuệ như vậy, họ đã lầm, không ngờ đường tu tập ấy lại khai mở tưởng tuệ; khi tưởng tuệ được khai mở thì lý luận của các nhà Đại thừa siêu việt tưởng, nên không tôn giáo nào tranh luận hơn được, nhất là lý Bát Nhã của Đại Thừa. Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc (vô khổ, tập, diệt, đạo). (ĐVXP-Tập 6)
VI). Phản biện:
1). Nói rằng: “Lối tu tập chẳng niệm thiện chẳng niệm ác là pháp hành ức chế niệm thiện niệm ác, là khai mở tưởng tuệ” là lầm lẫn lớn; vì sao? Vì Phật dạy muốn giác ngộ giải thoát cũng như muốn kiến tánh đốn ngộ phải vô ngã, Thiền Tông khi tu thấy niệm dấy khởi liền bỏ, khi nào các niệm lặng hết, mọi suy tư phân biệt hoàn toàn vắng lặng, muôn duyên bên ngoài không dính, nội tâm không kẹt, không động, tâm lặng lẽ thanh tịnh mới thể nhập được chỗ chân thật bất sinh bất diệt, đây là gốc của sự tu theo Hòa Thượng Thích Thanh Từ.
Còn pháp môn tham thiền tức là tham câu thoại đầu còn gọi là tham khán câu thoại đầu, hoặc tham khán công án, tức là vừa hỏi vừa nhìn ngay chỗ không hiểu không biết ấy; tức là không cần phải dẹp bỏ muôn niệm thiện ác, chỉ chăm chú một niệm tham thoại đầu, nếu được miên mật rồi thì không còn kẽ hở cho bất cứ niệm thiện hay ác nào khởi lên nữa.
Thực ra: khi tham thoại đầu có nghi tình và miên mật, nó tự động chấm dứt tất cả cái biết của bộ óc, tại sao phải chấm dứt cái biết của bộ óc? Tại vì: cái biết của bộ óc là tướng bệnh, là cái biết không chân thật, cũng thuộc cái biết của người ngủ mơ, cái biết của người mù sờ voi, không thật. Người đạt đến thoại đầu sẽ đạt đến chỗ tự tại, sẽ được giải thoát tất cả, tức minh-tâm kiến-tánh và ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, nghiã là hết kiếp hiện tại sẽ nhập Niết-bàn, hay thung dung đến sáu cõi để cứu độ chúng-sanh đều tùy ý muốn.
Bằng những cách tu của Thiền Tông nêu trên, hành giả đạt giải thoát và lúc đó Phật tánh sẽ hiện ra, người tu Thiền Đông Độ trở thành người siêu việt nên không ai tranh cãi được với người đã giải thoát, chứ chẳng phải khai mở Tưởng tuệ như tác giả Thông Lạc lầm tưởng đâu. Vì không còn có tưởng ở trong tâm thì làm sao khai mở được tưởng tuệ, một danh từ lạ vì tưởng là tư tưởng của phàm phu, còn tuệ là trí tuệ là phát huệ của bậc thánh, hai thứ khác nhau, chúng ta không nên ghép chung làm một, vì cưỡng đặt danh từ này là rắn thêm râu, râu ông nọ cắm cằm bà kia không đúng chỗ.
2. Nói rằng: “Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc (vô khổ, tập, diệt, đạo). (ĐVXP-Tập 6)” thì không đúng, vì căn bản của Phật giáo vẫn là Khổ Tập Diệt Đạo không thể chối cãi, nhưng tiến lên tầng cao thì cái Khổ coi như không còn nữa vì người tu coi cái Khổ không nghĩa lý, nó chỉ là giả có, không thật, ngay cả cái vui cũng như không, nghĩa là vui sướng buồn khổ không dính mắc không chấp chặt vào thân tâm, nếu hành trì được như vậy là đạt đến vô ngã.
Nói đến Bát Nhã Tâm Kinh, là nói đến chữ Tâm, Kinh Hoa Nghiêm nói lên ý này là: "Nhất Thiết Duy Tâm Tạo", vũ trụ vạn hữu và vạn vô, tất cả đều là Tâm, Tâm bao gồm hư không pháp giới gọi là "Bản Tâm", bản tâm tức là Tự tánh, Tự tánh là Bất Nhị (không hai). Hư không pháp giới tức là Tâm, Tâm tức là hư không pháp giới, chẳng phải là hai cái, không có khác biệt, như vậy mới đúng với cái nghĩa Bất Nhị của Tự tánh.
Tâm Kinh muốn làm cho tất cả muôn ngàn cái tâm sai biệt của chúng ta đều đạt đến chỗ hoàn toàn không sai biệt, hồi phục lại cái Bất Nhị của Tự tánh, cho nên Kinh này dạy chúng ta y theo đó mà thực hành để đạt đến chỗ Bất Nhất Bất Nhị, chổ hoàn toàn không có sai biệt. Tâm Kinh dạy chúng ta phá chấp tất cả, phá từng thứ lớp, phá tới không còn gì để phá nữa, kết quả được Kiến Tánh, biết rõ được chính mình, đạt đến tự do tự tại, cũng là đạt đến bờ bên kia (Ba La Mật) vậy.
Tâm Kinh dạy phá sạch hết mọi thứ như: Không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp; không có nhãn thức giới, cho đến ý thức giới. Không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí huệ, không có chứng đắc, cũng không có chỗ được. Khi đã phá chấp hết mọi thứ sạch không còn dấu vết nào nữa sẽ đạt tới cứu cánh Niết Bàn; ba đời Chư Phật y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, đều được đạo qủa Bồ Đề.
Vì thế cho nên nói: “tu tập (Bát Nhã Tâm Kinh) ấy lại khai mở tưởng tuệ; khi tưởng tuệ được khai mở thì lý luận của các nhà Đại thừa siêu việt tưởng, nên không tôn giáo nào tranh luận hơn được, nhất là lý Bát Nhã của Đại Thừa. Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc” là không đứng vững vì Tâm Kinh phá mọi kiến chấp của con người thì làm gì còn Thọ Tưởng Hành Thức nữa. Tác giả Thông Lạc đã cố gán ghép cho Bát Nhã Tâm Kinh một trọng tội là tiêu diệt Phật giáo chính gốc, sự thật lý Bát Nhã của Phật giáo Bắc truyền không tiêu diệt Phật giáo Nguyên Thủy, Nguyên Thủy vẫn là căn bản, nhưng Bắc truyền hành trì ở một tầng bậc khác nhưng kết qủa vẫn như kết qủa của Nam Truyền vậy thôi.
VII). HT. TTL: Đưa ra một số vấn đề của Phật giáo Bắc truyền như sau:
1). HT TTL: Cái sai thứ nhất của kinh sách Phát Triển và Thiền Tông là: Khi tâm hết vọng tưởng do sự tập trung ức chế ý thức mà cho là định thì định đó không phải là định của Đạo Phật, mà là định của ngoại đạo.
1). Phản biện: Như đã chứng minh ở phần đầu, ở đây chúng ta có thể trích một đoạn trong bài “Bà La Môn Giáo và Triết học Phật Giáo” của Như Thị để dẫn chứng sự khác biệt giữa Bà La Môn và Phật giáo Bắc truyền như sau:
“Bà-la-môn giáo cho rằng cuộc đời này là sự giả tạm và đau khổ, bởi thế sự giải thoát chính là cần thiết nhất mà tất cả các thế hệ tư tưởng Ấn Độ đều nỗ lực tìm kiếm; đối với họ, sự giải thoát chính là sự trở về với bản thể Phạm Thiên, nhưng tại sao phải trở về? Bởi vì tiểu ngã Atman đã ngày càng đi ra khỏi những quy luật của Đấng sáng tạo Phạm Thiên. Nguyên nhân là do linh hồn đã bị vô minh dục vọng làm ô nhiễm để rồi bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi không bao giờ trở về được nữa; muốn diệt dục vọng, vô minh không gì khác hơn là dùng thiền Yoga để đạt được những trạng thái thiền định.
Chính trạng thái thiền định này giúp cho người Bà-la-môn hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng của Ý thức, cái mà họ cho rằng chính nó là nguyên nhân của sự phân biệt đối đãi, vô minh, ham muốn… Bởi thế, Bà-la-môn giáo chủ trương dùng trí tuệ đạt được bằng cách thể nhập các loại định Yoga để loại bỏ sự kiềm tỏa của Ý thức, lúc đó sự giải thoát mới có thể được xảy ra và bản ngã hoàn toàn được thể nhập vào đại ngã Brahman.
Một ảnh dụ thường được các Bà-la-môn dùng để ám chỉ điều này là sự không mộng mị của một giấc ngủ; câu chuyện giữa Indra và Prajàpati trong Upanisads kể lại trong một lần đối đáp, Prajàpati đã trả lời câu hỏi của Indra rằng, người được hưởng giấc ngủ say không mộng mị là bản ngã. Trong Bà-la-môn giáo, Chàndogya Upanisads đã phải dùng đến câu chuyện giữa Prajapati và Indra; câu chuyện này đề cập đến 4 giai đoạn thể nghiệm Atman của Indra, bốn giai đoạn đó là:
- Thức (Vishva)
- Mộng (Taijasa)
- Ngủ say không mộng (Pràjna)
- Ý thức tâm linh (Turiya)
Với sự hoàn tất cả bốn giai đoạn trên, người Bà-la-môn có thể được đồng nhất Atman với Brahman đồng thời tận hưởng hạnh phúc của sự vĩnh hằng; đây là thực tại theo Bà-la-môn giáo.
Còn đối với Phật giáo, phạm trù giải thoát bao gồm: đối tượng để giải thoát và phương pháp:
1. Đối tượng để giải thoát:
Về đối tượng, Phật giáo đồng ý với Bà-la-môn giáo khi cho rằng cuộc đời của con người là đau khổ, và nỗi khổ này không có nguyên nhân nào khác ngoài vô minh, ái dục. Muốn hết khổ thì phải loại bỏ những nguyên nhân ấy, tuy nhiên, quan điểm về vô minh của Phật giáo khác với Bà-la-môn giáo ở chỗ: nếu Bà-la-môn cho rằng vô minh là do mối quan hệ giữa Ý thức và cảm giác hiện tượng quá sâu đậm dẫn đến sự mê đắm mà đánh mất tính chất thanh cao của Bản ngã nên bị luân hồi sanh tử, thì Phật giáo lại cho rằng “Bất tri Đệ nhất nghĩa đế vị chi vô minh” (không liễu tri được Đệ nhất nghĩa đế là vô minh)
Theo Phật giáo Nam truyền giải thích, vô minh là không liễu tri được Tứ Đế, còn Bắc truyền Phật giáo thì cho rằng không giác ngộ được bản chất như thật của các pháp gọi là vô minh. Bản chất như thật ở đây tức là bản chất không thật tánh của các pháp và Phật tánh viên dung của chúng sanh. Và Phật giáo cho rằng muốn giải thoát thì trước hết phải liễu tri được Đệ nhất nghĩa đế ấy, cho nên đối tượng giải thoát tất nhiên là con người, nhưng đi sâu vào nội dung thì Bà-la-môn giáo chú trọng ở vấn đề đưa bản ngã con người ra khỏi tầm ảnh hưởng của Ý thức, còn Phật giáo thì lại phát triển Ý thức lên đỉnh điểm của nhận thức, tức là Diệu Quan Sát Trí để chuyển hóa tâm thức và giác ngộ thật tánh các pháp.
