Trang 6 trong 10 Đầu tiênĐầu tiên 12345678910 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 101 tới 120 trên 199

Ðề tài: Những câu chuyện đạo

  1. #101
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    THẦY DỊCH * THÊM TRÍ GIÁO THẤT CHƠN TRUYỀN* TU ĐẠO TIÊN
    Tài đức ban ra khắp thế gian
    Tinh tường chân tánh tại tây phang
    Chơn ngươn thanh tịnh gồm tam bửu
    Tiên xuất trần gian tại niết bàn
    ****bài nầy ý nói*****
    Từ lâu thầy hậu truyền chơn lý
    Tam giáo truyền phụng chỉ độ nhân
    Hội đồng tam giáo Chỉ cần
    Phải học hoàn toàn cho chính xác
    Tu đại thừa hành thi thao tác
    Tam giáo truyền hoằng khai hoạt bát
    Đừng theo phong trào diệt sát
    Đừng dùng đạo tà dịch hại nhân gian
    Vô vi hành đạo quá gian nan
    Tìm hiểu chánh tà để mở mang
    Nhân gian sai lạc dùng bùa ếm
    Của tiên gia Thái thương sai lầm
    Bày binh bố trận rần rần
    Thiên tiên, tức không phải là thần
    Thần bùa, thần ngải, rần rần hại sanh
    Tiên thiên Lão Tử cân phân
    Không bùa không ngải vô vi hạnh
    Tu không mất tiền bày binh bố trận
    Vẽ nhiều điều thao tác diêu linh
    Mất chơn truyền tam giáo hiện hình
    Thích Ca giáo độ thinh thinh đất trời
    Last edited by tritue; 02-10-2011 at 06:36 PM.
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  2. #102
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ kể chuyện đạo

    Văn thiện ngôn tắc bái
    Nầy chư môn đồ, có câu: “Văn thiện ngôn tắc bái”, nghĩa là: nghe lời lành thì phải lạy mới được nghe. Huống chi trong thời hạ nguơn mạt pháp nầy Đức Thượng Đế lâm phàm dạy đạo, cùng Phật, Tiên, Thánh, Thần thảy đều giáng điển khuyến giáo nhơn sanh thì không nên khinh thường lời châu tiếng ngọc.

    Thượng Tôn nhắc lại một câu chuyện cổ tích, cách đây trên hai ngàn bốn trăm năm (2400 năm). Ở xứ Ấn Độ có ra đời một nhà vua tên A Dục oanh liệt vô cùng, Đông xông Tây đục mới giữ vững ngôi vàng. Nhưng, với một tâm hồn giác ngộ, một hôm đi dạo ngoài thành gặp một nhà tu sĩ hành khất, vua A Dục liền mọp sát đất cúi đầu hun lên bàn chân nhà sa môn tu sĩ ấy.

    Quan đại thần hầu tâu rằng: “Nhà vua là mình vàng lá ngọc, sao hạ mình với kẻ hành khất tu sĩ như thế, e cho nhẹ giá phẩm mình rồng chăng?” Vua A Dục làm thinh, về trào ra lịnh cho vị đại thần ấy rạng nhựt phải nạp chín mươi chín cái đầu thú và một cái đầu người tử tù về tội sát nhân cướp của. Vị đại thần ấy qua ngày nạp đủ số. Vua A Dục bèn phán: “Hãy đi bán hết tất cả số đầu thú và đầu người để lấy tiền dùng vào việc.”

    Quan Đại thần bán hết cả chín mươi chín cái đầu thú, chỉ còn đầu người không ai mua hết. Thì vua A Dục biểu bán rẻ cho người, nhưng cũng chẳng ai mua. Nhà vua bảo cho người đi, cũng không ai lấy. Vua A Dục mới phán cùng đại thần rằng: “Thế là đầu tên tử tù nầy giá trị không bằng đầu thú, nhưng với đầu tử tù ấy xét lại tội ác còn thua đầu của Trẫm, vì chính đầu óc Trẫm mưu mô quỉ quyệt, bày binh bố trận, tàn sát muôn vạn sanh linh Trẫm mới ngồi vững trên ngôi vàng nầy. Thế là biết bao nhiêu kẻ căm thù oán hận đến Trẫm, sao khanh nói Trẫm là quí giá như thế nào?

    Nay Trẫm đã hồi đầu giác ngộ nên sùng kỉnh lễ bái nhà đạo đức tu hành, khanh lại ngăn cản Trẫm, có phải là khanh xúi giục Trẫm mãi đi trên đường tội ác chăng?

    Từ nay về sau ai ngăn cản Trẫm trên đường lễ bái tôn kính nhà đạo đức thì Trẫm chẳng tha tội vậy.”

    Đó là câu chuyện cổ vẫn còn ghi vào sử nhà Phật. Chư môn đồ có nhận thấy nhà tu sĩ đạo đức quí báu dường nào chăng?

    Quả thật vậy! Trong cảnh đời hạ nguơn mạt kiếp rối loạn đao binh nầy, nếu ngày nào những nhà lãnh tụ cầm đầu nhơn loại biết sùng bái tôn kính nhà tu hành, tức nhiên mới đem lại sự hòa bình hạnh phúc thật sự cho nhơn loại vĩnh viễn được.

    Thì nay chư môn đồ rất hữu phước, đạo Trời khai trên ba mươi năm giáo huấn, kẻ thì được một hai chục năm, người thì được ba chục năm, ai ai cũng thấm nhuần đạo đức, ấy là bực thiên hiền giác ngộ trước đó. Tức nhiên phải làm gương sáng tỏ nhà đạo đức tu hành thật sự để làm gương cho nhơn loại là hậu hiền.

    Lần lượt đây khắp trên hoàn cầu ai ai cũng phải tập nói đạo đức và hành đạo đức như chư môn đồ vậy.

    Nhưng vạn sự khởi đầu nan, quí tại hồi sơ.


    20-7-1961
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  3. #103

    Mặc định

    VÀI MẪU CHUYỆN VỀ PHẠT HỮU HÌNH

    a. Một nam tín hữu thuộc thánh thất Cầu Kho, rất nghèo, làm nghề chạy xe kéo. Anh ấy có một căn nhà nhỏ ở sát đường Nguyễn Tấn Nghiệm (nay là đường Phát Diệm). Trong nhà anh đã có thượng tượng thờ Thầy. Một bữa kia thừa dịp anh đi vắng, một tên phù thủy nhà bên cạnh viết một lá phù rồi qua kẹt cửa lén ném vào Thiên Bàn. Tức thì chư Thần phạt tên phù thủy ấy chạy từ đường Nguyễn Tấn Nghiệm ra đến đường Frères Louis (Võ Tánh), Général Leman (Cao Bá Nhạ) rồi chạy thẳng đến thánh thất Cầu Kho.

    Lúc ấy độ 6 giờ chiều ngày thứ Bảy, cửa thánh thất mở hoát để đêm đến sẽ hành đại lễ. Tên phù thủy đầu cổ chơm bơm, hai mắt ngơ ngáo như dại như ngây, miệng không nói được một tiếng gì. Đến trước cửa thánh thất, tên ấy bị quyền lực gì chận lại, hai chân dường như bị đóng đinh xuống đất, không giở lên được. Đồng thời thân xác bị bắt cúi đầu dập trán xuống đất lia lịa. Thấy thế một vị đạo hữu lật đật vào báo cho cụ Đốc Đoàn Văn Bản hay. Cụ đang dùng cơm, nghe vậy bèn lên chánh điện mặc áo lễ vào, tay bưng một chung nước tam bửu và quỳ xuống khấn vái. Vái xong cụ trao chung nước phép cho vị đạo hữu nói trên và dạy đem ra lấy một cành hoa nhúng vào nước ấy rảy lên đầu kẻ bị phạt.

    Công việc được thi hành đúng như lời dặn. Dần dần người phù thủy tỉnh lại, đi vào tạ ơn cụ Đốc và thuật lại lý do bị phạt.

    * * *

    b. Cũng tại thánh thất Cầu Kho có một bà quanh năm chỉ chuyên môn cho vay lấy lời. Tới thời kỳ đóng tiền lãi, con nợ nào trễ nãi đều bị bà chửi mắng không tiếc lời. Tính hung hăng ấy của bà đã thành tật, dù rằng bà đã nhập môn và ăn chay.

    Một đêm kia, bà nằm mơ thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, điểm mặt bà mà nói rằng: “Mi dữ lắm ta phạt mi câm ba năm.”

    Sáng thức dậy, bà nói không được, bà câm thiệt. Bà bèn đến nhà cụ Thượng Giáo Sư Lê Văn Sanh ra dấu. Cụ Giáo Sư không hiểu. Tức thì bà xuống nhà bếp của cụ bưng lên một chén tương và chỉ thẳng ra hướng Bà Rịa, hai tay chắp lại và xá xá.

    Cụ Giáo Sư hội ý mới hỏi lớn: “À chị bảo tôi dắt chị ra Bà Rịa cho anh Phủ Tương cúng cho chị phải không?” Bà ấy gật đầu. Thấy thế cụ Giáo Sư và cụ bà cùng với bà ấy thuê xe ra quận Đất Đỏ là nơi thuộc quyền cai trị của cụ tri phủ Nguyễn Ngọc Tương.

    Đến nơi, cụ Giáo Sư bày tỏ sự việc. Cụ Phủ vui lòng làm lễ giải tội cho bà. Đến lúc tụng Ngũ Nguyện. Cụ Phủ chứng đàn nghe bà ấy niệm rõ ràng năm câu nguyện.

    Từ đó về sau tánh tình bà rất đằm thắm, lời nói rất hiền lành, từ tốn, không còn hung dữ như xưa.


    Bàn thêm : Trí giả tự xử, ngu giả quan phân, người mê cần có bịnh hành hạ nhãn tiền mới tin mà sợ, nguyện hồi đầu hướng thiện. Kẻ học kinh nghiệm ở việc người khác mà sớm giác ngộ cải ác tùng lương, làm lành giải nghiệp trước, không chờ có quả báo, mới đúng là người trí dũng…
    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  4. #104

    Mặc định

    QUẢ BÁO CỦA SỰ CHẾ GIỄU KHINH BỈ

    Ông Edgar Cayce (1877-1945, người Mỹ) soi kiếp và trình bày những bằng chứng về quả báo.

    Sự kiêu ngạo có thể tạo nên nghiệp báo đau đớn xác thân, nhứt là khi nó biểu lộ bằng sự chế giễu hay khinh bỉ. Một cái cười độc ác, hay những lời nói gièm pha, chỉ trích, chê bai, dường như gây một cái nhân tương đương với một hành động bạo tàn sẽ mang đến một quả báo dội ngược. Người chế nhạo phải bị một thứ bịnh tật tai ương đau khổ giống như người bị chế giễu.

