QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 - 1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001
Hỏi : Xin Sư phụ kể qua vấn đề dịch Kinh như thế nào ?
Đáp : Ở Trung Quốc, vấn đề dịch kinh từ chữ Phạn sang chữ Hán, dịch tràng trên ba trăm đến năm trăm người, người chủ dịch thường là người kiến tánh, thấu suốt Phật pháp, còn người dịch phụ phải qua sự ấn định của Chủ dịch. Ở Việt Nam thường do một người dịch, cũng tùy theo ý của người dịch, người dịch thường tự chẳng có tu chứng, hễ không có tu chứng thì không thể hiểu nổi ý của Phật, của Tổ, vì ý Phật, ý Tổ chẳng phải là sự suy nghĩ thông minh của thế gian có thể hiểu được.
Lai Quả Thiền sư nói :" Thông minh của thế gian chẳng phải là trí huệ của Phật pháp", Tổ sư gọi là "Thế trí biện thông". Lại, theo Phật giáo, xem những người thế trí biện thông, bậc tri thức khoa học là hạ căn, vì họ chấp thật những kiến thức khoa học của mình chẳng chịu buông, còn người đầu óc đơn giản, nơi Phật pháp lại cho là thượng căn, tu hành dễ đắc đạo hơn. Nên Phật pháp là nghịch với pháp thế gian.
Trong Niên Phổ của ngài Hư Vân có kể đến câu chuyện "Bá Trượng và con chồn"; chỉ vì đáp sai một chữ phải đọa làm con chồn năm trăm kiếp, nên Phật pháp chẳng phải là muốn nói thế nào cũng được, ấy chẳng phải chuyện chơi. Đối với Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, tội đại vọng ngữ là tội Ba La Di, là tội cao nhất, bằng như tội tử hình của thế gian. Hễ Tỳ Kheo phạm coi như Tỳ kheo ấy đã chết, Tỳ Kheo Ni cũng vậy, muốn khôi phục lại chức danh Tỳ kheo, Tỳ kheo ni , phải đợi đến kiếp sau mới được. Như Bá Trượng Thiền sư nói :" Nếu pháp sư chỉ giảng được nghĩa hai câu thì pháp sư ấy phải đọa địa ngục; nếu pháp sư giảng thấu ba câu mà người nghe hiểu sai lầm thì lỗi tại người nghe, người nghe đọa địa ngục chứ không quan hệ đến pháp sư, vì pháp sư đã giảng hết ý rồi.
Hỏi : Thầy giảng những cái đó còn nằm trong ngũ ấm hay đã ra ngoài ngũ ấm ?
Đáp : Không có nằm trong ngũ ấm, cũng chẳng ở ngoài ngũ ấm. Tôi thường nói hai chữ "BẤT NHỊ", hễ có trong có ngoài là nhị, chính cái ngũ ấm chẳng phải là thật, làm sao có trong có ngoài ?
Hỏi : Cái biết mà mình không khởi niệm, không tác ý phân biệt để biết, đó có phải là tri tịch không ?
Đáp : Kinh Lăng Nghiêm nói rõ "Tri giác nãi chúng sanh", đã lập tri rồi, mặc dù cái tri ấy không rõ ràng, nhưng cũng là tri. Nếu không khởi ý để biết thì làm sao biết đó không rõ ràng ? Biết là "không rõ ràng" đã là biết rồi ! " Tri tri " là căn bản vô minh, từ nguồn gốc ấy sinh ra sở tri. Dù yên lặng chẳng có vọng tưởng gì, nhưng năng sở đã rõ ràng, thì chẳng phải cái tri của Tự tánh. Đợi đến biết cái "mờ mờ không rõ ràng ấy" thì trở thành bụi bậm , là sở tri rồi.
Tại sao nói "Cái tri của Tự tánh" ? Đáng lẽ không có cái tên gọi là TRI, ấy chỉ là thế lưu bố tưởng, thế gian đã gọi là tri thì phải gọi cái tri đó thế gian mới hiểu, nếu không thì gọi bằng cái gì ? làm sao diển đạt ? Nên mới có phân biệt thế lưu bố tưởng và trước tưởng. Do đó, nói chữ "TRI" đã là có sự chấp thật; chấp cái năng tri là thật, là căn bản vô minh vậy.