2. Phương pháp giải thoát
Do hướng đến sự thể nhập của bản ngã vào Đại ngã làm đối tượng nên các phương pháp của Bà-la-môn giáo để tiếp cận bao gồm thực hành các lễ nghi, nghiên cứu Veda và thực hành Yoga với mục đích hạn chế Ý thức để đạt được giải thoát. Trong khi đó, Phật giáo Bắc truyền lại cho rằng giác ngộ được các pháp như thật “nó đang là” mới được gọi là giải thoát; điều này đã được đức Phật dạy rằng: “Yah pratìtysamutpàdam paysyati so dharmam pasyati, yo dharmam pasyati so buddham pasyati” (Ai thấy lý Duyên khởi, người ấy thấy Pháp; ai thấy Pháp, người ấy thấy Phật”). Bởi vậy, trong Phật giáo, các pháp môn, dù là lễ bái, dù là niệm Phật, hay tọa thiền, đả thất,… tất cả đều lấy việc việc nâng cao sự nhận thức của tâm thức lên đến tột đỉnh của sự giác ngộ; nói khác hơn, tất cả chỉ vì hoàn thiện tính năng tự hoạt của tâm, mà một trong các đại diện của cái tâm ấy là Ý thức.
Tóm lại: Thiền Yoga là lối tu có trước đức Phật từ lâu, các đạo sĩ sống nơi hoang vắng, xa lánh sự ồn náo của thế gian, tu luyện lối sống minh triết đặc biệt; thiền Yoga có hai phái khác nhau:
- Hatha Yoga: Chuyên luyện tập thân thể chịu đựng dẻo dai, quyết chí bền vững với thời gian, mong được sống khỏe, sống lâu.
- Raja Yoga: Luyện tập ý chí trở thành năng lực thông tuệ, đem Tiểu ngã Atman hòa nhập vào Đại ngã Brahman”.
Dĩ nhiên Bà La Môn khi đạt đạo của họ chỉ có 5 thần thông, nhưng không có lậu tận thông như 6 thần thông giải thoát của Đạo Phật; xem như thế mà bảo rằng “ức chế ý thức và cái định của Phật giáo Bắc truyền là cái định của ngoại đạo” là không chính xác.
2). HT TTL: Cái sai thứ hai là: Trong chỗ hết vọng phát sanh sự hiểu biết, mọi người đều lầm tưởng mà cho sự hiểu biết đó là trí tuệ; sự thật đó là tưởng tri chứ không phải trí tuệ. Đức Phật đã xác định trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, mà giới luật tức là đức hạnh, cho nên người có đức hạnh là người có trí tuệ, người có trí tuệ là người có đức hạnh.
2). Phản biện:
1. Nói rằng: “Trong chỗ hết vọng phát sanh sự hiểu biết, mọi người đều lầm tưởng mà cho sự hiểu biết đó là trí tuệ; sự thật đó là tưởng tri chứ không phải trí tuệ”. Vấn đề này đã chứng minh bác bỏ ở phản biện thứ sáu ở trên khi luận bàn về Tưởng tuệ, ở đây tác giả Thông Lạc lại đẻ ra một danh từ mới nữa là tưởng tri; Tưởng tri là cái biết của tư tưởng, vẫn thuộc lãnh vực phàm phu, nên không thể đạt giải thoát được. Sự thực thì theo Bắc truyền, thân người gồm có thân và tâm, thân là sắc, tâm là thọ tưởng hành thức; tất cả sắc thọ tưởng hành thức phải không còn được chấp thật nữa mới gọi là vô ngã, muốn vậy hành giả phải quán sát thân tâm là vô ngã.
Thân là sắc do tứ đại, đất là của đất, nước là của nước, gió là của gió, lửa là của lửa chứ đâu có cái nào là của Ta; Tâm gồm Thọ Tưởng Hành Thức. Thọ là cảm thọ lúc cảm thọ vui lúc cảm thọ buồn lúc cảm thọ không vui không buồn, không cố định lúc có lúc không như thế thì làm sao bảo Thọ là Ta được, vì cái Ta trường tồn bất biến. Tưởng là nghĩ nhớ cái nọ cái kia, khi nghĩ nhớ khi không nên không thể bảo Tưởng là Ta được vì cái Ta trường tồn bất biến.
Hành là suy nghĩ tạo tác, khi có hành khi không hành chẳng phải thường hành, nên cũng chẳng thể là Ta; Thức là ý thức phân biệt cũng vậy khi có phân biệt khi không, nên chẳng thể là cái Ta bất biến, do đó cả Thân và Tâm đều không phải là Ta nên vô ngã. Nếu sự quán chiếu đến thuần thục rồi, hành giả sẽ được giác ngộ kiến tánh, nghĩa là khi không còn một tí nào dính mắc chấp chặt vào Thân và Tâm nữa tức là chẳng còn niệm thiện niệm ác thì được giải thoát, và khi đã được giải thoát rồi thì làm gì có tưởng tri hay tưởng biết nữa.
2. Nói rằng: “Đức Phật đã xác định trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, mà giới luật tức là đức hạnh, cho nên người có đức hạnh là người có trí tuệ, người có trí tuệ là người có đức hạnh”. Người có giới hạnh đầy đủ thì sẽ có trí tuệ, đó là đối với Nguyên Thủy, còn đối với Bắc truyền thì đức Phật nói tới hai loại trí, chúng ta trích một đoạn của bài Trí Tuệ trong quyển Phật Giáo Căn Bản của Toàn Không Đỗ Đăng Tiến như sau:
- Căn bản trí: Là giác tính minh diệu mà mọi chúng sanh đều có sẵn, nhưng bị vô minh che lấp nên chưa xuất hiện, bị đủ thứ thói hư tật xấu như tham sân si mạn nghi v.v… vùi dập; thí dụ như chất vàng lẫn trong quặng đất sỏi đá, như mặt trời bi che bởi sương mù về mùa đông nên chẳng thể hiển lộ được.
- Hậu đắc trí: Là trí huệ có được nhờ công phu tu tập, ví như vàng đã được lọc luyện từ quặng đất sỏi, vàng không còn lẫn lộn với bất cứ chất gì khác; người tu hành đến khi hết vô minh phiền não, trí huệ hiện ra.
Tuy phân ra hai loại nhưng chỉ là một, cũng như một thứ vàng, sau khi tu đạt hậu đắc trí tức trí huệ hiện; tất cả những ai tu muốn có trí huệ đều phải giữ Giới là lẽ đương nhiên, nhưng giữ Giới không thôi mà không tu hành gì cả thì giữ giới cả đời cũng chưa chắc đã có trí huệ, bởi vì chuyện đời như màng nhện như sỏi đất luôn luôn quấn quýt làm dơ bẩn con người. Khi gỡ được màng nhện này thì màng nhện kia dính vào, khi rửa được thân sạch thì miệng dơ, khi rửa được miệng sạch thì ý nhiễm sự đời, trăm nghìn thứ giữ sao cho trọn vẹn để phát sinh trí tuệ đây nếu không tu?
- Nguồn gốc trí huệ: Do chữ Nam Phạn (Pali) “Panna” chữ Bắc Phạn (Sancrit) “prajna”; người Trí Huệ hiểu rõ sự lý cùng tột, là trực nhận tánh không, là giác ngộ, là “Trí biết tục đế, Huệ thông chân đế”. Có thể nói Trí là thể tính sáng suốt trong sạch, Huệ là cái sáng chiếu soi, Trí Huệ rộng lớn (Ba La Mật) là thể tính sáng suốt soi sáng một cách tinh tường không thể nhầm lẫn; trí huệ là sự hiểu biết siêu việt cùng tột, là giải thoát.
- Làm sao có trí huệ?
Muốn có trí huệ, đức Phật đã dạy tám vạn bốn nghìn pháp môn tu, người Phật tử có thể chọn bất cứ pháp môn nào thích hợp với mình để tu hành, đều có thể đạt được trí huệ tức là giải thoát. Tuy nhiên, căn cứ duy thức học, sau khi tu theo duy thức, các thức được chuyển biến thành các trí, khi hành giả đạt trí huệ sẽ có bốn trí như sau:
a. Thành sở tác trí: Năm thức Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân trở thành trong sạch không còn một tí gì bợn nhơ của năm trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, nghĩa là không còn vẩn đục bởi phàm trần. Tâm hành giả: như hồ nước trong lặng không gợn sóng, lúc đó năm thức biến thành “Thành sở tác trí”; nghĩa là năm giác quan của chúng ta trở thành có năng lực thần diệu kỳ bí, chứ không còn là giác quan của kẻ phàm phu chỉ nhận biết một cách hạn hẹp mà thôi.
b. Diệu quan sát trí: Thức thứ sáu, là ý thức là thức góp ý nhận biết cho năm thức nêu trên, thức này làm việc suốt ngày đêm không ngưng nghỉ. Ban ngày suy nghĩ tưởng nhớ hết việc này qua chuyện khác, lo lắng buồn khổ, hân hoan sung sướng v.v…, ban đêm khi ngủ mộng mơ đủ cả. Khi tâm viên ý mã (tâm ý như khỉ ngựa) ấy đã được cột lại một chỗ hết đường cựa quậy qua sự tu hành rồi, thức này chuyển thành “Diệu quan sát trí” có công năng quan sát thâm diệu cùng khắp.
c. Bình đẳng tính trí: Thức thứ bảy Mạt Na là thức tự ý thức về chính mình, ô nhiễm cho rằng mình có một cái ta, Mạt Na phân biệt chủ thể khách thể tạo nên ý thức nhị nguyên chấp ngã (ta) nhân (người) chúng sanh (muôn loài). Năm giác quan cùng ý thức báo cho Mạt Na thông tin từ bên ngoài không hề đánh giá tốt xấu, chính Mạt Na là kẻ đánh giá phải trái hay dở tốt xấu v.v…, và ra lệnh cho sáu thức kia phản ứng hành động, đồng thời Mạt Na lại đưa tất cả các cảm giác (chủng tử) vào A Lại Da là thức thứ tám. Khi tu hành phá vỡ tan tành chấp tướng ngã nhân chúng sanh thọ giả (cảm giác) của Mạt Na thì nó chuyển thành “Bình đẳng tánh trí”, nghiã là trí huệ này có năng lực nhận thức chân thật về tính bình đẳng vô ngã trong muôn pháp.
d. Đại Viên cảnh trí: Khi cảm giác của tất cả các hoạt động của năm căn và ý được Mạt Na đưa vào A Lại Đa, thức này có nhiệm vụ giữ gìn tất cả các tin tức ấy, gọi là chấp trì sinh mạng chủng tử. Khi tu hành đạt đến địa vị vô lậu (không còn ô nhiễm), thức này chuyển thành “Đại Viên cảnh trí”, tức là thành cái trí huệ sáng suốt trong sạch như chiếc gương khổng lồ tròn đầy trong sạch soi chiếu cùng khắp, tương ưng cho chân tâm chân như Phật tánh.