    Thí dụ 1: Một người đàn bà 34 tuổi bị liệt bại từ năm lên 6, nên bà què chân và xiêu vẹo cột sống. Một lần bị té ngã trên những bậc thang bằng đá làm cho bà phải nằm liệt giường. Nguyên nhân: Linh hồn này thuộc dòng dõi nhà vua Palatius và thường đến vũ trường xem những cuộc đấu võ giữa hai tội nhơn hoặc một tội nhơn với một thú dữ. Sự đau khổ hiện thời, một phần lớn là bởi y đã cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yếu đuối bất lực của kẻ tù nhơn bị thú dữ xé xác. [Ai vui thú đá dế, đá gà, thích xem đấu võ có thấy ớn không?]

    Thí dụ 2: Một thiếu niên bị tai nạn xe hơi hồi 16 tuổi, bị đứt ngang tủy xương sống, hoàn toàn liệt bại nửa thân mình. Trong kiếp trước, y là một người lính trong đạo binh La Mã và lấy làm khoái chá khi nhìn thấy nỗi đau khổ của những người theo đạo Da Tô bị hành hình ở pháp trường. Về sau y thích xem những địch thủ của y đối đầu với các thú dữ. Y đã nhận thấy nhiều cảnh tượng tàn ác, gây sự đau khổ chết chóc, nhưng y không chút động lòng. Hậu quả là kiếp này y phải nhìn thấy sự đau khổ của chính mình. Quả báo này có tác dụng sâu xa là nhờ bản thân đau khổ, y cảm thấy rằng tín ngưỡng tôn giáo mà y giễu cợt nhạo báng kiếp trước, thì nay tín ngưỡng ấy đã đột khởi trong tâm hồn y để bù lại những gì y đã tạo ở kiếp trước.

    Những quả báo đau khổ xảy đến cho ta có lẽ gây một ấn tượng sâu xa thấm thía hơn là những quả báo tốt lành. Nhất là nó lại càng thấm thía hơn vào thời buổi hỗn loạn và suy đồi hiện nay.

    Thử thách hữu hiệu nhứt để biết được người thắng được tật ham ăn hay chưa là đặt trước mặt y những món cao lương mỹ vị mà y ưa thích để xem y có biết tự chủ hay không. [Thử người nghiền rượu, thuốc, sắc đẹp cũng thế.] Người ta không thể biết được một người đã hoàn toàn tự chủ, nếu y không gặp thử thách.
    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  5. #105
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    VUA A DỤC TRỞ VỀ VỚI PHẬT GIÁO

    Lúc Ðức Phật còn tại thế, Ngài đã đem Chánh pháp phú chúc cho các vị quốc vương và đại thần, để sự truyền bá Phật pháp mau phổ biến.

    Từ ngày Ðức Phật diệt độ, nếu quan sát trong lịch sử Phật giáo, thì tại xứ Ấn Ðộ có vua A Dục thật hết lòng lo hộ trì Phật pháp.

    Nay xin thuật sơ lịch sử của vua A Dục:

    Nguyên vua A Dục là dòng dõi của A Xà Thế vương, thân phụ của Ngài tên là Tần Ðầu Sa, thân mẫu thuộc phái Bà La Môn.

    Khi Ngài còn nhỏ thì thân thể rất thô kịch xấu xa, nên vua cha chẳng thương yêu. Ðến lúc Ngài thành nhân, thì oai dõng hơn người và võ nghệ xuất chúng.

    Sau nhân có việc nội loạn tại thành Hưu Thị La, vua cha mới sai Ngài đi chinh phục. Khi đâu đó được bình yên, vua cha thấy Ngài có công lao nên phong làm Thái tử.

    Cách ít lâu, vua Tần Ðầu Sa thăng hà, thì Ngài kế vị, song tánh rất bạo tàn vô đạo, đến nổi giết hết mất trăm người tôi đại thần và kẻ thân thuộc.

    Mùa xuân năm ấy… trăm hoa đua nở, cảnh vật vui tươi, Ngài mới dẫn bọn cung nữ đi dạo khắp vườn hoa mà thưởng ngoạn. Khi ra ngắm cảnh vườn xuân, bọn cung nữ chỉ lo chơi giỡn và trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, chớ chẳng quây quần bên Ngài như lúc ở tại nội điện. Vua nổi giận, truyền bắt giết tất cả, rồi tức thì trở về cung, chứ không đi thưởng ngoạn nữa. Lúc ấy, toàn dân trong nước đều ta thán cho Ngài là một ông vua đại gian ác.

    Ðã vậy mà Ngài còn lập ra một chỗ gọi là: “Ðịa ngục ở trần gian”, đặt tên là vườn “Ái lạc”, ngoài thì sắp đặt cực kỳ tốt đẹp, nào là ao sen non bộ, cỏ quý hoa thơm, cũng như công viên, để cho nhân dân mặc tình đến đó mà thưởng thức giải trí…

    Nhưng trong, thì có non đao rừng kiếm, lò lửa vạt dầu, và đủ các món khí cụ để hành hình người một cách ghê gớm.

    Hễ người nào vào trong vườn Ái lạc đó, thì ngục tốt bắt giam, rồi cứ hành hình. Còn những thế nữ ở trong cung mà cãi cọ xung đột với nhau, thì bắt đem vào cho chủ ngục phân xử. Thiệt là một cái thảm trạng thống khổ của nhân gian không kể xiết!

    Khi ấy có một vị Tỳ kheo, nhân đi khất thực nơi thành Hoa Thị, vì chẳng thông thuộc đường xá nên lạc vào vườn “Ái lạc”, nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài thì tốt đẹp lạ lùng, còn phía trong quả là một chốn địa ngục.

    Thầy Tỳ kheo hoảng kinh, toan kiếm đường trở ra, ai ngờ bị ngục tốt đón bắt lại. Thầy hết sức yêu cầu mà bọn ấy không dung thứ, nên thầy bèn khóc òa.

    Chủ ngục thấy vậy liền hỏi: Thầy là người tu hành, sao mà sợ chết đến đỗi khóc như con nít vậy?

    Thầy Tỳ kheo đáp:

    - Tôi chẳng phải sợ chết mà khóc, vì sợ mất sự lợi ích cả một đời người của tôi, nên mới ai bi như thế?

    - Sự lợi ích làm sao, thầy bày tỏ cho tôi nghe thử?

    - Số là tôi mới xuất gia, chưa chứng đặng đạo quả. Tôi nghĩ lại thân người khó đặng, Phật pháp khó gặp, nay rủi sa vào chỗ ác địa này, thế nào cũng phải hủy mạng, thì còn đâu mà tu học nữa nên tôi mới khóc, chứ tôi đâu có sợ chết.

    Thấy Tỳ kheo nói rồi, mới khẩn cầu với chủ ngục xin dung thứ cho thầy sống sót trong bảy ngày, rồi sẽ hành hình chẳng muộn.

    Chủ ngục thấy người tu, thì cũng động tâm, nên y theo lời của thầy xin mà đình lại bảy ngày mới toan hạ thủ.

    Ngày đầu, thầy Tỳ kheo nhìn thấy cách hành phạt rất độc ác, nào là người phụ nữ thân hình tốt đẹp mà bị bỏ vào cối quết người thì xương tan thịt nát, xem rất ghê sợ; nào là bọn ca nhi nhan sắc tuyệt vời mà cũng bị quăng vào lò lửa, đứa thì rút tay co cổ, đứa thì hả miệng nhăn răng.

    Thầy Tỳ kheo thấy cảnh tượng ấy thì sanh lòng nhàm chán, mới nhớ lời Phật dạy rằng: “Sắc lịch dịu dàng dường như bọt nhóm, dung y đẹp đẽ mà đâu còn hoài”. Nhờ chỗ dẫn chứng lời của Phật dạy đó mà thầy tỏ ngộ, dứt hết các điều tạp nhiễm, liền chứng đặng quả A La Hán...

    Ðến ngày thứ tám, ngục tốt bèn bắt thầy đem bỏ vào chảo dầu, rồi chất củi mà đốt. Song khi lửa hạ và củi thành tro mà dầu trong chảo vẫn tự nhiên không nóng.

    Chủ ngục thấy vậy nổi giận, đánh đập bọn ngục tốt, rồi hối đem củi cho nhiều và chụm thêm vào mãi mãi, nhưng đến khi xem lại trong chảo dầu thì thấy thầy Tỳ kheo ngồi kiết già trên hoa sen, xem bộ tự nhiên chẳng hề lay động chút nào cả. Chủ ngục hoảng kinh, lật đật đến tâu tự sự cho vua A Dục rõ.

    Vua tánh nóng như lửa, khi nghe tin ấy liền tức tốc đi thẳng đến vườn Ái lạc.

    Vua vào đến nơi, thì thấy thầy Tỳ kheo hiện thân lên hư không, biến đủ 18 phép thần thông, trên mình thì nước tràn lênh láng, phía dưới thì lửa cháy rần rần, ví như một hòn núi lớn ở giữa không gian vậy.

    Vua A Dục đứng nhìn sửng sốt một hồi, rồi tự nghĩ: “Mình với thầy Tỳ kheo này cũng đồng là loài người, cớ sao thầy lại đặng phép thần thông tự tại như thế, còn mình thì lo việc sát hại nhân dân, làm việc đại ác!”.

    Vua nghĩ như thế nên vội vàng quỳ xuống bạch với vị Tỳ kheo ấy rằng: “Ngửa mong Thánh giả chiếu cố đến tôi, xin hạ xuống nơi đây, tôi nguyện từ rày về sau bỏ dữ làm lành mà quy y với Ngài”.

    Thầy Tỳ kheo đáp:

    - “Hay thay! Hay thay! Nay đại vương đã tự hối mà quy đầu Tam bảo, thì sẽ đặng phước đức vô cùng và hân hạnh cho dân chúng biết bao”.

    Thầy Tỳ kheo nói xong, liền dùng thần lực của mình mà trở về tịnh xá.

    Khi vua A Dục đã quy y theo Phật rồi, thì trong lòng hân hoan vô cùng, định sửa soạn trở về cung. Bỗng người chủ ngục đến tâu: “Khi Ðại vương lập ra cảnh “Nhân gian địa ngục” này, có ra lệnh hễ ai vào đây thì không cho ra. Tôi đã thọ mạng rồi, nên không dám cãi. Còn Ðại vương là bực thiên tử cũng phải nhất ngôn mới được”.

    Nghe chủ ngục nói như thế, vua A Dục mới hỏi: “Cứ theo lời của nhà ngươi nói đó, thì bây giờ nhà ngươi muốn giết ta hay sao?”.