Hỏi : Cái "tri" ấy đã là bất đắc dĩ mà nói, nói cái trạng thái đó là "biết" cũng không được ư ?
Đáp : Trong Thiền Thất Khai Thị Lục đề cập khi tham thiền đến trạng thái đó là " Vô tâm không cho hữu tâm biết". Ví như có người hỏi ông tên gì, nếu còn trả lời được tức còn biết, chưa phải là vô tâm. Ví như nói "tri" và "vô tri", VÔ TRI tức chẳng còn biết gì, nếu còn biết là vô tri ấy là tri. Nếu thật vô tri, ai biết vô tri ? "Cảm thấy " cũng là biết .
Hỏi : Vì sao không được tiếp tục ngồi khi trên thân khó chịu ?
Đáp : Theo kinh nghiệm của tôi, khi kinh hành chớ nên vừa đi vừa vận động thì máu lưu thông, không sanh ra bệnh. Cũng như ngồi thiền, ngồi lâu thành bệnh, nhiều người chấp vào cái ngồi nên sanh ra bệnh. Lúc nghi tình nặng, ảnh hưởng đến nhức đầu, tức ngực ,khó thở,, nếu có vận động, thì máu lưu thông đều , vẫn tiếp tục kinh hành được, hễ ngồi thì không có sự lưu thông về máu nên dễ sanh bệnh, đôi khi bị chết giấc mà chẳng ai hay biết, nên tôi thường khuyên mọi người không nên chấp ngồi là vậy.
Hỏi : Thế nào là nghi tình phát khởi được và nghi tình phát chẳng khởi ?
Đáp : Trong Tham thiền Cảnh Ngữ của ngài Bác Sơn nói rõ "nghi tình phát chẳng khởi" là chỉ cái chơn nghi, nay chúng ta đều chưa đến chỗ chơn nghi, cũng gọi là nghi tình phát chẳng khởi. Sở dĩ nay ta gọi là "nghi tình" ấy chỉ là tập tham để đến chơn nghi phát khởi nghi tình, Phát được chơn nghi cũng tương ưng với Pháp thân rồi. Trong Niên Phổ của ngài Hư Vân nói "Khi chơn nghi phát khởi, ấy là sự thình lình đột phát", chơn nghi phát lên là nghi tình gần thành khối vậy.
Nay chúng ta tham thiền thì chưa có ai phát được chơn nghi, nên gọi là "nghi tình phát chẳng khởi" chứ không phải không có nghi tình. Chúng ta tham thiền đến chỗ thuần thục thì thình lình phát lên chơn nghi, tương ưng với cái lý pháp thân như trong Tham Thiền Cảnh Ngữ nói, thì biết đó là chơn nghi.
Hỏi : Khi ngủ mê làm sao biết có tham thiền ?
Đáp : Nay có những người đang ngủ mê mà biết mình tham thiền, ấy là những người không biết mình đang ngủ, nhưng người khác thì thấy họ đang ngủ mê. Chính người ấy có nghi tình và lúc sáng thức dậy vẫn đầy đủ tinh thần, ban ngày làm việc như thường, chẳng thấy mệt mỏi.
Hỏi : Phát khởi chơn nghi đã phá được sơ quan chưa ?
Đáp : Phát khởi chơn nghi tương đương với nghi tình thành khối, chưa đến kiến tánh, chưa phá được sơ quan, nhưng rất hy vọng được phá sơ quan.
Hỏi : Chúng ta đang sống trong vọng thức thì làm sao y trí bất y thức ?
Đáp : "Y trí bất y thức" là tiêu chuẩn và mục đích của mình, nhưng chúng ta đang suốt ngày sống trong thức tâm phân biệt, hiện nay đang tu ấy là thức, tham thiền đến một ngày nào đó kiến tánh rồi mới không còn phân biệt, mới chuyển thức thành trí được, tức sự automatic của trí bát nhã đã hiện ra.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này

Bookmarks