Tóm lại trong khi tu, hành giả Bắc truyền vẫn phải tuân hành giới luật triệt để chứ không phải là không có đạo hạnh như tác giả Thông Lạc đã lầm tưởng đâu.
3). HT TTL: Nói rằng: Trí tuệ hiểu biết những tưởng pháp như hiểu biết trong kinh sách Đại Thừa và các công án của Thiền Đông Độ là tưởng tuệ; sự hiểu biết đó không ích lợi cho mình cho người, sự hiểu biết đó chỉ là một hý luận. Từ xưa đến giờ các thiền sư dựng lên trò hý luận công án nói Đông trả lời Tây, nói Nam trả lời Bắc và còn hơn thế nữa là la, hét, chỉ, trỏ, v.v...(ĐVXP-Tập 8)
3). Phản biện:
1. Thiền Đông Độ là tưởng tuệ. Như đã phân tích phản biện trong các phần ở trên, tác giả Thông Lạc cho là Tưởng tuệ là không đúng: Tưởng là tư tưởng thuộc lãnh vực phàm phu, Tuệ là trí tuệ là phát huệ đưa đến bậc thánh, hai thứ khác nhau, không nên lầm lẫn tư tưởng với trí tuệ, cũng không nên ghép chung tưởng với tuệ để nói tưởng tuệ, mà phải nói là người tu đạt được trí Tuệ, khi đã đạt được trí tuệ thì không thể bảo rằng sự hiểu biết của Thiền Sư là hý luận. Các cách hét la, đánh đập, chỉ trỏ, hỏi Đông trả lời Tây, hỏi nam trả lời Bắc v.v… chỉ là phương tiện thiện xảo của Thiền Sư để đưa hành giả mau đốn ngộ giải thoát khỏi sinh tử luân hồi mà thôi; những cách hành xử như thế đều không khác khi đức Phật đưa lên cành hoa nơi Hội Linh Sơn, Ngài Đại Ca Diếp nhìn thấy đã mỉm cười và được đức Phật ấn chứng ngộ đạo. Chúng ta nêu ra vài trường hợp kỳ đặc của Thiền sư như sau:
2. Thiện xảo của Thiền Sư:
Trong Thiền Thất từ 20-10-1993 đến 26-10-1993 tại Từ Ân Thiền Đường, Việt Nam, một vị Tăng hỏi Hòa Thượng Thích Duy Lực:
Hỏi: Vừa rồi con có nhập thất, khi công phu xong, con ra ngắm trăng, tự nhiên trong tâm lưu xuất năm câu “Sống điên đảo, nói điên đảo, ăn điên đảo, nghĩ điên đảo, tưởng điên đảo,” con không biết đó là cái gì?
Đáp: Dẫu cho lưu xuất đúng với Chơn như Phật tánh cũng là vọng, đừng biết tới, nếu khởi lên cái biết, Thiền tông gọi là “cửa của tất cả tai họa. “Tổ Sư Thiền là dùng cái không biết để tu, giữ cái nghi để đưa đến kiến tánh, khi kiến tánh sẽ biết hết”; nay có biết tức chướng ngại cho sự tu, nên nói chữ TRI là cửa tai họa. Ví như ngày trước bên Trung Hoa Hòa Thượng Thủy Lạo, bình thường đã có công phu nhưng chưa ngộ, ông xin yết kiến ngài Mã Tổ để trình công phu, khi vừa bước chân vào gặp ngài Mã Tổ nói: - Đảnh lễ đi! Thượng Tọa Thủy Lạo đang lạy xuống bị ngài Mã Tổ đạp nhào một cái liền ngộ; ấy là thình lình chặn đứng sự suy nghĩ phân biệt, Ý thức của chúng ta như nguồn suối, ngày đêm chảy xiết, nên cái biết của Phật tánh chẳng thể hiện ra được; khi thình lình bị chặn đứng thì Phật tánh liền hiện, khỏi cần hỏi nữa, mới biết thủ đoạn của Tổ sư.
Ví như: ngài Huỳnh Bá bảo nhiệm sau khi ngộ (tìm cách chứng tỏ mình đã ngộ), người khác thì nhập thất để bảo nhiệm (gặp vị đã ngộ rồi chứng cho mình đã ngộ), còn ngài lại đi vào một ngôi chùa làm công quả, ai sai việc gì làm việc nấy.
Một hôm, Thừa tướng Bùi Hưu (là người có tham thiền) đến viếng chùa, thấy trên vách vẽ một vị cao Tăng, hỏi người chủ chùa: - Đây là hình tượng của ai? - Đó là một vị cao Tăng. - Hình vẽ đây rồi, còn cao Tăng ở đâu? Chủ chùa im lặng không trả lời được; Bùi Tướng quốc hỏi:
- Chùa này có Thiền sư không? Đáp: Có một vị mới đến mấy hôm, đang làm công quả, xem cử chỉ thì giống Thiền sư.
- Vậy thì mời Sư đó ra. Gặp Hoàng Bá, Tướng quốc hỏi: - Hồi nãy tôi thấy bức tranh này, hỏi Chủ chùa, nhưng ngài lại tiếc lời dạy bảo, chẳng biết Sư có thể chỉ dạy không? - Xin hỏi. - Hình tượng ở đây, còn cao Tăng đâu? Huỳnh Bá la lên gọi: Bùi Hưu! Bùi Hưu đáp: Dạ. - Ở đâu?
Bùi Tướng quốc liền ngộ, khen rằng: “Thật là Thiền sư!,” bèn mời về phủ cúng dường, và lễ Ngài làm thầy. Cho nên, Phật pháp chẳng phải do học, chỉ có Thiền sư kiến tánh rồi mới có cơ xảo đó, khiến người khai ngộ. Nếu người chưa kiến tánh, cứ theo lời nói để trả lời thì làm sao ngộ được; nay quí vị hỏi mà tôi trả lời là muốn khiến cho tin tự tâm đầy đủ, cứ giữ mãi nghi tình sau này sẽ ngộ.
Xem hai thí dụ kể trên mà cho là: “sự hiểu biết đó không ích lợi cho mình cho người, sự hiểu biết đó chỉ là một hý luận. Từ xưa đến giờ các thiền sư dựng lên trò hý luận công án nói Đông trả lời Tây, nói Nam trả lời Bắc và còn hơn thế nữa là la, hét, chỉ, trỏ, v.v...” thì thật là lầm lẫn tai hại đối với Thiền Tông và oan cho thiện xảo của chư Thiền sư đã moi gan tim óc mình ra để hướng dẫn chỉ bảo người học đạt mục đích tối thượng mà có người không hiểu đã nhục mạ Thiền sư là hý luận thì thật là không có lời nào nặng bằng*

VIII). HT. TTL: Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông. Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này, Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ....(ĐVXP-Tập 8)
VIII). Phản biện:
1). HT TTL viết rằng: “Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông” là không tìm hiểu kỹ càng, vì các kinh Bắc truyền phần nhiều đều là Kinh liễu nghĩa, người đọc kinh Kim cang mà hiểu được ý nghĩa trọn vẹn thì rất dễ để theo đó áp dụng hành trì; nếu người đọc không nắm vững được ý Kinh thì làm sao biết áp dụng hành theo, nên tưởng rằng chỉ có lý thuyết suông.
Thật ra Kinh Kim Cang (hay Kim Cương), tên đầy đủ là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), từ tiếng Phạn: Vajracchedika là Kim Cang, nó có khả năng cắt chém cứng như kim cang. Trong bối cảnh của bài Kinh, chúng ta có thể hình dung ra một chiếc gươm bén chắc chặt đứt các màn hình tướng để lộ ra sự thật, cũng có thể hiểu là kinh có một sức mạnh sấm sét, một sức công phá khủng khiếp, nhằm phá tan mọi kiến chấp.
Kinh nói, Bồ-tát hành đạo, để đạt đến cứu cánh cần phải loại trừ ý niệm về tự ngã; nhưng tự ngã ấy bị bọc trong lớp vỏ vô minh, muốn diệt trừ vô minh phải có định lực và trí tuệ như kim cang mới loại trừ được nó.
Chúng ta từ vô thủy đến nay bị vô minh bao phủ bằng vọng tưởng thành thân của ta, bằng sự khổ vui, bằng tài sản của cải, cho đến gia đình xã hội, núi sông đất nước của ta đều cho là hiện thực; vì vậy cho nên khi không còn được như ý muốn, khi tán gia bại sản, khi núi sông đất nước sụp đổ, thì cái vọng tưởng cũng sụp đổ gây nên tức giận buồn khổ đến tự tử bằng cách có kẻ trầm mình xuống sông, hoặc treo cổ trên cành cây v.v...
Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực; người nghe có thể kinh hoàng, như nghe sét đánh ngang tai; tiếng sét đó là từ Kim cang bát-nhã. Nếu chúng ta đọc kinh Kim Cang với sự suy gẫm cao độ thì kinh Kim cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái ta, và chỉ cách vận dụng kim cang trí đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.
Tiếng sấm sét đầu tiên trong Kinh Kim Cang là khi Tôn Giả Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn, Ngài thật hiếm có trên đời, Ngài khéo hộ niệm cho các Bồ Tát, khéo phó chúc cho các Bồ Tát. Bạch Thế Tôn, thiện nam tín nữ đã phát tâm nguyện vô thượng Bồ đề, thì phải an trụ tâm thế nào, hàng phục tâm thế nào?"
Phật bảoTu Bồ Đề rằng: "Các Bồ Tát nên hàng phục cái tâm như thế này: Tất cả chúng sanh các loài, dù sanh bằng trứng bằng thai, dù sanh bằng ẩm thấp bằng hóa sanh, dù có hình sắc hay không hình sắc, dù có tư tưởng hay không tư tưởng, ta phải làm sao giúp chúng đều được diệt độ vào Niết Bàn. Diệt độ cho vô lượng vô số vô biên chúng sanh như vậy mà thật ra không có chúng sanh nào được độ cả, tại sao vậy? Tu Bồ Đề! Vì nếu Bồ Tát vẫn còn phân biệt tướng ngã, tướng nhân, tướng thọ giả, thì không phải là Bồ Tát vậy"
Ở đây Phật dạy chúng ta bỏ phân biệt chấp trước cái ta là thật (ngã), xa lià chấp người, vật là thật (nhân, chúng sinh), diệt trừ chấp mạng sống tiếp nối là thật (thọ giả), vì ý thức thường lưu động theo vọng tâm vọng cảnh (gọi là người có thọ giả tướng). Chúng ta có thể diễn giải theo tinh thần Thiền tông là không nên chấp trước, không nên dính mắc vào hình tướng, sắc thanh hương vị xúc pháp trong việc hàng phục tâm. Phần chính của Kinh Kim Cang đều đồng loạt một đường lối thường được dùng là:
"Cái này có (khẳng định), thực ra nó không có (phủ định), vì vậy người ta gọi nó là (khẳng định)".