    Chủ ngục đáp: “Quả như lời của Ðại Vương đó, thì mới đúng với quân lệnh”.

    Vua A Dục liền hỏi lại chủ ngục: “Vậy khi ban sơ tạo vườn Ái lạc này, nhà ngươi với quả nhân ai vào đây trước?”.

    Chủ ngục thưa: “Tâu Ðại vương! Tôi vào đây trước”.

    Vua nghe đáp như vậy, tức thì truyền cho ngục tốt áp lại bắt chủ ngục bỏ vào chảo dầu, đồng thời ra lệnh phóng hỏa đốt hết cả vườn Ái lạc.

    Từ đấy về sau, vua bỏ hẳn các điều dữ mà làm những việc lành, và tâm tánh hết sức từ bi nên kẻ thời nhơn đồng ca tụng là Ðạt Ma A Dục Vương (ông vua hiền lành).

    Sau lại nhờ đức Ưu Ba Cúc Ða (Tổ thứ tư) giáo hóa thêm, nên vua càng tín ngưỡng Phật pháp hơn nữa, chính vua đã phái 256 vị Cao tăng đi khắp trong xứ để truyền bá Phật giáo…
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  6. #106
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    CÁI DŨNG CỦA THÁNH NHÂN

    ...Khổng Tử bị vây ở đất Khuông, không còn phương thế nào thoát ra được, bèn lấy đờn, đờn và ca.
    Tử Lộ hỏi: "Phu Tử làm sao vui được thế?..."
    Khổng Tử nói: "Ngươi lại đây, ta nói cho mà nghe... Ta đã làm hết sức ta, để tránh cái chuyện này, thế mà không được, đó không phải còn tại ta nữa, mà là tại Trời. Xưa Nghiêu, Thuấn không bị sự cùng như ta ngày nay đây, chẳng phải do nơi cái tài thận trọng của các ông ấy hơn ta mà được, mà là tại cái Mạng của họ không như của ta. Kiệt, Trụ không phải tại họ tài ba ít hơn Nghiêu, Thuấn mà họ bị hại, chỉ vì cái Mạng của họ không giống hai người kia... Lặn xuống đáy biển, mà không biết sợ giao long, đó là Dũng của người chài lưới. Vào rừng mà không biết sợ hổ báo, đó là cái Dũng của người thợ săn. Thấy gươm bén mà không biết sợ, xem nhẹ tử sanh, ấy là cái Dũng của người liệt sĩ. Biết được chỗ cùng thông là Thời, Mạng và bất cứ là ở vào cảnh nguy hiểm nào cũng không biết sợ, đó là cái Dũng của Thánh nhân..."
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  7. #107
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định Đức Phật dạy con

    NHỎ TUỔI VẪN TU ĐƯỢC.

    Đức Thích Ca Mâu Ni có một người con tên La Hầu La. Khi đắc đạo, Đức Phật trở về kinh đô độ cha mẹ tu hành. Vợ của Ngài, công chúa Gia Du Đà La lo sợ, nếu người khác lên ngôi vua, đời bà sẽ không được bảo đảm, vì chồng đi tu, con lại nhỏ tuổi. Mỗi lần Đức Phật đi khất thực, bà chỉ cho La Hầu La biết và dặn: “Đó là cha con, con hãy đi theo và xin để lại gia tài cho con.”

    Ngài La Hầu La vô tư đi theo Đức Phật và nói lại những lời mẹ dặn. Lần đầu tiên, Đức Phật không để ý. Đến lần thứ ba, Đức Phật cảm động và biết ngay con mình làm theo lời mẹ.

    Đức Phật gọi Ngài Xá Lợi Phất đến và hỏi: “La Hầu La xin Thầy để lại gia tài, vậy Thầy nên trao lại những gì?”

    Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Bạch Thầy, ngai vàng, điện ngọc, vàng bạc, châu báu… những thứ Thầy đã bỏ đi thì còn trao lại cho La Hầu La làm gì. Chỉ có đạo giải thoát là quý nhất trên đời mà Thầy đã trao cho chúng con, xin Thầy cũng trao lại cho La Hầu La.”

    Đức Thích Ca đáp: “Đúng như thế. Xá Lợi Phất, con hãy xuống tóc cho La Hầu La.”

    Ngài Xá Lợi Phất lấy dao ra và La Hầu La đã trở nên nhà sư tí hon sau ba lần cạo cùng ba lần nguyện: Dao thứ nhứt nguyện bỏ mọi sự dữ; dao thứ hai nguyện làm mọi sự lành; và dao thứ ba nguyện độ tất cả chúng sanh.

    Từ đó La Hầu La không còn ở nhà với mẹ mà theo ngài Xá Lợi Phất học đạo.


    NHỎ TUỔI VẪN CÓ THỂ GIÚP NGƯỜI CHUNG QUANH CÓ CẢM TÌNH VỚI ĐẠO VÀ TỪNG BƯỚC TU HỌC.

    Trong số các đệ tử của Phật có Ngài Cấp Cô Độc. Sở dĩ có tên như thế là do ông thường giúp đỡ các vị khó khăn cơm áo gạo tiền. Tấm lòng ông thì rộng rãi, ngược lại vợ ông, bà Nữ Phúc Tướng, thường cằn nhằn về chuyện đem tiền bạc làm việc từ thiện. Ngài Cấp Cô Độc xin Đức Phật giúp cho một huynh đệ đến nhà để giáo hóa tâm hồn vợ ông.

    Đức Phật đáp: “Con hãy dẫn La Hầu La về nhà.”

    Ông Cấp Cô Độc ngạc nhiên, nhưng không dám có ý kiến. Đến nhà, ông Cấp Cô Độc vào trong, còn sư chú La Hầu La đứng ngoài cửa.

    Hằng ngày, chư tăng đến, bà Nữ Phúc Tướng không vui, vì cho rằng chư tăng là nguyên do khiến chồng bà không những bỏ bê việc nhà mà còn đem tài sản ra để biếu tặng người khác nữa. Nhưng hôm nay, không có vị tăng nào đến, chỉ có một chú tiểu, dáng hiền hòa trước cửa. Bà cũng có những người con, nhưng đâu có khổ như chú này, cha mẹ đâu mà vào chùa tu rồi phải khất thực. Động lòng trắc ẩn, bà lấy xôi chuối ra tặng.

    Sư chú La Hầu La nhìn thấy xôi chuối trong bình bát thì mỉm cười, nhưng lật đật nhớ lời thầy dặn liền chú nguyện.

    Sớt xôi chuối vào bát xong, bà Nữ Phúc Tướng hỏi: “Tôi tặng chú xôi chuối, sao không cám ơn, mà nói lầm thầm gì trong miệng vậy?”

    Sư chú La Hầu La đáp: “Thay lời cám ơn, tôi đang chú nguyện cho bà được giải trừ mọi phiền não, thân tâm được lành mạnh, tu hành tinh tấn để viên thành Phật đạo.”

    La Hầu La đi rồi. Bà Nữ Phúc Tướng hỏi ông: “Hôm nay ai đến nhà mình vậy?”

    Ông đáp: “Mừng cho bà, từ trước đến giờ bà không cho ai cả, mà hôm nay mở lòng từ thiện, vậy là bắt đầu có phước báu trên trời rồi. Người mà bà tặng xôi chè hôm nay, không phải là một đứa trẻ nghèo khó, chính là con của Thái Tử Tất Đạt Ta, vua của tôi với bà, người có mọi tài sản trên thế gian, giàu gấp trăm ngàn lần tôi với bà, nhưng Ngài đã từ bỏ tất cả để đi tu thành Phật. Hôm nay, Ngài cho sư chú đến đây để dạy cho bà bớt cái tánh bỏn xẻn, bà có phước lắm mới được sư chú cầu nguyện cho.”

    Bà Nữ Phúc Tướng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Từ sự thương hại bà đi đến mến phục chú tiểu La Hầu La. Ngày nào bà cũng chờ chú đến để biếu xôi chè, nhưng không thấy. Bà hỏi ông: “Tôi muốn gặp lại sư chú hôm trước được không ông?”

    Ông đáp: “Mỗi ngày Thầy dạy đi đâu, Ngài phải đi đó, bà làm sao gặp được. Muốn gặp Ngài, bà phải lên chùa.”

    Từ đó bà Nữ Phúc Tướng theo ông lên chùa, phụ làm từ thiện, và lần lần trở thành một đệ tử chân tu của Đức Phật. Lần nào lên chùa bà cũng có phần quà bánh cho La Hầu La, vì đối với bà, Ngài chính là vị thầy nhỏ đầu tiên.

    4. NGÀI LA HẦU LA LÂM CƠ TRONG TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

    La Hán thệ nguyền tế chúng sanh,

    Hầu gần Từ Phụ hưởng ân lành,

    La dòng giống Thích hoàn cầu nhắc,

    Giáng
    hộ đàn trung tiếp điển thanh.
    Last edited by tritue; 05-10-2011 at 12:12 PM.
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  8. #108

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nhailu7 Xem Bài Gởi
    ủa... hic... sao có 1 khúc vậy? Còn khúc sau của ngài Huệ Năng nữa con muốn đọc nữa. :D

    ---------------

    Thật khâm phục thần đồng Hạng Thác... quá trời giỏi.
    Sao ko bỏ chút tiền mua kinh sách về mà đọc

  9. #109
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    THẦN MINH

    Bữa cơm chiều đã chuẩn bị xong, dĩa rau luộc rất ngon nhưng chén mắm ớt lại thiếu một lát chanh. Chị Hoa tặc lưỡi tiếc rẻ. Chợt trong đầu chị hiện ra một cây chanh với những trái căng mọng nước. Đó là cây chanh mọc cạnh giếng trong vườn nhà anh X đã chết, vườn lẫn nhà bị bỏ hoang. Người trong xóm đồn ở đó có ma. Chiều tối ít ai dám đi ngang qua đó. Tuy sợ, nhưng nhìn ra ngoài trời thấy chưa tối hẳn nên chị Hoa tự trấn an: “Kệ, ráng một chút cho bữa cơm ngon hơn.”

    Khi chị bước vội đến cây chanh, đưa tay ra thì… “Trời Phật ơi! Cứu con với…ới…ới…” Tiếng kêu cứu vang lên từ lòng giếng khiến chị giật mình, tim đập thình thịch, hai chân rủn xuống. Chị muốn bỏ chạy nhưng sợ quá, đứng lên không nổi…

    “Cứu con với…ới…ới…” Tiếng kêu đau đớn như tiếng khóc lại dội lên từ lòng giếng. Thu hết can đảm, chị cúi nhìn xuống. Một cái đầu trẻ trồi lên, động đậy dưới đáy giếng đen ngòm. Vậy là người chứ không phải ma.