Như: Như Lai nói Thế giới, thực ra không phải là Thế giới, ấy mới gọi là Thế giới
Hoặc: Bồ Tát có trang nghiêm cõi Phật, tức không phải là trang nghiêm; chỉ tạm gọi là trang nghiêm thôi.
Hoặc: Thân người to lớn như núi Tu Di thật là to lớn, nhưng không phải là thân to lớn, đó mới thực là thân to lớn.
Suốt phần Tôn Giả Tu Bồ Đề hỏi Phật của Kinh Kim Cang đều chẳng ngoài ý nghĩa ba câu như nêu trên:
Câu thứ nhất: Chấp thật
Câu thứ hai: Phủ định, phá, chống lại câu 1, lọt vào chấp không.
Câu thứ ba: Giả danh, tạm gọi thôi.
Câu thứ ba phá cả ba câu 1, 2, 3, vì cả ba đều là giả danh, nghĩa là bác bỏ chấp thật của câu 1, bác bỏ chấp không của câu 2, bác bỏ chấp điên đảo tưởng của câu 3, thế nào là điên đảo tưởng? Nghĩa là: khi chúng ta gọi cành hoa chẳng hạn, Bồ Tát cũng gọi cành hoa như chúng ta, nhưng chúng ta lại có tư tưởng đẹp xấu, dính mắc yêu ghét, đây là điên đảo tưởng; còn Bồ Tát tuy cũng gọi là cành hoa nhưng không dính mắc ý tưởng yêu ghét, thì gọi là lưu bố tưởng thôi, nên Bồ Tát không có điên đảo tưởng. Chúng ta muốn được như Bồ Tát thì phải tu hành sao cho không còn điên đảo tưởng, như vậy thì làm sao có thể nói rằng: “Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông”; ở đây ví như người ngủ mê nên đã nói mơ vậy đó.
2). HT TTL viết rằng: “Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này. Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ......(ĐVXP-Tập 8)
Câu nói trên chứng tỏ là tác giả không nắm được Kinh Kim Cang của Bắc truyền, không biết về lịch sử Thiền Tông, chúng ta cùng theo dõi tiếp về Kinh Kim Cang do tác giả Trịnh Nguyên Phước phân tích như sau:
“Trong chương 10, để có tâm thanh tịnh, đức Phật khuyên: “không nên trụ vào sắc mà sanh tâm, không nên trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm, không nên trụ vào chỗ nào mà sanh tâm." (Hán văn: Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.)
Thoạt nghe câu trên không có vẻ gì đặc biệt, nhưng thật ra chứa đựng thông điệp thâm sâu sắc bén; chính trong khi nghe thầy mình, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đọc lại câu này, mà Lục tổ Huệ Năng hoát nhiên đại ngộ và kêu lên: "Đâu ngờ tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh! Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt! Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động! Đâu ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp!", và vua Trần Thái Tông cũng đạt được đại ngộ khi đọc đến câu này.
Như vậy, câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm hẳn phải có một sức mạnh đặc biệt lắm mới có thể gây chấn động và tuệ giác nơi hai vị Thiền sư xuất chúng này. Đó có thể là 8 chữ nói đến bởi Trúc Lâm Sơ Tổ Trần Nhân Tông khi trả lời một vị tăng hỏi ngài 'cứu cánh là gì?': "Bát tự đả khai phân phó liễu, Cánh vô dư sự khả trình quân".(Tám chữ mở thông đà trao hết, còn gì đâu nữa để trình ông).(Trong bài kệ "Hữu cú vô cú").
Nếu phải thu gọn Kinh Kim Cương vào một câu, chỉ một câu thôi, thì có lẽ chính là câu này. Làm thế nào để an trụ, hàng phục tâm? Đức Phật đã trả lời một cách ngắn gọn câu hỏi của trưởng lão Tu Bồ Đề: "Đừng để tâm trụ vào một nơi nào hết". Bởi vì khi tâm bắt đầu trụ (hay dính mắc) vào sắc, thanh, hương, vị, xúc hay pháp, thì tức khắc tâm dấy lên, tâm bị dao động vì vọng tưởng, cho nên không còn cái thanh tịnh trong sáng ban đầu. Trong Kinh còn nói, trong chương 14, "Nếu tâm còn chỗ trụ, tức không phải là trụ" (Hán văn: Nhược tâm hữu trụ, tức vi phi trụ)”. Như vậy, có thể nói rằng: muốn tâm an trụ thì đừng để cho tâm trụ. Tâm không trụ thì mới an trụ”.
Thế mà tác giả Thông Lạc nói rằng: “Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này, kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ”; đọc đoạn trên rồi thì thấy rõ nói như vậy là không đúng sự thật.
IX). HT. TTL: Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới không phải là chánh pháp của Phật mà là của Bà La Môn có thâm ý muốn diệt Phật giáo nên mới chế ra Bồ Tát Giới; mục đích của Bồ Tát Giới là bộ sách có hình thức tổ chức người cư sĩ thành một tổ chức để phục vụ cho Phật Giáo Đại Thừa. Phần thứ nhất là khuyến dụ người cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp công góp của xây dựng đạo pháp của Bà La Môn, nhưng sự thật là phục vụ cho quý Thầy Đại thừa: Bồ Tát Giới là một bộ sách khuyến dụ Phật tử để lừa công sức và lừa của cải, tiền bạc của họ; Bồ Tát Giới là một loại kinh sách với thâm ý diệt Phật Giáo, quý vị đọc cho kỹ lại bộ sách thì mới thấy rõ âm mưu thâm độc của Phật Giáo phát triển Đại Thừa. ...(ĐVXP-Tập 8)
IX). Phản Biện:
1). Trình bày sơ lược Kinh Phạm Võng
Kinh Phạm Võng nói về Giới luật cho những người tu hành Bồ Tát đạo, muốn lãnh thọ Bồ Tát Giới, thì bất cứ ai, dù là Quốc Vương, Vương tử, Tể tướng, Bách quan, Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Phạm thiên, chư thiên trong mười tám tầng trời Cõi Sắc, chư thiên trong sáu tầng Cõi Dục, những kẻ dâm nam, dâm nữ, nô bộc, tỳ thiếp, tám bộ quỷ thần, súc sanh cho đến những loài do biến hóa, miễn rằng tất cả họ hiểu được lời của vị pháp sư trao giới, thì hết thảy họ đều được thọ giới và có thể trở thành bậc thanh tịnh.
Thời đức Phật còn tại thế, cứ mỗi nửa tháng tất cả các đệ tử của Phật đều phải tụng Giới, Giới tiếng phạn là Pratimoksaśìla phiên âm là Ba La Đề Mộc Xoa; Trung Hoa dịch là Bảo giải thoát, nghĩa là bảo trì cho người thực hành thoát ly sanh tử đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Do đó, giới là chiếc xe báu, là bậc thầy dẫn đường đi đến Niết Bàn.
Bởi vậy, giới là cơ bản của vạn đức của người tu, là nền tảng của mọi sự trang nghiêm; nhưng giới pháp có ba loại: Một là giới pháp xuất gia gồm có: mười giới, hai trăm năm mươi giới. Hai là giới pháp tại gia gồm có: năm giới, tám giới. Ba là giới pháp cho hàng Bồ Tát xuất gia và tại gia, đó là Bồ Tát tam tụ tịnh giới gồm:
- Nhiếp luật nghi giới: Đó là không phạm vào một Giới Trọng và Giới Khinh nào, nghĩa là quyết giữ không làm các việc ác, đình chỉ làm điều ác là trì giới, nếu làm điều ác là phạm giới.
- Nhiếp thiện pháp giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết làm tất cả các việc lành, chính là phụng hành các điều thiện; như vậy làm điều Thiện là trì giới, không làm điều thiện là phạm giới.
- Nhiêu ích hữu tình giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết tu hạnh từ bi hỉ xả, làm tất cả các điều lợi ích cho tất cả chúng sanh, không một loài nào mà không hóa độ; như vậy thực hành sự hóa độ là trì giới, không thực hành sự hóa độ là phạm giới.
Riêng về Bồ Tát Giới chúng ta nên biết có 2 loại Bồ Tát Giới:
1. Hàng Bồ Tát Giới xuất gia có 2 loại Giới:
- 10 Giới Trọng:
Giới thứ 1: Sát sanh Giới thứ 2: Trộm cướp Giới thử 3: Dâm dục Giới thứ 4: Vọng ngữ (nói dối) Giới thứ 5: Bán rượu Giới thứ 6: Rao nói lỗi của bốn chúng Giới thứ 7: Tự khen mình chê người Giới thứ 8: Bỏn sẻn thêm mắng đuổi Giới thứ 9: Giận hờn không chịu sám hối Giới thứ 10: Hủy báng Tam bảo - 48 Giới Khinh: Giới thứ 1: Không kính Thầy, bạn Giới thứ 2: Uống rượu Giới thứ 3: Ăn thịt Giới thứ 4: Ăn ngũ vị tân Giới thứ 5: Không dạy người có tội sám hối Giới thứ 6: Không cung cấp, thỉnh pháp (khi Pháp Sư tới) Giới thứ 7: Giải đãi không nghe pháp Giới thứ 8: Tâm trái bỏ với Đại thừa. Giới thứ 9: Không chăm sóc người bệnh Giới thứ 10: Chứa khí cụ sát sanh Giới thứ 11: Đi sứ (cho sự thù nghịch) Giới thứ 12: Buôn bán phi pháp (buôn bán người và súc vật) Giới thứ 13: Hủy báng (các bậc danh đức, cha mẹ v.v…) Giới thứ 14: Phóng hỏa thiêu đốt (núi rừng, nhà cửa v.v…) Giới thứ 15: Dạy giáo lý ngoài Đại thừa Giới thứ 16: Vì lợi nói pháp lộn xộn Giới thứ 17: Cậy thế lực khuyên góp Giới thứ 18: Không hiểu mà làm thầy truyền giới Giới thứ 19: Nói lưỡi hai chiều Giới thứ 20: Không phóng sanh cứu vật Giới thứ 21: Sân hận báo thù sân hận, đem đánh trả đánh Giới thứ 22: Tâm kiêu mạn không thỉnh pháp Giới thứ 23: Khinh ngạo không tận tâm dạy Giới thứ 24: Không tu học Đại thừa Giới thứ 25: Tri chúng vụng về (Phải có lòng từ-bi, biết đủ) Giới thứ 26: Riêng thọ lợi dưỡng (phải trọng đãi khách Tăng) Giới thứ 27: Thọ biệt thỉnh (không dành riêng của cúngdàng) Giới thứ 28: Biệt thỉnh Tăng (theo thứ tự không thiên vị ai) Giới thứ 29: Tà mạng (như xem tướng, bùa chú, pháp thuật) Giới thứ 30: Làm quản lý cho bạch y (Bất kính ngày trai giới) Giới thứ 31: Không mua chuộc (Tượng, cha mẹ, người tu bị bán) Giới thứ 32: Tổn hại chúng sanh (bán những thứ có hại cho người và những thứ để giết người) Giới thứ 33: Tà mạng giác quán (coi đánh giết, cả với ca kịch) Giới thứ 34: Tạm bỏ Bồ đề tâm Giới thứ 35: Không phát nguyện (Kính thuận cha mẹ, Sưtrưởng) Giới thứ 36: Không phát thệ (giữ Giới của Phật) Giới thứ 37: Không được du hành nơi mạo hiểm, có nạn Giới thứ 38: Trái thứ lớp tôn ti Giới thứ 39: Không tu phước huệ Giới thứ 40: Không bình đẳng truyền giới (18 loại được thọ) Giới thứ 41: Vì lợi làm thầy Giới thứ 42: Giảng thuyết giới cho kẻ ác Giới thứ 43: Khởi tâm phạm giới không tâm hổ thẹn, Giới thứ 44: Không cúngdường kinhđiển (đọctụng, biênchép) Giới thứ 45: Không giáo hóa chúng sanh Giới thứ 46: Thuyết pháp không đúng như pháp. Giới thứ 47: Cấm chế không đúng pháp (đặt luật phi pháp) Giới thứ 48: Phá pháp (nói Giới của Phật để Vua kìm chế tu sĩ)
2. Hàng Bồ Tát Giới tại gia:
- 6 Giới Trọng:
Giới thứ 1: Sát sanh Giới thứ 2: Trộm cướp Giới thử 3: Tà dâm Giới thứ 4: Vọng ngữ (nói dối) Giới thứ 5: Bán rượu Giới thứ 6: Rao nói lỗi của bốn chúng
- 28 Giới Khinh:
(1) Giới không cúng dường cha mẹ, sư trưởng (tội sơ ý).
(2) Giới uống rượu (3) Giới không chăm sóc người bệnh (4) Giới không bố thí người đến xin (5) Giới không chào hỏi lễ lạy các bậc tôn trưởng (6) Giới khinh mạn người phá giới: (Tăng ni cư sĩ phạm Giới) (7) Giới không thọ sáu ngày bát quan trai giới mỗi tháng (8) Giới không đi nghe pháp (9) Giới thọ đồ dùng của chư Tăng (ngọa cụ, giường, ghế,...
(10) Giới uống nước có trùng: (nước có trùng vẫn cố ý uống)
(11) Giới đi một mình trong chổ nguy hiểm (12) Giới một mình ngủ đêm tại chùa ni (nam)chùa tăng (nữ) (13) Giới vì của đánh người (vì tiền của đánh chửi rủa người)
(14) Giới bố thí thức ăn thừa cho bốn chúng. (15) Giới nuôi mèo, chồn (16) Giới nuôi súc vật: (nuôi voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà …)
(17) Giới không chứa ba y, bình bát, tích trượng (để cúng dường chúng tăng)
(18) Giới không lựa chỗ nước sạch, đất cao để trồng trọt (19) Giới buôn bán không chân chánh: (lật lọng, gian lận) (20) Giới hành dâm không đúng thời, không đúng chỗ (21) Giới gian lận thuế: (không nộp, khai thuế gian lận)
(22) Giới vi phạm luật pháp quốc gia: (23) Giới có thực phẩm mới mà không cúng Tam bảo trước (24) Giới Tăng già không cho thuyết pháp mà tự cứ làm. (25) Giới đi trước năm chúng xuất gia (khi đi cùng đoàn) (26) Giới phân phối thức ăn cho chư Tăng không bình đẳng (27) Giới nuôi tằm: (nuôi tằm lấy tơ)
(28) Giới đi đường gặp người bệnh không chăm sóc
Bồ Tát không phạm Giới Trọng từ thân miệng đến ý; nếu tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc khen tặng sự làm, hoặc thấy người làm mà vui theo, đều là phạm Trọng Giới bị tội Ba La Di (ví như bị tử hình: Nam được tái thọ tất cả 7 lần, nữ chỉ một lần thôi). Nếu sau khi thọ giới mà Bồ tát vi phạm một trong các Giới Khinh thì phạm vào tội sơ ý, nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc vì do nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Nếu người thọ giới Bồ-Tát mà không tụng điều giới nầy, thời người ấy không phải Bồ-Tát, không phải Phật-Tử. Bởi vậy Bồ-Tát cần nên học và hết lòng kính-trọng phụng-trì, nếu có người nào phạm Giới thời hiện đời người ấy không thể phát tâm Bồ-Đề, tất cả diệu quả Phật-Tánh đều bị chôn vùi và bị đọa trong ba ác-đạo.
2). Phân tích và nhận xét:
Trong 6 Giới Trọng của Hàng Bồ Tát tại gia đều nằm trong 10 Giới Trọng của hàng Bồ Tát xuất gia, không có gì sai biệt để nói.
Trong 28 Giới Khinh của hàng Bồ Tát tại gia, có 18 điều đều là các Giới thông thường mà người tu hành xuất gia cũng phải giữ nên không thể cho rằng: “Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới là của Bà La Môn khuyến dụ người cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp công góp của xây dựng đạo pháp của Bà La Môn và có thâm ý tiêu diệt Phật Giáo”. Chỉ có 10 điều Giới của hàng Bồ Tát tại gia liên quan đến hàng xuất gia, có lẽ cái mà tác giả Thông Lạc gọi là “Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có mục đích khuyến dụ đánh lừa người cư sĩ thành một tổ chức để phục vụ cho quý Thầy Đại thừa”, đó là các điều sau đây, chúng ta cùng phân tích:
Giới (1) không cúng dường cha mẹ, sư trưởng: Điều này thuộc về đạo đức mà mọi người Phật tử phải có chứ không riêng gì người thọ Giới Bồ Tát.
Giới (5) không chào hỏi lễ lạy các bậc tôn trưởng: Điều năm này cũng tương tự như điều một ở trên.
Giới (6) khinh mạn người phá giới: Đây là điều để ngăn tâm kiêu mạn vì cho rằng mình hơn người tu phá giới.
Giới (9) thọ dụng đồ dùng của chư Tăng: Đây là để giữ cho sự tự trọng của mỗi con người chứ không riêng gì với chư Tăng vậy.
Giới (14) bố thí thức ăn thừa cho bốn chúng: Đây là để giữ không cho tâm khinh người tác hại.
Giới (17) không chứa ba y, bình bát, tích trượng: Nếu chúng Tăng tới nhà thì đó là có phước, nên việc cúng dường cũng như qùa biếu đâu có gì là qúa tốn kém, vả lại cúng dường bố thí Tăng Ni sẽ mang lại nhiều phước hơn là bố thí cho người thường.
Giới (23) có thực phẩm mới mà không cúng Tam bảo trước: Đây cũng giống như khi chúng ta có trái cây đầu mùa, hái những qủa đầu mùa đem cúng Phật và Tổ tiên Ông bà, đó là lòng hiếu thảo kính trọng vậy.
Giới (24) Tăng già không cho thuyết pháp mà tự cứ làm: Vấn đề này phải biết tự trọng, vì nếu mình giỏi thì tự nhiên sẽ được mời thuyết pháp không nên tự cao tự đại.
Giới (25) đi trước năm chúng xuất gia: Vì hàng xuất gia là đại diện cho Tăng bảo luôn luôn được sự kính trọng là lẽ thường.
Giới (26) phân phối thức ăn cho chư Tăng không bình đẳng: Vì trong giáo điều của Phật có điều bình đẳng, nên phải tôn trong không vị tình riêng mà bất công trong việc bố thí cúng dàng.
Xem như vậy, 10 điều mà hang Bồ Tát tại gia phải tuân theo đối với hàng tu sĩ xuất gia không có điều nào là qúa đáng. Lại nữa, Giới của Bồ Tát xuất gia cả về Giới Trọng (10 điều) và Giới Khinh (48 điều) đều nhiều hơn Giới của hàng Bồ Tát tại gia chỉ có 6 điều Giới Trọng và 28 điều Giới Khinh; như vậy sự giữ Giới của hàng Bồ Tát xuất gia khó hơn là của hàng Bồ Tát tại gia.
Mặc dầu vậy, Tu sĩ xuất gia trì giới Bồ Tát xuất gia là điều không mấy khó, nhưng người tại gia trì giới Bồ tát tại gia là điều rất khó; bởi vì Bồ tát tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc nên rất khó hành trì. Do đó Bồ Tát tại gia nào có thể chí tâm thọ trì giới pháp đã thọ một cách hoàn hảo, người ấy là hương thơm vi diệu, là hoa sen trong sạch, là trân báu chân thực và là bậc đại trượng phu trong hàng Bồ tát tại gia.
Do đó cho rằng: “Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới là của Bà La Môn khuyến dụ người cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp công góp của xây dựng đạo pháp của Bà La Môn và có thâm ý tiêu diệt Phật Giáo. Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có mục đích khuyến dụ đánh lừa người cư sĩ thành một tổ chức để phục vụ cho quý Thầy Đại thừa, Bồ Tát Giới là một loại kinh sách với thâm ý diệt Phật Giáo, đó là âm mưu thâm độc của Phật Giáo phát triển Đại Thừa” là nói sai lạc sự thật đã được phơi bày rõ ràng ở trên rồi chứ chẳng phải là nói suông đâu.
Phật tử tại gia phát tâm tu hạnh Bồ Tát giới là để rộng bề làm Phật sự và hóa độ chúng sinh; mặt khác, Phật tử tại gia có toàn quyền chọn lựa muốn thọ giới Bồ Tát hay không là tùy tâm người Phật tử, không ai có quyền bắt ép hay dụ dỗ người Phật tử thọ Bồ Tát giới; nếu người Phật tử cảm thấy không thể thi hành theo Bồ Tát Giới thì không nên thọ giới này, mà người đó vẫn là Phật tử quy y và thực hành ngũ giới và có thể tu hành bất cứ pháp môn nào thích hợp để đạt mục đích thoát khỏi sinh tử luân hồi.