    Cháu gái được vớt lên, kháu khỉnh, chừng 5-6 tuổi. Sau khi cháu được lau khô, xoa dầu làm ấm, thì công an phường Trang Đài (thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) nghe báo tin đã vào tìm hiểu sự việc. Đang nằm nghỉ mệt, thấy mấy công an, cháu ngồi bật dậy chỉ tay vào ngực, tự giới thiệu rành mạch: “Ở nhà con tên là Nô-en. Ở trường con tên Nguyễn Hoàng Băng Châu. Con được 6 tuổi. Con học lớp 1 trường Nguyễn Du. Nhà con ở gần nhà hàng Quyết Thắng.”

    Có người hỏi: “Sao con kêu Trời Phật cứu mà không kêu ba má hay người khác?” Cháu trả lời: “Tại con thấy trong ti-vi người ta cũng kêu như vậy. Với lại lúc đó không có ai hết!”

    Cháu mồ côi mẹ, ba mới cặp bồ với một cô. Hôm đó ba cháu đi vắng, cô ta lái xe đến nhà bảo là chở cháu đi gặp ba rồi đem bỏ xuống giếng.

    Bàn thêm: Trong cái KHÔNG luôn ẩn cái CÓ. Lực thần của Trời, Phật, Chúa đang tầm thinh cứu khổ, cứu nạn những người vô tội, khiến cho kịp thời có nhơn trợ duyên cho các Đấng thị hiện đức háo sanh ố sát, và trừng phạt kẻ gian ác đã đánh mất lương tâm mà Trời đã ban cho mình.
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  10. #110
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    CHUYỆN NHÂN QUẢ BÁO ỨNG

    Trụ trì chùa Bích Liên ở Quảng Nam là sư cụ Huyền Quang, năm nay 90 tuổi, nhưng tinh thần tốt lắm, nhứt là mặt đạo hạnh thì thật là tấm gương sáng trong cửa thiền. Lạ một điều, về mặt kinh kệ, cụ không được uyên bác như các vị sa môn khác.

    Nguyên cụ là một người lính (tạm gọi theo pháp danh là Huyền Quang). Lúc Tây mới qua, trong xứ ta không được yên ổn. Ở biên giới phía Bắc thường bị bọn giặc khách quấy nhiễu. Chúng tụ tập ở trong núi, rồi thình lình kéo ra đánh cướp. Vì thế nên chánh quyền phải cho lính đóng đồn ở biên giới ấy để canh giữ. Huyền Quang bấy giờ là lính được đổi đi Móng Cái cùng với một toán quân do viên quan hai người Pháp chỉ huy.

    Gần đồn Huyền Quang đóng có bà già góa chồng, tuổi ngoài 60, nghèo nàn hết sức, sống bằng cái nghề buôn bán kiếm lời từng cắc, từng xu. Trong đồn có người lính tên Lợi, rất càn rỡ, rất điêu ngoa. Thường bà già ấy đem đồ đến bán thì Huyền Quang cũng như các lính khác đều ra mua. Ngày một ngày hai, đôi bên thành ra quen thuộc. Sự buôn bán cũng từ chỗ quen thuộc ấy mà sanh ra thiếu đủ cùng nhau. Nhưng bà ấy là một người nghèo, đồng vốn của bà chính là tiền vay nợ góp của người khác.

    Một hôm thình lình nghe có lịnh chuyển quân, bà liền tới trước cửa đồn để đón thân chủ của mình đòi món nợ cũ. Người đôi ba cắc, kẻ một đồng. Huyền Quang biến đâu không thấy, còn Lợi mãi đến nhá nhem tối mới trả một đồng bạc. Bà cầm đồng bạc ấy về mau mau đem trả người cho vay tiền góp. Than ôi, đó là đồng bạc giả. Chủ nợ mắng nhiếc bà thậm tệ, hăm he bắt bà giải quan vì tội tiêu tiền giả. Bà nghe vậy uất quá, tên Lợi đi xa rồi, lấy tiền đâu trả cho người ta. Đành rằng bán hết đồ đạc trong nhà đi thì cũng có thể lo kham được, nhưng sẽ lấy gì mà sống? Nghĩ đi nghĩ lại chỉ còn có nước chết mà thôi. Bà liền cởi dây lưng treo cổ mình lên cây trính. Bỗng đâu Huyền Quang bên ngoài xô cửa bước vào. Huyền Quang lật đật nhấc hổng chân bà lên, rồi cởi dây đỡ cho bà nằm xuống giường, chạy đi kiếm nước gừng đổ cho bà tỉnh lại. Bà nhìn Huyền Quang khóc nức nở, nói không ra tiếng. Huyền Quang thấy vậy mới hỏi nguyên do. Bà vừa khóc vừa kể lại chuyện tên Lợi làm và nông nỗi của mình nghèo khổ, chủ nợ hăm he. Huyền Quang nghe vậy động lòng nhơn, liền móc lưng lấy ra một đồng với mấy cắc đưa hết cho bà mà rằng: “Cái đồng bạc của anh Lợi đâu, đưa tôi tìm ảnh đổi lại. Còn bây giờ tôi đưa đồng bạc của tôi đây cho bà.” Thế là bà ấy thoát khỏi thần chết.

    Tốp lính kia thì cứ vâng lịnh trên mà kéo ra mặt trận Lào Cai. Không ngờ, toán quân ấy đang quanh co men theo đường núi, bỗng bị quân địch núp trong hốc đá bắn vãi ra. Tên Lợi là người trước nhứt ngã nhào xuống đất và Huyền Quang cũng trúng đạn ngã theo. May sao có cứu viện kéo tới đánh lui được bọn giặc và chở các người tử thương về trại. Lạ thay, Huyền Quang lần hồi tỉnh lại. Thầy thuốc xem xét khắp người Huyền Quang không có vết thương nào cả. Khi khám tới túi áo Huyền Quang thấy có dấu đạn. Lật đật cởi áo ra coi thì đồng bạc ở túi áo văng ra lăn tròn xuống đất. Huyền Quang lượm lên, thấy nó bị lõm sâu một lỗ. Đồng bạc giả kia chính là cái bia đỡ cho Huyền Quang viên đạn ấy.

    Về sau Huyền Quang liền xin thôi lính, xuống tóc đi tu.

    Bàn thêm. Có tích một hàn sĩ vác lều chõng đi thi, được thầy tướng số danh tiếng cho biết sẽ chết trước khi tới trường, và khuyên anh hãy trở về. Thế mà anh cương quyết đi tiếp và thi đỗ. Chuyến vinh qui anh lại gặp thầy tướng số. Thầy hỏi anh có làm việc gì phước lớn không. Anh nói không có. Ông quả quyết rằng ông đoán chưa hề sai, thì anh mới nhớ lại: Có vớt một nhánh cây bần bị gió bão làm gẫy trôi sông, vì thấy tội nghiệp đàn kiến đang bò lúc nhúc trên đó. Cứu mấy con kiến còn được phước báo huống gì cứu độ một người thoát nạn, hay khỏi bệnh. Vậy chúng ta đừng chê việc phước nhỏ mà không làm. Phước nhỏ lớn là do tâm mình làm lành vì trắc ẩn hay vì háo danh, vị kỷ.
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  11. #111

    Mặc định

    Đây quả là chốn thiên thơ :P
    "Tôi chỉ là cây hoa xương rồng nhỏ
    Giữa bao la hoa đẹp của cuộc đời
    Dù nắng , gió , mưa sa và bão cát
    Vẫn mỉm cười tươi đón ánh mình minh."

  12. #112
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Xương Rồng Nhỏ Xem Bài Gởi
    Đây quả là chốn thiên thơ :P
    Nơi đây là đại khoa tràng
    Không phân cao thấp muôn ngàn pháp môn
    Thật đông đủ các tiểu hồn
    Hiện thân hòa pháp, hóa khôn trần đời
    Thích ca chánh pháp rạng ngời
    Noi theo tiếng bước hợp thời độ nhân
    Pháp điển rộ nở rần rần
    Cửu long uốn lượn kim thân rạng ngời
    Rồng nhỏ thơ lượn lưng trời
    Tại đây là chốn thiên thời cứu nhân
    Tiếng chuông hòa hợp ân cần
    Từ xa hóa hiện trong ngần tình thương
    Last edited by tritue; 10-10-2011 at 09:12 PM.
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  13. #113
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    Đức Phật Thích Ca trong Đạo Cao Đài :
    Đức Phật Thích Ca là Giáo chủ Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Đạo Phật từ đó truyền đến nay được hơn 2500 năm.
    Ngày nay thuộc Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mở Đạo Cao Đài. Lúc ban sơ, Đức Phật Thích Ca có giáng cơ dạy đạo như sau :

    Ngày 8 tháng 4năm Bính Dần (1926).

    THÍCH CA MÂU NI PHẬT

    Chuyển Phật Đạo,
    Chuyển Phật Pháp,
    Chuyển Phật Tăng,
    Qui nguyên Đại Đạo.

    Tri hồ chư chúng sanh ?
    Khánh hỷ ! Khánh hỷ ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ : Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu !
    Ngã vô lự Tam đồ chi khổ. Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. " (TNHT. I. 14)

    Bài giáng cơ bằng chữ Nho trên của Đức Phật Thích Ca, diễn Nôm ra sau đây : Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển Phật đạo, Phật pháp, Phật tăng, qui nguyên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chư chúng sanh có biết chăng ?
    Vui mừng ! Vui mừng ! Được hội vào Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ : Chư Thần Thánh Tiên Phật quá mừng nên phát ra tiếng cười lớn.
    Ta không còn lo lắng về 3 đường luân hồi khổ sở. Khá tùng theo lời dạy bảo của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, gọi là Đấng Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
    Đức Phật Thích Ca có giáng cơ ban cho 2 Bài kinh rất quan trọng là : Kinh Đại Tường và Di-Lạc Chơn Kinh.
    Hai Bài kinh nầy cho chúng ta biết, Đức Phật Thích Ca đã giao quyền giáo hóa lại cho Đức Phật Di-Lạc trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, nên Đức Phật Thích Ca vào ngự nơi Kim Sa Đại điện trong Lôi Âm Tự, và Đức Phật Di-Lạc ngự tại Kim Tự Tháp ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới nơi cõi thiêng liêng.
    Còn Đức Phật A-Di-Đà, trước đây là Giáo chủ CLTG (cực lạc thế giới), nay cũng giao quyền lại cho Đức Phật Di-Lạc, và Ngài cũng vào ngự nơi Lôi Âm Tự. (Vào Lôi Âm kiến A-Di).
    Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, tại Tòa Thánh Tây Ninh cũng như tại các Thánh Thất địa phương, đều có thiết Đại Lễ cúng Vía Đức Phật Thích Ca, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại tiểu sử và công đức của Ngài.
    __________________
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  14. #114
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    "Xuống trần "đi thuận" tên ghi sổ trần.
    Vào trần mang nặng xác thân,
    Nhơn dục lôi cuốn mất phần linh thiêng.
    Muốn về cửa Phật nhà Tiên,
    "Ði nghịch" phản bổn hồi nguyên trở về.
    Công phu, tánh mạng làm đề;
    Linh hồn quyết định hồi quê Thiên Ðàng."