X). HT TTL: Kinh Duy Ma Cật là kinh phát triển của Đại Thừa. Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình; nó không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu và cũng giống như vẽ rắn thêm chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ bị lường gạt tưởng là rồng thật. Giáo lý Đại Thừa và Thiền Đông Độ cũng lường gạt tín đồ như vậy, tưởng là một chân lý siêu việt của Đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều loại vải thô xấu....(ĐVXP-Tập 8)
X). Phản Biện:
Kinh Duy Ma Cật là kinh của Bắc Truyền; nếu nói “Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình” thì không hoàn toàn đúng, vì nếu có đi nữa cũng chỉ như thêm màu sắc cho hợp với từng địa phương, nhưng cốt lõi của các Kinh vẫn giữ đúng những gì đức Phật đã nói và đó là lý do tại sao Bắc Truyền ngày nay đã lan rộng không những chỉ ở Á châu mà ra khắp Âu Mỹ Úc Phi của thế giới. Tại sao như thế, vì Phật giáo Bắc Truyền đi đúng với những tinh hoa mà đức Phật đã dạy, nó thích hợp với khoa học và nhu cầu tâm linh của con người tiến bộ trong giai đoạn hiện tại.
Muốn biết Kinh Duy Ma Cất có gì đặc biệt, chúng ta phải lược sơ qua nội dung của Kinh, chỉ đề cập tới những gì chúng ta cần phải học phải nhớ và thực hành thì mới biết được sự thật như thế nào:
- Thứ nhất về Phẩm Phật Quốc Tịnh Độ: Đức Phật giảng về thế nào là sự thanh tịnh của Phật độ, sự thanh tịnh tâm của một vị Bồ Tát; nếu người tâm tịnh bèn thấy cõi tịnh công đức trang nghiêm, còn ngươi tâm uế thì thấy cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh. Tỉ dụ như Tỳ Kheo tu theo Nam Truyền được qủa dự lưu Tu Đà Hoàn, vì chưa hết cấu uế nên chưa được thanh tịnh, nên vẫn phải tái sinh lại cõi người (7 lần); nếu đã đạt qủa A La Hán thì đạt Niết Bàn thanh tịnh mà không còn tái sinh lại cõi người vậy.
- Thứ hai: Phẩm phương tiện: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật hiện thân cư sĩ giàu có và bị bệnh trong thành Tỳ Da Ly, Cư sĩ hay đến gặp mọi người, tùy duyên giúp đỡ giáo hóa; vì vậy tất cả nhân dân từ vua quan đến hàng cùng đinh đều đến thăm ngài. Nhân dịp này cư sĩ Duy Ma Cật trình bày cho họ những khuyết điểm không thể tránh của thân thể, đặc điểm của thân Phật, và do đó mọi người nên gắng sức tu tập để đạt được thân Phật. Đây là biểu hiện phương tiện của Chư Phật và Chư Đại Bồ Tát trong việc hóa độ chúng sanh
- Thứ ba: Phẩm chấp thật lời nói và văn tự: Phật biết ý Cư sĩ Duy Ma Cật muốn được Phật đoái tưởng nên Ngài lần lượt bảo 10 đại đệ tử và sau là 4 vị Bồ Tát đại diện Phật đi thăm Cư sĩ, nhưng hết thảy đều hổ thẹn từ chối không dám đại điện đi vì họ đã gặp và tự biết không đủ khả năng đối đầu tài biện luận của vị Cư sĩ. Đây là tài biện luận của Cư sĩ Duy Ma Cật, vì Ngài đã chứng nhập thật tướng, thấu nhập bí tạng Chư Phật, nên khó bì đối đáp. Vì thế: trong phẩm này, các lời nói của Ngài Duy Ma Cật có nhiều điều để học hỏi.
Chúng ta hãy trích một đoạn Kinh Phật bảo Tôn giả Tu Bồ Ðề đến thăm bệnh để xem cách phá chấp thật của Bồ Tát Duy Ma Cật về lời nói văn tự. Tu Bồ Ðề bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con chẳng xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa vào nhà Ngài khất thực. Ngài lấy bát con đựng đầy cơm, bảo rằng: Này Tu Bồ Ðề! Ðối với sự ăn bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng, các pháp bình đẳng thì sự ăn cũng bình đẳng, khất thực như thế mới được lấy ăn.
Vậy nếu Tu Bồ Ðề chẳng đoạn dứt tham sân si, cũng chẳng cùng với tham sân si, chẳng hoại nơi thân mà tùy nhất tướng (Nhất tướng vô tướng), chẳng diệt si ái mà được giải thoát, dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, chẳng trói cũng chẳng mở, chẳng thấy Tứ Ðế, phi chẳng thấy Tứ Ðế, phi đắc quả, phi bất đắc quả, phi phàm phu, phi lìa phàm phu, phi bậc thánh, phi chẳng bậc thánh, dù thành tựu tất cả pháp mà lìa các pháp tướng, mới được lấy ăn. Nếu Tu Bồ Ðề chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, bọn lục sư (sáu phái) ngoại đạo là thầy của ông, vì họ xuất gia bị đọa, ông cũng đọa theo, mới được lấy ăn.
LƯỢC GIẢI CỦA HÒA THƯỢNG DUY LỰC:
Bọn lục sư ngoại đạo là thầy của ông, vì họ xuất gia bị đọa, ông cũng đọa theo:
1. Thầy có nhiều loại. Thầy Bổn Sư, thầy dạy đạo, thầy y chỉ nuôi cho ăn học, thầy dạy chữ nghĩa thế gian, v.v...,chẳng phải chỉ có thầy Bổn Sư mới được gọi là thầy.
2. Theo Trí Giả Ðại Sư có ba loại ngoại đạo.
- Thứ nhất là ngoại đạo chính thức, tu hành thành tựu, được sinh cõi Trời chẳng bị đọa.
- Thứ hai là ở nơi Phật pháp xuất gia mà hành theo pháp ngoại đạo thì phải bị đọa.
- Thứ ba là học Phật pháp thành ngoại đạo, vì hiểu lầm ý Phật, cho ý mình hiểu là đúng chính pháp mà dùng để dạy người, củng bị đọa như ngoại đạo thứ hai vậy.
Theo sự thật, trong Phật pháp có một số người bổn sư bị đọa mà đệ tử được kiến tánh; chẳng phải bổn sư bị đọa thì đệ tử phải đọa theo. Nguyên nhân bị đọa là bởi vì hành tà pháp mà cho là chính pháp, làm cho chúng sanh hiểu lầm nên mới phải bị đọa; đây là lược giải theo có nghĩa lý. Nhưng đoạn này Ngài Duy Ma Cật cố ý nói ra những lời vô nghĩa lý, ấy chỉ là phương tiện dùng để phá những kẻ chấp thật văn tự lời nói của chư Phật chư Tổ mà thôi.(Lược giải hết)
Nếu Tu Bồ Ðề tâm nhập tà kiến, chẳng đến bờ bên kia, trụ nơi tám nạn (Là tám nơi không lợi cho việc đạt giác ngộ: 1- Địa ngục, 2- Súc sinh, 3- Ngạ Quỷ, 4- Trời trường thọ, 5- Biên giới hẻo lánh, 6- Căn khuyết (mù câm), 7- Tà kiến (thấy sai), 8- Thời không có Phật, không Phật pháp), chẳng ra khỏi nạn, lìa pháp thanh tịnh mà đắc vô tranh tam muội, tất cả chúng sanh cũng đắc tam muội ấy, kẻ bố thí ông chẳng gọi là phước điền, kè cúng dường ông phải đọa tam ác đạo (Địa ngục, Ngạ qủy, Súc sinh). Ông cùng ma chúng bắt tay nhau làm bè bạn, ông cùng ma chúng với những trần lao đồng nhau chẳng khác, nơi tất cả chúng sinh có tâm oán ghét, báng Phật hủy pháp, chẳng nhập tăng chúng, cuối cùng chẳng thể diệt độ, ông nếu như thế mới được lấy ăn.
Bạch Thế Tôn! Khi nghe lời dạy này, con cảm thấy ngơ ngác, chẳng hiểu Ngài nói gì, chẳng biết trả lời thế nào, liền để bát lại muốn ra khỏi nhà; lúc ấy Ngài Duy Ma Cật bảo: Này Tu Bồ Ðề! Cứ lấy bát đi đừng sợ, ý ông thế nào nếu đem việc này hỏi người huyễn hóa của Như Lai làm ra, người ấy có sợ chăng?" Con đáp: Không ạ! Ngài Duy Ma Cật nói: Tất cả các pháp, tướng như huyễn hóa, nay ông cũng chẳng nên sợ, tại sao? Tất cả ngôn thuyết đều chẳng lìa tướng huyễn hóa, cho nên người trí chẳng dính mắc văn tự, nên chẳng có sợ; vì tánh của văn tự tự lìa văn tự, chẳng chấp văn tự ấy mới là giải thoát, tướng giải thoát đó tức là các pháp vậy; khi ngài Duy Ma Cật thuyết pháp này, hai trăm thiên tử đắc pháp nhãn tịnh, vì thế nên con không xứng đáng đại diện Thế Tôn đến thăm bệnh Ngài.
L ƯỢC GIẢI CỦA HÒA THƯỢNG DUY LỰC:
Kinh Kim Cang nói: Nếu có ai nói Như Lai có thuyết pháp là phỉ báng Phật, vì pháp lìa văn tự. Nhưng chúng sanh học Phật đều đuổi theo văn tự để tìm hiểu chân lý, Phật rất sợ chúng sanh nhận lầm như thế, kẹt vào lý chướng nên vừa thuyết xong liền phá. Ðoạn Tu Bồ Ðề thăm bệnh này là chuyên dùng những lời vô nghĩa để phá những người chấp thật vào văn tự lời nói trong kinh điển; Tu Bồ Ðề chẳng phải không biết mà sợ, vì hợp tác với Duy Ma Cật nên thị hiện sợ, để cho Duy Ma Cật giảng rõ văn tự và lời nói là tướng huyễn hóa; chẳng chấp văn tự ấy là giải thoát, tướng giải thoát đó tức là các pháp vậy. (Lược giải hết)
Đây là bài học qúy giá cho tất cả những người tu theo Phật pháp không phân biệt Nam Tông hay Bắc Tông, không phân biệt tu pháp môn này hay pháp môn kia, không kể nam nữ, già trẻ v.v…, tất cả đều nên học và hành theo những lời dạy này.
- Thứ tư: Phẩm Tánh Không: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi vâng lời yêu cầu của Phật đi thăm Bồ Tát bệnh. Khung cảnh là một căn phòng nhà của cư sĩ Duy-ma-cật, nhỏ bé nhưng có thể dung nạp vô số Bồ Tát, thiên, nhân và vô số chúng sinh khác đến nghe cuộc đàm thoại qúy hiếm giữa hai vị được tán thán là trí huệ đệ nhất. Cuộc đàm thoại giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật về nhiều đề tài với sự phân tích sâu sắc về bệnh tình của Duy-ma-cật và lĩnh vực hoạt động (sa. gocara) của một Bồ Tát, và bắt đầu là nói về tính không (sa. śūnyatā); chúng ta trích một đoạn Kinh rất hấp dẫn này như sau:
“Lúc ấy, tám nghìn Bồ-Tát, Thanh-Văn, trăm nghìn Trời Người đều muốn đi theo; do đó Văn-Thù cùng với vô số Bồ-Tát, Trời Người như thế cùng nhau cung kính vào thành Tỳ-Da-Ly.
Cư-sĩ Duy-Ma-Cật biết Văn-Thù Bồ-Tát cùng đại chúng đến, bèn dùng thần-lực đem đi tất cả đồ đạc và người hầu, trong phòng trống rỗng chỉ còn có một giường nằm bệnh; Văn-Thù đi đầu vừa bước vào, Cư-Sĩ liền nói:
- Khéo đến Văn-Thù, Tướng (hình dạng) chẳng đến mà đến, tướng chẳng thấy mà thấy (không mà là có).
Bồ-Tát Văn-Thù đáp:
- Đúng thế Cư-Sĩ! Nếu đến rồi thì chẳng đến nữa, nếu đi rồi thì chẳng đi nữa; vì nói đến thì chẳng từ đâu đến, nói đi thì chẳng đi về đâu (ý nói Phật tánh cùng khắp chỗ nào cũng có, lúc nào cũng hiện diện), chỗ được thấy chẳng còn thấy nữa (có mà là không); hãy bỏ qua việc này, nay bệnh của Cư-Sĩ có bớt mà chẳng thêm không? Thế-Tôn gửi lời ân cần vô lượng để hỏi thăm Cư-Sĩ. Bệnh do đâu mà khởi, làm thế nào mới khỏi được?
Cư-sĩ Duy-Ma-Cật đáp:
- Từ “Si” có “Ái” thì bệnh “Ngã” sinh, vì tất cả chúng-sanh bệnh nên tôi bệnh, tất cả chúng-sanh không bệnh thì tôi khỏi bệnh, tại sao? Bồ-Tát vì độ chúng-sanh nên vào sinh tử, có sinh tử thì có bệnh; nếu chúng-sanh lià được sinh tử thì Bồ-Tát chẳng còn bệnh, nói bệnh này do đâu khởi, bệnh của Bồ-Tát do đại Bi khởi…”
Ở đoạn này hai vị Đại Bồ Tát mở màn đã đi ngay vào “tánh không”, nói thân mà dùng tâm, Phật tánh để hiển bày trong câu chuyện, nếu hiểu ra thì rõ ràng là câu chuyện tuyệt diệu có một không hai; như thế mà tác giả Thông Lạc nói rằng: “Kinh này không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu và cũng giống như vẽ rắn thêm chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ bị lường gạt tưởng là rồng thật” thì cũng lạ cho lời nói bừa bãi thiếu nghiên cứu quán sát của một người học Phật.
- Thứ năm: Phẩm Bất Khả tư nghị: Nhân việc Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ đến chỗ ngồi trong căn phòng nhỏ, Duy-ma-cật biết ý nên nói việc đến là để phát tâm cầu pháp và Ngài giảng ý nghĩa của việc cầu pháp (đây là một bài học qúy giá). Cũng vì vấn đề chỗ ngồi mà Cư sĩ thị hiện cõi Tu-di tướng (san. merudhvāja) để mọi người thấy và được Như Lai Tu-di Đăng Vương (san. merupradīparāja) đưa đến 32 nghìn toà ngồi sư tử to lớn; nhân việc này, Cư sĩ Duy-ma-cật giảng sự giải thoát bất khả tư nghị (những việc không thể nghĩ tới và không thể bàn luận) (sa. acintyavimokṣa) của Chư Phật và đại Bồ Tát (đây cũng là một bài học qúy giá).
- Thứ sáu: Phẩm Quán Chúng Sanh: Cuộc luận đàm giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật được tiếp nối, bây giờ những điểm quan trọng của một Bồ Tát được đề cập đến. Như Duy-ma-cật giảng một trường hợp nghịch lí là Bồ Tát một mặt xem chúng sinh không thật hiện hữu, nhưng mặt khác vẫn phát triển lòng từ bi hỉ xả dành cho chúng sanh; còn đối với sinh tử đáng sợ, Bồ Tát nên y nơi lấy vô trụ làm gốc và từ gốc vô trụ lập tất cả các pháp. (Ở đây có những đều đáng để học và hành, đó là quán chúng sanh không thật mà chỉ là gỉa tạm có thôi, là mở lòng Từ Bi Hỉ Xả với tất cả chúng sanh, và vô sở trụ đối với tất cả các pháp).
Phần sau đề cập đến một Bồ Tát thị hiện là một Thiên nữ rải hoa, biến hóa nữ thành nam và nam thành nữ, và đối đáp với Tôn giả Xá Lợi Phất để phá chấp ngã chấp pháp, (Ở đây cũng là một bài học hữu ích).
- Thứ bảy: Phẩm Phật Đạo: Cư sĩ Duy Ma Cật nói rằng: Nếu Bồ Tát hành nơi phi đạo gọi là thông đạt Phật đạo; thế nào là hành nơi phi đạo gọi là thông đạt Phật đạo? Cư sĩ Duy Ma Cật giải thích rằng: Nếu Bồ Tát gây tội ngũ nghịch mà chẳng có buồn giận, đến nơi địa ngục mà chẳng có tội cấu, đến nơi súc sanh mà chẳng có vô minh kiêu mạn, đến nơi ngạ quỷ mà đầy đủ công đức, đến cõi sắc giới và vô sắc giới mà chẳng cho là thù thắng, thị hiện tham dục mà lìa các nhiễm đắm, thị hiện sân hận mà đối với chúng sanh chẳng có quái ngại, thị hiện ngu si mà dùng trí huệ điều phục tâm mình, thị hiện tham lam bỏn xẻn mà bỏ tất cả của cải, chẳng tiếc thân mạng. Đó là lời giảng của Cư sĩ Duy Ma Cật về hành nơi phi đạo gọi là thông đạt Phật đạo.
Còn hỏi thế nào là hạt giống Như Lai?
Cư sĩ trả lời: Có thân là hạt giống Như Lai. Vô minh có ái là giống, tham sân si là giống, tứ điên đảo là giống (Bốn điên đảo: 1. Vô thường chấp thường; 2. Khổ cho là vui; 3. Vô ngã chấp là ngã (ta); 4. Bất tịnh cho là tốt đẹp), ngũ cái là giống (Gồm: Tham ái, sân hận, hôn trầm - thùy miên, trạo hối - phóng dật, nghi ngờ), lục nhập là giống (Sắc với mắt, thanh với tai, hương với mũi, vị với lưỡi, tiếp xúc với thân, pháp với ý), thất thức xứ (5 thức đối với 5 giác quan, ý thức và Mạt Na thức) là giống, bát tà pháp là giống (tám tà là: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà mệnh, tà nghiệp, tà tinh tấn, tà niệm, tà định), cửu não là giống {Buồn (não), khổ (khổ), đắng cay (tắng), hao tổn (nhuế hại), sợ hãi (kỵ ), ganh ghét (tật), mất mát (suy), nhục nhã (cơ), chê bai (hủy)}, thập bất thiện đạo là giống (10 điều ác). Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật. Nếu kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì chẳng thể còn phát Tâm Vô Thượng Bồ Ðề nữa. Ví như chỗ gò cao chẳng thể sanh hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp mới sanh hoa sen. Cũng thế, kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì chẳng còn có thể sanh khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sanh sanh khởi Phật pháp thôi. Như gieo giống nơi hư không thì chẳng thể sanh khởi, ở đất phân bùn mới tốt tươi được; cũng thế, kẻ vào vô vi chánh vị chẳng sanh khởi Phật pháp, kẻ có ngã kiến như núi Tu Di còn có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, sanh khởi Phật pháp. Nên biết: tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, ví như chẳng xuống biển cả thì chẳng được bảo châu vô giá; cũng thế, chẳng vào biển phiền não thì chẳng thể đắc ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy.
Lúc ấy Ðại Ca Diếp tán thán rằng:
-Lành thay! Lành thay! Lời này rất đúng; thật như lời ông nói, bọn trần lao mới là hạt giống của Như Lai, nay chúng tôi chẳng còn có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Người mang tội ngũ vô gián còn có thể phát tâm sanh nơi Phật pháp, mà chúng tôi đây trọn chẳng thể phát, ví như những người ngũ căn đã hư, đối với ngũ dục chẳng còn cảm xúc. Cũng thế, hàng Thanh Văn đã dứt phiền não trói buộc, xem Phật pháp chẳng còn ích lợi gì nên chẳng phát nguyện nữa; Cho nên, Phàm phu ở nơi Phật pháp có biến chuyển mà Thanh Văn thì không, tại sao? Phàm phu nghe Phật pháp dược sanh khởi đạo tâm vô thượng, chẳng dứt hạt giống Tam Bảo; dẫu cho Thanh Văn suốt đời nghe Phật pháp và được sức vô úy v.v... chung qui chẳng thể phát đạo tâm vô thượng.
Chính Phẩm này nói lên một vấn đề mà nhiều người theo Nam Truyền buồn lòng vì không để ý câu chuyện của Kinh Duy Ma Cật có trước khá lâu. Thời nói Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật chưa giảng cho hàng Thanh Văn về Đại thừa, nhưng về sau Ngài mới giảng và sau khi đó thì Ngài thọ ký cho các đệ tử Thanh Văn sẽ thành Phật. Vì vậy cho nên những người không nhận chân vấn đề thì thường hay báng bổ nhau , nếu hiểu rồi thì từ nay trở đi nên bỏ qua mọi chuyện “sĩ diện không phải chỗ” thì đâu còn việc bài bác nhau làm cho tâm vẩn đục khiến không thể tu hành được.
Một bên thì bảo Nam Truyền là Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ) như hạt giống bị cháy không thể thành Phật được là dựa vào phẩm này, mà không để ý rằng về sau chính Đức Phật đã thọ ký cho hàng Thanh Văn thành Phật thì tiêu nha ở chỗ nào? Còn những người theo Nam Truyền cũng không hiểu rằng kinh Duy Ma Cật đã nói từ trước, mà cho rằng những lời của Ngài Duy Ma Cật là phỉ báng hàng Thanh Văn, do đó đã có những lời rằng “Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình” là không hiểu và bóp méo sự thật.