    Hằng ngày tâm nguyện tìm đàng
    Chớ theo nhơn dục lang bang cõi trần
    Giúp nhau mà trả nợ nần
    Đừng gây nghiệp mới,ái ân đèo bòng
    Nhân đạo gắng vẹn cho xong
    Hồi nguyên phản bổn,thong dong ta về
    Nhà tiên cửa phật là quê
    Đạo trong thân đó ,chớ hề đâu xa
    Minh sư ta quyết tầm ra
    Một lòng tìm đạo vị tha cho đầy

    "Các trẻ muốn gặp Thầy cũng dễ,
    Dẹp "tâm phàm" đừng để dây dưa,
    Thiệt hư quấy phải ngăn ngừa;
    Tham, sân, ái, ố rán chừa cho xa.
    Các trẻ muốn gần Cha thì vậy,
    Cha vui lòng tin cậy hằng ngày,
    Lựa điều, lựa việc Cha sai,
    Con đừng biếng nhác cải Thầy nghe con."


    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  15. #115

    Mặc định



    NHỮNG lời vàng ngọc nguyện khắc ghi
    CÂU chữ khuyên tu gắng học nghì
    CHUYỆN lành cố tập nên Hiền Thánh
    ĐẠO mầu huyền diệu dạy TỪ BI

    Thiện Niệm


    Thiện chí bồi công tông tổ quang vinh vang xã tắc
    Niệm cầu lập đức tử tôn hiển hách rạng sơn hà

  16. #116

    Mặc định

    Tổ sư Đạt Ma:
    http://www.phatam.com/video/phat-am/...2ce27677c.html


    Hãy click chuột phải lên hình biểu tượngDownloadrồi chọn Save Target As để tải về máy


  17. #117
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    PHÚ NA KỲ

    (Trích trong Kinh Hiền Ngu, phẩm thứ hai mươi chín)

    CHÍNH tôi (Anan) được nghe: Một thời đức Phật ở một nước Xá Vệ, tại vườn của ông Cấp Cô Độc và rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

    Thuở bấy giờ nước Phóng Bát có ông Trưởng giả tên là Đàm Ma Tiện (Tàu dịch: Pháp Quân), nhà giàu nhất nước ấy, vợ ông sinh được đứa con trai, nhân gặp lúc nhà vua xuất quân đi đánh trận, nên đặt tên là Tiện Na (Tàu dịch: Quân). Sau bà lại sinh được cậu nữa, giữa lúc nhà vua thắng trận, nên đặt tên là: Tỷ Kỳ Đà Tiện Na (Tàu dịch: Thắng Quân).

    Phải khi ông Trưởng giả mắc bệnh, các thầy lang đến chữa được tiếp đãi trọng hậu, ăn uống rất đàng hoàng, tiền vàng khá nhiều. Nhưng không may gặp bọn thầy lang gian ác, cho trái thuốc, cốt ngâm bệnh ông lê nhê mãi không khỏi để chúng kiếm nhiều tiền.

    Ông có một người ở gái, hàng ngày thuốc thang cơm cháo hầu hạ, nó biết mưu của bọn thầy lang như thế, nên nó thưa với ông rằng:

    - Thưa ông! Các ông lang không tốt đâu! Họ ác lắm! Thấy ông giàu có, cho ông uống trái thuốc, dềnh dang cho lâu khỏi, để cầu lợi. Vậy để tôi cứ như lần trước, theo đúng phép điều trị thì khỏi!

    Ông nói:

    - Phải! Mi nói đúng, cho mi được tùy ý!

    Sau, cô điều dưỡng cho ông được khỏi bệnh. Một thời gian sau Trưởng giả khỏe mạnh, cô thưa với ông rằng:

    - Thưa Trưởng giả! Tôi hầu hạ thuốc thang cho ông nay ông đã khỏi bệnh. Vậy tôi xin ông một điều, nếu ông vui lòng tôi xin nói.

    Trưởng giả đáp: - Mi cứ việc nói.

    - Tôi mong ước đã lâu, muốn được vui thú ân tình với ông một đêm, xin ông đừng từ chối!

    Ông Trưởng giả mỉm cười gật đầu.

    Cô mừng quá, đêm hôm ấy cùng ông thỏa mãn ân tình, sau cô có thai, qua thời gian sinh một cậu con trai, vì được mãn nguyện vọng, nên đặt tên là Phú Na Kỳ (Tàu dịch là Mãn Nguyện).

    Song cũng hay! Cậu bé kháu khỉnh, khi lớn có đức tướng khôi ngô, lòng dạ ngay thẳng trung chính, và thông minh, về mặt thương mãi có tinh thần hơn người, lại biết cách trồng cây, nuôi súc vật, đi đến đâu cũng gặp tốt lành. Như vậy, là do tinh khí của ông Trưởng giả, nên được thông minh xuất chúng, chỉ nỗi làm con người ở gái, nên đứng vào hàng nô tỳ hèn hạ, không được cao quý bằng con bà lớn.

    Khi đó Trưởng giả mắc bệnh, biết mình phải chết, gọi hai con lên dặn rằng:

    - Con người có sinh phải có tử, xem trong mình cha không có phần ở với con được nữa, vậy sau khi cha chết, các con nên ở với nhau, chớ phân chia tài sản!

    Đáp: - Dạ! Xin cha cứ an tâm điều dưỡng thuốc thang, nếu cha có mệnh hệ nào, chúng con, anh em ở với nhau, xin nhớ lời cha dạy.

    Được ít ngày ông chết, anh em ăn ở với nhau, trên thuận dưới hòa, sống chung một nhà đoàn viên vui vẻ! Không xảy ra chuyện chi xích mích. Qua thời gian khá lâu, cũng vì sự sinh sống, hai người anh con bà lớn đi ra nước ngoài buôn bán, vợ con và tài sản đều giao cho Phú Na Kỳ là em thứ ba ở nhà coi sóc, đảm nhiệm việc gia đình.

    Theo lời hai anh, Phú Na Kỳ ở nhà phụng sự gia nghiệp, tăng gia sản xuất để nuôi gia đình một cách rất chu đáo đối với hai chị dâu và các cháu. Một hôm đứa con trai nhỏ của Thắng Quân đến xin tiền Phú Na Kỳ, phải lúc không sẵn, Phú Na Kỳ nói:

    - Hôm nay chú không sẵn, cháu muốn mua gì để chú mua cho!

    Nó giận chạy về mách mẹ rằng:

    - Mẹ ơi! Chú Phú Na Kỳ không có công tâm, con bác muốn gì chú cũng cho; hôm nay con xin tiền mua quà chú không cho!

    - Thế à! Làm sao con đứa ở lại thiên lệch như vậy? Thôi không thèm để mẹ bảo cho.

    Sau khi Thắng Quân về, người vợ chưa nguôi cơn giận, đem chuyện đó nói với chồng.

    Thắng Quân cũng si mê nổi giận nói:

    - Con đứa ở sao dám thiên lệch như vậy? Nó muốn chết ư? Ta sẽ giết nó cho xem!

    Thắng Quân lên nói với anh cả rằng:

    - Thưa anh, theo lời cha dặn lúc sinh thời, anh em ở chung nhau, nhưng em thấy chú Phú Na Kỳ quá đáng, em xin anh cho ở riêng!

    - Thôi chú ạ! Phú Na Kỳ tốt lắm đấy, chú nghe chi trẻ con đàn bà, trái lời cha dặn là bất hiếu!

    Thắng Quân nói tới hai lần không thôi.

    Người anh biết rằng nếu ở chung rồi sẽ xảy ra những chuyện không hay, bất đắc dĩ phải cho phân cư. Tất cả ruộng vườn, của cải, súc vật chia ra bốn phần:

    Anh cả hai phần, Thắng Quân một phần, còn một phần cho Phú Na Kỳ, chia gia tài xong, Thắng Quân nói:

    - Phần anh thì anh lấy, còn của Phú Na Kỳ để em giữ.

    Người anh biết ý Thắng Quân muốn hại Phú Na Kỳ, nên khéo léo cho Phú Na Kỳ đi ở nơi xa. Lúc bước ra đi, Phú Na Kỳ được chị cả cho năm đồng tiền ăn đường.

    Phú Na Kỳ sang tỉnh khác làm ăn, hôm ấy ra chợ mua củi, đem về cởi ra được mấy đoạn gỗ chiên đàn và mấy đoạn gỗ ngưu đầu, đem chặt ra mười đoạn cất đi.

    Cũng do phúc của Phú Na Kỳ đến ngày phát hiển, khi đó Hoàng hậu mắc bệnh nhiệt, phải dùng hai thứ gỗ nói trên uống thì khỏi, nhà vua cho người đi tìm không được, phải viết bản cáo thị: "Nếu ai tìm được gỗ chiên đàn, ngưu đầu sẽ trả cho ngàn lạng vàng".

    Phú Na Kỳ mừng quá, đem vâng vua một đoạn, vua cho một ngàn lạng vàng, cứ thế, dâng vua hết mười đoạn, được mười ngàn lạng vàng.

    Đem về mua mười mẫu đất, xây cất nhà cửa, xe, ngựa, lục súc, nuôi nô tỳ, thuê người làm lụng, từ đó gia nghiệp trở nên phong phú.

    Bấy giờ có năm trăm người buôn biết Phú Na Kỳ khá vốn, rủ ra biển buôn bán. Phú Na Kỳ thưa với anh cả rằng:

    - Thưa anh, em muốn ra biển buôn bán, và tìm trân bảo, có được xin anh cho phép?

    - Được lắm, tôi sẽ cấp thêm tiền và cho một người đi cùng chú.

    Phú Na Kỳ ra biển buôn bán phát tài, và lấy được rất nhiều ngọc thạch, hột xoàn, trân bảo, vàng bạc nên mừng thầm, lớp này về nhà được giàu có, của này ăn đến bảy đời không hết.

    Đương lúc thuyền trôi lênh đênh trên mặt biển, một trời một vực, thốt nhiên mọi người đều nhìn thấy ba mặt trời xuất hiện, lạ quá hỏi người lái đò rằng:

    - Hôm nay, sao lại có ba mặt trời, ông có biết là điềm gì không?