- Thứ tám: Phẩm Pháp Môn Không Hai (Bất Nhị): Cuộc sống của con người có nhiều đau khổ và mãi quẩn quanh trong luân hồi sinh tử là do chấp trước hai thái cực đối nhau; ví dụ như chấp cái ta nên sinh ra chấp cái của ta. Nếu không còn chấp trước thì không còn dính mắc, không dính mắc thì không còn đau khổ; do đó nhập Pháp Môn không hai là để giải quyết việc vướng mắc của sự đối đãi. Nếu mọi sự đều hết dính mắc ràng buộc như Tám thứ Gió (Bát Phong): Được (Lợi), Mất (Suy), Chê (Hủy), Khen (Dự), Vinh (Xưng), Nhục (Cơ), Buồn (Khổ), Vui (Lạc); tám thứ gió này từng cặp đối đãi nhau, chúng làm cho con người thành điên đảo, nếu hết vướng mắc thì Phật tánh mới có thể hiển lộ.
Trong phẩm này ba mươi mốt vị Bồ Tát trình bày quan điểm của mình về pháp môn bất nhị, phần Bồ Tát Văn Thù nói: “Nơi tất cả pháp vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp”; còn Cư sĩ Duy Ma Cật im lặng không nói để thể hiện nhập pháp môn bất nhị, vì chẳng có văn tự lời nói mới là chân nhập pháp môn không hai (Đây là một bài học qúy giá mà đã có lần Lục Tổ Huệ Năng trả lời câu của Pháp sư Ấn Tông hỏi “Tại sao Ngũ Tổ không truyền thọ chi cả, chỉ luận môn kiến tánh thành Phật mà không luận pháp thiền định và pháp giải thoát” là vì Phật tánh chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường nên là Pháp chẳng hai).
Phải nói thẳng ra rằng: chẳng có Tôn giáo nào trên thế giới loài người này có được lý thuyết Không Hai này, mà thuyết Bất Nhị là đặc thù của Phật pháp, nên nói rằng “Kinh Duy Ma Cật bị ảnh hưởng của nhiều Tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình” là cố nói cho có nói mà không hiểu ý nghĩa của Kinh. Phẩm Bất Nhị này mọi người tu hành nên học và hành, không kể Nam truyền hay Bắc truyền, không kể tu pháp môn nào, nếu hiểu biết rõ ràng và hành trì miên mật sẽ rất mau thấy đạo vậy.
- Thứ chín: Phẩm Phật Hương Tich: Nhân tứ chúng sắp tới giờ ăn nên Tôn giả Xá Lợi Phất tự hiện nghĩ đến việc ăn để Cư sĩ có dịp dùng thần thông trong việc thị hiện cõi Chúng Hương và việc thị hiện Bồ Tát huyển đi thỉnh một bát cơm hương đặc biệt của Phật Hương Tích, có vô số Bồ Tát cõi ấy cùng đi theo, mang về cho đại chúng ăn no đủ. Sau đó Cư sĩ trao đổi với các Bồ Tát cõi Chúng Hương về cách dạy của Phật Hương Tích chẳng dùng lời nói văn tự, chỉ dùng mùi diệu Hương khiến các Trời Người được vào luật hạnh; còn cõi Ta Bà này chúng sanh cang cường khó dạy, nào là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, là chỗ tai nạn, là nơi sanh của kẻ ngu. Hễ thân khẩu ý hành việc tà, thì bị quả báo dữ, nên Phật Thích-ca thuyết pháp những lời cang cường để điều phục họ như Lục độ, Tứ nhiếp pháp…
- Thứ mười: Phẩm Hạnh của Bồ tát: Phẩm này trình bày về việc Cư sĩ Duy Ma Cật đưa các Bồ Tát cõi Chúng Hương và đại chúng tới tham kiến Phật Thích Ca. Nhân việc này Tôn giả A Nan khi ngửi thấy mùi hương thơm đặc biệt và được Cư sĩ giảng ý nghĩa của Cơm cõi Chúng Hương. Tôn giả cũng được Đức Phật giảng dạy về trí huệ biện tài bất khả tư nghị của Chư Phật và các sự giáo hóa khác nhau của các cõi Phật đều tùy duyên mà làm Phật sự để dẫn dắt chúng sinh.
Và cũng nhân dịp này, Đức Thích Ca giảng cho các Bồ Tát cõi Chúng Hương về pháp môn Hữu tận Vô tận giải thoát bằng cách không tận Hữu vi mà cũng không trụ Vô vi. Không tận Hữu vi là chẳng bỏ đại Từ đại Bi… Không trụ Vô vi là Quán pháp vô thường mà chẳng chán pháp thiện, quán thế gian khổ mà chẳng ghét sanh tử, quán pháp vô ngã mà dạy người chẳng thôi nghỉ…; ở đây cũng là bài học hữu ích cần thiết cho mọi Phật tử chúng ta học và hành chứ không riêng gì các vị Bồ Tát cõi Chúng Hương đâu.
- Thứ mười một: Phẩm Bất Động Như Lai: Phẩm này Đức Phật hỏi Cư sĩ: Ông muốn gặp Như Lai, mà lấy gì để quán Như Lai? Duy Ma Cật thưa: “Như quán thật tướng tự thân, quán Phật cũng vậy. Con quán Như Lai, việc trước chẳng đến, việc sau chẳng đi, nay cũng chẳng trụ (lúc nào cũng như như). Chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như (như tự tánh), chẳng quán sắc tánh; cho đến thọ tưởng hành thức cũng chẳng quán theo như thế (nghĩa là các thứ đó không còn dính mắc nên không phải quán nữa). Tứ đại (đất nước gió lửa) chẳng khởi đồng như hư không, Lục nhập vô tụ (sáu trần đối với sáu căn không nhóm họp chứa chất) siêu việt lục căn; chẳng ở tam giới (Trời, Thần, Người), tam cấu đã lìa (tham sân si), tùy thuận ba cửa giải thoát…”; tóm lại, tức là quán thân Như Lai như thể không hiện hữu. Do đó, nếu người nào thích hợp với Pháp Môn quán này thì nên tu theo thực hành kiên cố nhuần nhiễn cách quán Như Lai mà Cư sĩ trình với đức Phật, thì người đó sẽ thấy Như Lai của chính mình vậy; đây là bài học qúy giá vô cùng.
Cũng vì việc Tôn giả Xá Lợi Phất thắc mắc về nguồn gốc của Cư sĩ mà Đức Phật cho biết cõi Diệu Hỉ có Đức Phật Bất Động và do đó bốn chúng ước ao thấy cõi ấy, nên Đức Phật yêu cầu Cư sĩ cho đại chúng được thấy. Vâng lời Phật Thích Ca, Cư sĩ thị hiện Thần lực đưa cả cõi Diệu Hỉ có Phật Bất Đông và vô số Bồ Tát, Thanh Văn đến gần, mọi người đều thấy rõ ràng.
Ở đây, chúng ta thấy Thần lực của Chư Phật và Chư đại Bồ Tát làm các việc bất khả tư nghị như trên cũng ví như ngày nay khoa học tiến bộ có thể chụp hình từ rất xa nhưng chẳng phải xa đâu như sao Hỏa chẳng hạn rồi truyền về trái đất cho mọi người đều thấy vậy thôi, không có gì nghi ngờ cả. Còn các Đại Thánh thì có thể tạm gọi là chụp hình ở cách xa vô lượng giải Ngân hà, xa hàng tỷ năm của tốc độ ánh sáng, rồi đem về cho mọi người thấy chỉ trong giây phút thôi, rõ ràng không thể suy nghĩ bàn luận gì được các việc làm của Phật và Đại Bồ Tát.
Kết luận: Kinh Duy Ma Cật với những đặc biệt về tâm tịnh thì sinh đến nơi tịnh, tâm uế thì sinh nơi uế, về phá chấp thật lời nói và văn tự; về tánh không để phá ngã chấp và pháp chấp. Ngoài ra Kinh còn dạy Pháp Môn Không Hai để trị đối đãi điên đảo của thế gian, và nhiều vấn đề đã nêu ở trên chứng tỏ những lý thuyết cao siêu của Đạo Phật; như vậy nếu nói “Kinh này, Giáo lý Đại Thừa và Thiền Đông Độ không có gì đặc biệt riêng, mà chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu giống như vẽ rắn thêm chân thêm râu, khiến cho mọi người bị lường gạt tưởng là rồng thật, tưởng là một chân lý siêu việt của Đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều loại vải thô xấu....” thì thật là bất công vì chẳng hiểu Kinh Duy Ma Cật một chút nào nên tuyên bố bừa bãi như thế.
Xin lược trích thêm phần Cư Sĩ Duy Ma Cật tại Ấn Độ thời Phật do Hòa Thượng Thích Trí Quang viết trong phần Tổng Quan kinh Duy Ma Cật như sau:
“Ngài Thái Hư ghi: Đời Đường có Vương Huyền Sách từng đến Ấn độ, bấy giờ nhà của ngài Duy ma vẫn còn. Ông vốn ngờ kinh này nói nhà này nhỏ mà chứa được 900 vạn trời người và 32000 tòa sư tử cao lớn, tòa sư tử thì xác định lớn, mà nhà không biết nhỏ đến đâu. Ông lấy hốt mà đo nhà thì 4 phía đều được 10 hốt, mỗi hốt 1 thước, tức 1 trượng, do vậy mà tán thán thần lực của ngài Duy Ma. Ngài Huyền Trang cũng đến Ấn độ, từng đến nhà ngài Duy ma, nhìn cái nhà nhỏ, bụng nghi kinh nói không thật, muốn viết lên vách nhà để tỏ ý mình. Nào ngờ chấm bút muốn viết thì vách với người cách nhau mãi mà không gần được, sờ cũng không được, gần cả buổi mà không viết được chữ nào; Ngài gác bút mà tán thán di tích còn thế, huống chi thần lực xưa kia (Thái hư toàn thư, 866).
Tham chiếu các kinh khác, như kinh Nguyệt Thượng Nữ chép: ngài Duy Ma họ Lôi, vợ là Kim Cơ, con trai là Thiện Tư, con gái là Nguyệt Thượng. Vậy ngài Duy Ma là người thật đời Phật (Thái hư toàn thư 903).
Vài ghi chép trên đây chứng tỏ ngài Duy ma không những là người thật thời Phật, mà còn là vị đại Cư sĩ, đại bồ tát đến có thể gọi là bồ tát bất khả tư nghị. Tuy nhiên, tại sao sách vở của Phật giáo nguyên thỉ ghi về đệ tử tại gia danh tiếng của Phật không thấy ghi về ngài, tất phải có một sự húy kỵ nào đó (xin thưa: húy kỵ vì đời sau hiểu lầm Ngài hạ thấp hàng Thanh Văn nên vứt bỏ Ngài khỏi kinh tạng Nam Truyền cho rảnh mắt (!) vậy thôi, có biết đâu rằng ngài Duy Ma Cật là người quyét dọn dẹp đường xá cho quang đãng sạch sẽ để Phật đi được dễ dàng, vì kinh Duy Ma Cật có trước khi Phật giảng cho hàng Thanh Văn lên một tầng cao hơn và sau đó Phật thọ ký cho hàng Thanh Văn sẽ thành Phật vậy)”