    - Các ông nên biết: đây là điềm nguy biến cho chúng ta đấy, không bao giờ có ba mặt trời, ở biển này có loài cá Ma Kiệt lớn dài bảy trăm do tuần, mỗi giấc ngủ của nó là một trăm năm, khi thức giấc, nó há mồm cho nước biển và tôm cá chảy vào làm món ăn, trên kia là mặt trời chính, còn hai là mắt cá, giữa khoảng trắng kia là răng nó, nước đương chảy vào chỗ tối kia là mồm nó, nguy đến nơi rồi các bạn ơi! Bọn ta chết trong mồm cá này đây, thật là hết lối tẩu thoát, thuyền cứ theo dòng nước chảy vào mồm cá, khi gần tới nơi, có một người Ưu Bà Tắc theo Phật giáo lớn tiếng nói rằng:

    - Các bạn! Cái chết của chúng ta tới nơi rồi, các bạn mau mau, dốc lòng kính niệm "Nam mô Phật"; Ngài là một đấng đức nhân trong ba cõi, không ai bằng. Ngài có đại lực cứu khổ ban vui trong chớp mắt!

    Ai nấy đều lo chết, nghe ông Hiền giả nói xong, một lòng thành kính tha thiết, đồng thanh niệm Nam mô Phật.

    Cá Ma Kiệt nghe được danh hiệu Phật, phát từ tâm, ngậm mồm lại, rồi lặn xuống đáy biển, mọi người đều thoát nạn trở về nước.

    Về đến nhà, Phú Na Kỳ lấy mâm đựng các của quý ngoài biển, đem biếu người anh cả tên là Tiện Na rồi nói rằng:

    - Thưa anh, em đã vì gia đình, sinh kế mà lập nghiệp, bây giờ nhà cửa ruộng đất, các trang vật đầy đủ, con cháu ăn đến bảy đời không hết, xin biếu anh cả, em xin anh cho xuất gia theo Phật tu hành cho thoát ách đau khổ!

    - Phải! Chú nói hay, tôi cũng không muốn trái ý, song chú hãy còn ít tuổi, chưa hiểu lẽ nhân luân, Phật Pháp cao sâu, làm sao theo nổi, chú hãy lui lại vài năm nữa hãy đi tôi rất đồng ý!

    - Thưa anh! Mạng người vô thường, sớm còn chiều mất không có nhất định, không có bảo đảm, bữa trước đây em ra biển gặp cá Ma Kiệt suýt chết hụt, cũng nhờ ơn đức của Phật cứu sống, vậy anh hãy hoan hỷ cho em đi, đừng cản em nữa, vì em đã quyết định như vậy.

    - Thôi, chú đã có tâm như vậy, tôi cũng không dám cản chú xuất gia, tôi vui lòng!

    - Dạ! Anh hoan hỷ nhé!

    Phú Na Kỳ rủ năm trăm người lái buôn đến nước Xá Vệ yết kiến Phật, tới nơi cúi đầu lễ sát đất bạch rằng:

    - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con tới đây cầu xin xuất gia tu đạo, cúi xin Ngài từ bi tế độ.

    Đức Thế Tôn nhìn thấy họ tội căn đã hết, quả Bồ đề đã phát sinh, nên Ngài mỉm cười nói:

    - Thiện Lai Tỷ Khưu!

    Nói dứt lời, năm trăm người đều biến thành các vị Sa Môn theo Phật tu học, chẳng bao lâu tâm trí giác ngộ, dứt hết lậu nghiệp ba cõi, đắc quả La Hán. Duy có Phú Na Kỳ kết sử nặng quá, phải giảng thuyết cho nghe nhiều cũng không giác ngộ, sau thành tâm cố gắng lập chí tu học, được chứng sơ quả, từ đó tinh tiến ngồi thiền tụng kinh, không dám lười biếng.

    Ngày an cư đã tới, Đức Thế Tôn cho các vị Tỷ Khưu ai muốn an cư ở đâu cũng được tùy ý. Phú Na Kỳ tới trước Phật bạch rằng:

    - Kính lạy đức Thế Tôn! Khóa hạ năm nay, đệ tử xin đến nước Phóng Bát an cư, xin từ bi hoan hỷ.

    Phật dạy: - Pháp Tử, người nước Phóng Bát bạc ác, tin theo tà đạo, kiến thức hẹp hòi, con là kẻ sơ học, đối với giáo pháp của ta chưa hiểu bao nhiêu, nếu bị họ hủy nhục thì làm thế nào?

    - Kính lạy đức Thế Tôn! Nếu họ có hủy nhục con, một cách tệ mạt đi nữa, nhưng họ không làm hại con thì cũng được!

    - Nếu kẻ gian ác nó làm hại con, thì sao?

    - Kính lạy Ngài! Nếu nó làm hại, mà không giết con cũng còn hàm ơn họ!

    - Nó giết con không ích gì cho con, lúc đó con làm thế nào?

    - Kính lạy Ngài! Tất cả vạn vật, có hình phải có hoại, nếu họ giết con thì con chịu chết!

    - Nó hủy hoại con, làm nhục con, mà nó không giết con, thì con có giận nó không?

    - Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con không có giân, chính kẻ đó lấy một sự không có căn cứ, vô cớ hủy nhục con, phỉ báng con, hoặc đem dao gậy đánh đập con, sau giết con, mà chưa chết hẳn, tới phút cuối cùng, con cũng không có một niệm giận họ!

    Phật khen rằng: - Đệ tử! Nếu con thực hành được như vậy thì rất hay, sẽ làm hiển dương cho ngôi Tam Bảo!

    Phú Na Kỳ cúi đầu lễ Phật, rồi cầm bát mang áo ra đi. Tới nước Phóng Bát, nghĩ tại rừng một đêm, sớm ngày mai vào thành khất thực, đến một nhà đại phú Bà La Môn, anh chủ nhà chạy ra đuổi mắng!

    Phú Na Kỳ qua nhà khác, anh này cứ theo sau phỉ báng, mắng nhiếc và đánh đập luôn tay. Nhưng Phú Na Kỳ vẫn bình tĩnh coi như không, nét mặt vẫn tươi như hoa mới nở! Vui vẻ! Và không nói năng gì. Anh chàng đánh chán tay, mỏi cánh, mắng rát cổ, thấy Phú Na Kỳ không thay đổi sắc mặt và oán giận gì, nên anh tự thẹn hổ trong lòng, là vì vô cớ đánh người, trách mình là kẻ tàn nhẫn quá, rồi đến xin tạ lỗi.

    Trong ba tháng an cư, Phú Na Kỳ chăm chỉ tu hành, được hết mọi kết sử, tội chướng tiêu tan, hốt nhiên giác ngộ: đắc quả vô lậu, giải thoát sinh tử ba cõi, thành ngôi A La Hán.

    Hết ba tháng an cư, Phú Na Kỳ từ giã các người thân tín, về nhà dặn anh rằng:

    - Anh chớ có ra biển, ngoài biển có nhiều sự nguy hiểm, tiền của em để lại cho anh, có thể anh dùng trong bảy đời không hết.

    Dặn xong ra về, khi tới Tịnh Xá lễ Phật và chúc mừng Phật, rồi về phòng nghỉ.

    Tiện Na không nghe lời Phú Na Kỳ dặn, một hôm cùng với những người lái buôn ra biển, lấy rất nhiều gỗ chiên đàn, gỗ ngưu đầu, đầy thuyền chở về. Giữa biển thuyền trôi lênh đênh, gặp một con rồng, làm giông tố dữ dội, nó muốn đánh đắm thuyền để cướp lại gỗ, tất cả mọi người la ó, khóc than! Kêu trời vái đất ầm ĩ! Tiện Na nhớ rằng vì không nghe lời em, nên nay bị nạn, khi đó chỉ lớn tiếng gọi chú Phú Na Kỳ, gọi liên hồi khan tiếng!

    Khi đó Phú Na Kỳ ở nước Xá Vệ tại tinh xá Kỳ Hoàn, đương tọa thiền, bỗng nghe thấy tiếng anh mình kêu mắc nạn, lấy thiên nhãn nhìn thấy Tiện Na đương ở ngoài biển bị con rồng hãm hại, bèn dùng La Hán thần túc hóa ra một con chim Kim Xúy Điểu, xòe cánh dài tám vạn do tuần, bay đến khủng bố rồng! Rồng thấy chim sợ hãi, lặn chìm xuống đáy biển, nhờ sức thần túc của Phú Na Kỳ mà sóng gió đều im, mọi người thoát nạn trở về nước nhà.

    Khi Tiện Na về tới nhà, Phú Na Kỳ thưa với anh rằng:

    - Anh muốn được phước báo trang nghiêm trên cõi Nhân Thiên, cho muôn ngàn thế hệ sau này, thì lấy gỗ chiên đàn làm một tòa lâu đài, mời Phật về ngự, và thuyết pháp cho quốc dân nghe.

    - Việc làm tôi xin làm chu đáo, nhưng còn thỉnh Phật thì phải làm thế nào? Và sắm sửa những gì cúng dàng? Chú cho biết để sắp đặt.

    - Việc đó anh không lo! Để em chịu trách nhiệm!

    Sau khi Tiện Na làm xong các tòa lâu đài bằng gỗ chiên đàn các công việc sắp đặt chu đáo. Phú Na Kỳ lấy lò đốt hương trầm, lên một lầu cao, hướng về rừng Kỳ Hoàn, lễ Phật cùng Thánh chúng khấn rằng:

    - Kính lạy đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Cùng chư vị Hiền Thánh từ bi chứng giám, sớm ngày mai tới nước hèn mạt này, giáo hóa cho lũ ngu si mê muội. Nay con xin được dùng thần thông phóng nước đến rửa chân Phật.

    Khấn nguyện xong, khói hương ấy bay tới đầu đức Thế Tôn, kết thành cái tán bằng khói hương. Sau Phú Na Kỳ dùng thần thông phóng nước đến rửa chân Phật.

    Tôi (Anan) thấy điềm lạ, quỳ xuống bạch rằng:

    - Kính lạy đức Thế Tôn! Ai phóng nước và khói tới đây, xin nói cho chúng con được rõ?

    - Hôm nay Tỷ Khưu Phú Na Kỳ ở nước Phóng Bát, khuyên người anh thỉnh mời ta và các Tăng chúng, nên phóng nước và khói tới đây để làm tin về việc thỉnh. Vậy ông đi phát thẻ cho các vị Thần túc Tỷ Khưu sớm mai đến nhà Tiện Na thụ trai.

    Tôi theo lời Ngài đi phát thẻ cho các vị có thần túc và dặn sớm mai đến nước Phóng Bát.

    Sáng sớm hôm sau, ông Kỳ Kiền Trực Kỳ (Tàu dịch: Tục Sinh), giữ chức trực nhật (làm cơm hàng ngày), ông đã đắc quả A Na Hàm, ngồi kết già phu, thân phóng quang minh, chiếu sáng bốn phương, đem theo các thứ dùng bữa ăn, bay trên hư không tới nước Phóng Bát.

    Tiện Na trông thấy hỏi:

    - Đây là thầy em hay sao?

    - Không phải, đây là người sửa soạn cơm cho các Tỷ Khưu, tới trước để giúp bữa trai hôm nay.

    Tiện Na đem âm nhạc ra cúng dàng, Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Lần thứ hai có mười sáu vị Sa Di, trong đó có ông Quân Đề, dùng thần túc biến hóa ra rừng cây, hái các thứ hoa quả, biến hóa rất nhiều, phóng quang minh chiếu sáng cả trời đất, người cỡi ngựa hoặc cỡi lạc đà đi tới.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em hay sao?

    - Không phải! Đây là những đệ tử Sa Di cùng thầy với em; có vị mới có bảy tuổi đã đắc quả La Hán, lậu nghiệp đã hết, thần túc đầy đủ, lại đây trước để hái hoa cúng dàng.

    Tiện Na đem hương hoa, âm nhạc ra cúng dàng, các vị từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau có các vị cao niên trưởng lão Đại A La Hán, hóa ra ngàn con rồng kế thân làm tòa, đầu ngóc ra bốn bên, gầm thét vang trời, mồm rồng phun ra nước mưa thất bảo, ở trên đặt những tòa lớn, bằng bảy thứ báu ngọc, bay bổng trên không gian, phóng quang minh chiếu sáng khắp thiên hạ, đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em hay sao?

    - Không phải, đây là nhóm ông Kiều Trần Như, lúc Phật mới thành đạo, thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển, bọn ông cả thảy năm người được độ đầu tiên, có thần thông vô ngại.

    Tiện Na nghe nói thêm lòng cung kính, đem hương hoa âm nhạc ra cúng dàng, các vị từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau ngài Ca Diếp hóa ra một ngàn nhà giảng bằng thất bảo, phóng quang minh ở trong mình ra, chiếu khắp bốn phương, bay đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em hay sao?

    - Không phải, đó là ngài Ma Ha Ca Diếp, hay tu hạnh Đầu Đà thương kẻ ty tiện, chăm cấp giúp kẻ nghèo cùng.

    Tiện Na vui vẻ đem hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau Ngài Xá Lợi Phất, ngồi tòa ngàn con Sư tử, hướng đầu ra bốn phương, mồm phun nước mưa thất bảo, gầm thét, làm chấn động cả trời đất, trên mình Sư Tử bày tòa bằng thất bảo, thân ngài phóng quang minh chiếu soi bốn phương, bay trên hư không, đi đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải không?

    - Không phải, đó là vị đại đệ tử của thầy em! Trí tuệ bậc nhất, tên là Xá Lợi Phất.

    Tiện Na vui mừng, lấy hương hoa âm nhạc ra cúng dàng, ngài từ từ hạ xuống nhà.

    Sau ngài Mục Kiền Liên hóa ra một ngàn con voi, quay đầu ra bốn bên, mỗi con có sáu ngà, mỗi đầu ngà có bảy hồ tắm, trong mỗi hồ có bảy hoa sen, trên mỗi hoa có bảy người ngọc nữ, ngoài ra còn biến hiện rất nhiều, phóng hào quang sáng lớn, làm vang động cả bốn phương trời, trên đầu voi bảy tòa thất bảo, ngài ngồi trên, bay đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải không?

    - Không phải, đó là đệ tử của thầy em, tên là Đại Mục Kiền Liên, thần thông bực nhất, đức hạnh đầy đủ.

    Tiện Na vui mừng đem hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau ngài A Na Luật tự hóa ra bảy ao tắm bằng thất bảo; trong ao có hoa sắc vàng; hoa lá bằng thất bảo. Ngài ngồi kiết già phu trên hoa, cổ ngài đeo chiếc nhật quang soi khắp thiên hạ, những ánh hào quang ấy thuần sắc vàng bay trên không gian đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em phải không?

    - Không phải, đó là đệ tử của thầy em tên là A Na Luật Đề, đối với đại chúng, người là một vị có thiên nhãn bực nhất.

    Tiện Na vui mừng! Cung kính lấy hương hoa kỹ nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau em Phật là Nan Đà, hóa ra ngàn cỗ xe ngựa thất bảo, trên xe che tán thất bảo, phóng quang minh chiếu ra bốn phương, bay trên hư không, đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em phải không?

    - Không phải, đó là em của Phật tên là Nan Đà, tướng mạo và đức hạnh đầy đủ.

    Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau ngài Tu Bồ Đề hóa ra bảy quả núi ngọc, ngài ngồi trong hang lưu ly, thân phóng quang minh nhiều sắc lẫn nhau, chiếu sáng trời đất, bay đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em phải không?

    - Không phải, đó là đệ tử của thầy em tên là Tu Bồ Đề, học nhiều trí tuệ sâu rộng, là một vị bậc nhất giải rõ pháp "Không".

    Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau đó ông Phân Nậu Văn Đà Ni Tử, hóa ra một ngàn thân Ca Lâu La Vương, kết thành tòa ngồi, đầu hướng ra bốn bên, mồm ngậm các thứ châu bảo, phát ra những tiếng hòa nhã, ở trên bảy tòa thất bảo, bay trên không gian đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em phải không?

    - Không phải, ông đó cùng đồng thầy với em, tên là Phân Nậu Văn Đà Ni Từ, một vị biện tài đệ nhất.

    Tiện Na vui vẻ! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau có ngài Ưu Bà Ly hóa ra ngàn con nhạn giụm mình vào nhau đầu quay ra ngoài, tiếng kêu hòa nhã! Mồm ngậm các thứ châu bảo, bay liệng trên không gian, trên mình bày tòa quý đẹp, phóng đại quang minh chiếu khắp bốn phương, bay đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải chăng?

    - Không phải, đó là đệ tử của thầy em, tên là Ưu Ba Ly, một vị trì luật bực nhất trong hàng Tỷ Khưu.

    Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau đó, hai mươi ức vị Sa Môn, hóa ra những hàng cây ở trên hư không, dùng ngọc lưu ly xanh làm lối kinh hành, giữa hai hàng cây giáp nhau, làm bằng thất bảo, bên lề đường cũng bằng thất bảo, các vị đi trên lối kinh hành đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải chăng?

    - Không phải, đây là hai mươi ức vị Sa Môn, đệ tử trong các hàng Tỷ Khưu, tinh tiến hơn hết.

    Tiện Na vui mừng, đem hương hoa âm nhạc ra cúng dàng, các Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau có ông Đại Kiếp Tân Ninh, hóa ra bảy hàng cây báu, trên cây có rất nhiều hoa quả, dưới gốc có bảy tòa cao đẹp, Ngài ngồi trên tòa phóng quang minh, bay trên hư không đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải chăng?

    - Không phải, đây là một vị cùng thầy với em, tên là Đại Kiếp Tân Ninh, oai nghi đĩnh đạc, dũng mãnh nghiêm chỉnh đệ nhất.

    Tiện Na vui mừng, đem hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau có ông Tân Đầu Lư Phả La Đỏa Sà ngồi tòa hoa sen, cổ đeo chiếc nguyệt quang, phóng ra ngàn tia sáng, soi khắp trời đất, bay trên không gian đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải chăng?

    - Không phải, đó là đệ tử Phật, tên là Tân Đầu Lư Phả La Đỏa Sà, một vị tọa thiền giỏi nhất.

    Tiện Na vui vẻ, đem hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Sau có ông La Hầu La hóa làm vua Chuyển Luân; có ngàn người con và thất bảo vây quanh trước sau, bay trên không gian đến nước Phóng Bát.

    Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải không?

    Đáp: - Không phải, đó là con Phật, tên là La Hầu La, nếu ở tại gia sẽ thống trị bốn thiên hạ, thất bảo tự nhiên đầy đủ, không phải dùng quân đội và khí giới mà có thể dẹp yên được giặc, nhưng đã bỏ ngôi cao quý để xuất gia tu đạo, được đắc quả A La Hán, đủ sáu phép thần thông, giờ đây biến thân để biểu lộ cái ngôi của Ngài.

    Tiện Na vui vẻ đem hương hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

    Trên đây là năm trăm đệ tử của Phật, có phép thần thông vô ngại biến hiện phi thường không tả xiết.

    Khi đó đức Thế Tôn biết các vị đã đi đến nước Phóng Bát rồi. Ngài bèn phóng hào quang chiếu sáng trời đất thuần sắc vàng.

    Thấy điềm tướng này, Phú Na Kỳ bảo Tiện Na rằng:

    - Thưa anh! Đức Thế Tôn sắp đến, nên Ngài phóng hào quang cho biết trước!

    Đức Thế Tôn đương ngồi trên tòa, la chân xuống đất, tất cả trên trời dưới đất đều rung động sáu lần.

    Phú Na Kỳ nói: - Động đất này là do đức Thế Tôn, Ngài la chân xuống đất làm chấn động như thế đó.

    Đức Thế Tôn vừa ra khỏi Tinh Xá, Ngài dừng lại nhập định, thì thần kim cương đứng ở tám mặt; bốn ông Thiên Vương đi trước, vua Đế Thích với các ông Thiên Tử cõi Dục và năm trăm ngàn muôn chúng thị vệ bên tả, vua Trời Đại Phạm và các ông Thiên Tử cõi Sắc, với vô số người đứng bên hữu. Tôi (A Nan) đứng sau Phật cùng với đại chúng, phóng quang minh chiếu khắp trời đất, bay trên hư không đến nước Phóng Bát.

    Đi được nữa đường, gặp năm trăm nông phu đương cày ruộng, các con trâu tự nhiên đứng dừng lại không kéo cày nữa, một vẻ trầm tĩnh và kính cẩn biểu lộ, ngửa mặt nhìn lên trời, các người nông phu ngửa nhìn theo trâu, họ đều quỳ xuống bạch Phật rằng:

    - Kính lạy đức Thế Tôn! Để lòng thương lũ chúng con, tạm xuống chỗ này giáo hóa chúng con thoát ly được những nỗi đọa đày thể xác lẫn tinh thần, đời đời được an vui sung sướng!

    Phật lấy lòng từ bi và biết những người này duyên lành đã tới, nên Ngài từ từ hạ xuống thuyết pháp cho họ nghe.

    Họ được lãnh hội giáo lý của Ngài, tâm trí tự nhiên sáng tỏ, hiểu thấu đời là vô thường không gì vững chắc, liền ngắt dứt được hai mươi ức kiếp tội ác, thành ngôi Tu Đà Hoàn, còn những con trâu, sau khi chết được sinh lên trời, ai nấy đều vui mừng khôn xiết, lễ sát dưới chân Phật.

    Thuyết pháp xong, đức Phật lại bay lên hư không mà đi, đi chưa được bao xa có năm trăm kẻ đồng nữ chơi ở một cánh đồng rộng, nhìn xuống đất có ánh sắc vàng, ngửa mặt lên trời thấy Phật, chúng nó vui mừng chắp tay bạch Phật rằng:

    - Kính lạy Phật! Xin Ngài xuống đây thuyết pháp cho lũ con nghe!

    Phật biết những đứa này có túc duyên, căn lành với Tam Bảo đã chín, Ngài từ từ hạ xuống, mọi đứa tới gần cúi đầu lễ kính, đức Phật tùy theo căn cơ của nó, nói những lời đạo đức, giảng dạy môn tu. Chúng nghe xong đều phát trí sáng, đắc quả Tu Đà Hoàn, chúng vui mừng tha thiết lễ dưới chân Phật.

    Cảm hóa đã xong, Ngài cùng với các đệ tử đi bộ trên hư không, qua khoảng rừng xanh, có năm trăm vị tu tiên nhìn thấy Phật và đại chúng, họ đều tha thiết lễ kính và bạch rằng:

    - Kính lạy đức Thế Tôn! Nhân Ngài qua đây, chúng con được hạnh ngộ, ngửa mong ơn từ bi cao cả tế độ lũ chúng con được nhập đạo tu hành.

    Phật coi duyên trước của những người này, biết có thể độ được, nên Ngài từ từ hạ xuống trước mặt, mọi người cúi đầu lễ sát đất. Phật nói:

    - Thiện Lai Tỷ Khưu!

    Nói xong râu tóc họ rụng hết, biến thành các vị Sa Môn, Ngài giảng giải cho nghe, mọi người đều được sáng tỏ cõi lòng, hết lậu nghiệp đắc quả A La Hán. Phật bay lên hư không thì những người này họ cũng bay theo.

    Phú Na Kỳ xa ngó thấy Phật và đại chúng sắp tới bảo anh rằng:

    - Phật sắp tới anh ạ!

    Tiện Na vui mừng, lấy hương hoa âm nhạc ra cúng dàng, Phật và đại chúng Tăng từ từ hạ xuống vào nhà thứ tự ngồi an tĩnh.

    Tiện Na và gia quyến, sửa soạn cỗ bàn trai nghi trịnh trọng thành kính dâng Phật và đại chúng.

    Phật dùng cơm xong, rửa tay súc miệng, thăng tòa thuyết pháp cho cả nhà Tiện Na và toàn thể dân trong nước Phóng Bát nghe. Xong cuộc thuyết pháp này, gia quyến Tiện Na đều chứng quả Tu Đà Hoàn, còn những người trong nước một số rất đông được độ.

    Thấy thế, tôi (A Nan) hỏi Phật rằng:

    - Kính lạy đức Thế Tôn! Phú Na Kỳ đời quá khứ tạo ác nghiệp gì phải sinh làm con kẻ hạ tiện thuộc nô tỳ nhà người? Và có phước gì gặp Phật được thoát sinh tử? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi chỉ thị.

    Phật dạy: - A Nan! Ông muốn biết hãy nghe cho kỹ và nghĩ cho khéo, tôi sẽ nói cho hay!

    - Dạ! Lạy đức Thế Tôn, chúng con xin chú ý nghe!

    - A Nan! Đời quá khứ đã lâu, thời Đức Phật Ca Diếp giáng thế độ sinh. Bấy giờ có ông Trưởng giả, nhà rất giàu có, cũng vì việc cầu phước, nên ông làm một ngôi chùa và phòng Tăng, dâng bốn món: áo mặc, thức ăn, giường tòa, thuốc thang đầy đủ, cúng dàng Phật và các vị Thánh Tăng. Sau khi ông chết, người con trai của ông đi xuất gia, không có người thừa tự, nên sự cúng dàng ngày một thiếu hụt, các sư phải giải tán đi nơi khác, chùa chiền bỏ hoang vu, không người sửa chửa, bị mục nát, điêu tàn! Người con trai ông đi xuất gia, khi trở về thấy thế, đi nói với dân làng và bè bạn thân quen, bỏ tiền ra tu bổ lại ngôi chùa, và mời các Sư Tăng về cúng dàng như xưa, bấy giờ các Sư Tăng đến tu rất đông, phần nhiều là những vị Cao Tăng đại đức tu hành tinh tiến, đức hạnh đầy đủ.

    Người con trai ông khi đó làm chủ chùa. Trong các Sư Tăng phân công mỗi người một chức, để chấp tác việc chùa, hôm đó có một vị phải phiên trực nhật, nhổ cỏ quét đất vun thành một đống ở giữa sân chưa kịp hốt. Ông chủ chùa bẳn gắt mắng rằng:

    - Ai quét sân nhổ cỏ để đây không hốt đi, làm ăn thế à? Không khác gì đứa nô tỳ, lười lẫm như vậy?

    Ngờ đâu vị sư này đã tu chứng đến quả vị La Hán, mà ông không biết!

    Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

    - A Nan! Ông chủ chùa thuở đó chính là Phú Na Kỳ, bởi một lời nói ác, mắng vị La Hán thành nhân, tỷ dụ Ngài như đứa nô tỳ, vì tội ấy nên trong năm trăm năm, thường phải làm thân nô tỳ. Cũng do công đức sửa lại chùa chiền, khuyên người cúng dàng Tăng, đền tội đã xong, nay được gặp ta đắc giải thoát; những người nước này được giáo hóa, là những người ngày xưa giúp việc làm chùa và cúng dàng chúng Tăng, nên đời đời sung sướng, hôm nay gặp ta đều giải thoát cả.

    Khi đó tôi và đại chúng nghe xong đều vui mừng, tạ lễ mà lui.

    -
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  18. #118
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định

    ĐEN HAY TRẮNG

    Khi học cấp 1, có lần tôi tranh cãi kịch liệt với một cậu bạn. Thực tế tôi không nhớ chúng tôi đã cãi nhau vì cái gì, nhưng bài học ngày hôm ấy thì tôi vẫn nhớ mãi.

    Khi cãi nhau, tôi khăng khăng cho rằng: "Tao đúng, mày sai", và bạn tôi cũng nhất quyết: "Mày sai, tao đúng!"

    Cô giáo tôi bắt gặp, bảo cả hai chúng tôi lên phòng giáo viên. Cô bảo mỗi đứa ngồi một bên cạnh bàn, trên chiếc bàn có quả bóng nhựa rất lớn. Quả bóng màu đen xì. Thế mà khi cô giáo hỏi: "Em thấy quả bóng màu gì?" thì cậu bạn tôi đáp: "Thưa cô, màu trắng."

    Tôi không thể hiểu nổi nó đang nói gì. Mắt nó bị mờ hay đầu óc nó bị điên? Hay nó muốn trêu tức tôi? Thế là tôi bật lên cãi: "Màu đen chứ, đồ ngốc!"

    Chúng tôi lại bắt đầu cãi nhau về màu sắc của quả bóng. Đến lúc này thì cô giáo bảo chúng tôi đổi chỗ cho nhau. Lần này khi cô hỏi tôi: "Quả bóng màu gì?", tôi đành phải trả lời: "Màu trắng ạ". Bởi quả bóng đó được sơn hai màu khác nhau ở hai phía. Từ chỗ tôi ngồi ban đầu thì nó màu đen, còn chỗ bạn tôi thì nó màu trắng. Vậy mà chúng tôi đã gân cổ cãi nhau vì một điều mà cả hai đều chắc chắn cho là mình đúng mà không biết tại sao người kia nói ngược lại ý kiến của mình.

    Đừng bao giờ tự cho mình là hoàn toàn đúng. Bạn phải đặt mình vào địa vị và hoàĐEN HAY TRẮNG

    Khi học cấp 1, có lần tôi tranh cãi kịch liệt với một cậu bạn. Thực tế tôi không nhớ chúng tôi đã cãi nhau vì cái gì, nhưng bài học ngày hôm ấy thì tôi vẫn nhớ mãi.

    Khi cãi nhau, tôi khăng khăng cho rằng: "Tao đúng, mày sai", và bạn tôi cũng nhất quyết: "Mày sai, tao đúng!"

    Cô giáo tôi bắt gặp, bảo cả hai chúng tôi lên phòng giáo viên. Cô bảo mỗi đứa ngồi một bên cạnh bàn, trên chiếc bàn có quả bóng nhựa rất lớn. Quả bóng màu đen xì. Thế mà khi cô giáo hỏi: "Em thấy quả bóng màu gì?" thì cậu bạn tôi đáp: "Thưa cô, màu trắng."

    Tôi không thể hiểu nổi nó đang nói gì. Mắt nó bị mờ hay đầu óc nó bị điên? Hay nó muốn trêu tức tôi? Thế là tôi bật lên cãi: "Màu đen chứ, đồ ngốc!"

    Chúng tôi lại bắt đầu cãi nhau về màu sắc của quả bóng. Đến lúc này thì cô giáo bảo chúng tôi đổi chỗ cho nhau. Lần này khi cô hỏi tôi: "Quả bóng màu gì?", tôi đành phải trả lời: "Màu trắng ạ". Bởi quả bóng đó được sơn hai màu khác nhau ở hai phía. Từ chỗ tôi ngồi ban đầu thì nó màu đen, còn chỗ bạn tôi thì nó màu trắng. Vậy mà chúng tôi đã gân cổ cãi nhau vì một điều mà cả hai đều chắc chắn cho là mình đúng mà không biết tại sao người kia nói ngược lại ý kiến của mình.

    Đừng bao giờ tự cho mình là hoàn toàn đúng. Bạn phải đặt mình vào địa vị và hoàn cảnh của người khác để đánh giá sự việc, tình huống trong cuộc sống theo quan điểm của chính họ thì mới có thể thật sự hiểu họ được.

    (Người gởi: Huệ Tánh)

    n cảnh của người khác để đánh giá sự việc, tình huống trong cuộc sống theo quan điểm của chính họ thì mới có thể thật sự hiểu họ được.

    (Người gởi: Huệ Tánh)
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  19. #119

    Mặc định

    Ở đây toàn chuyện về phật đạo, có thêm chuyện về đạo khổng, đạo thiên chúa nữa thì hay biết mấy. Ai có chuyện về đạo thiên chúa và các đạo khác thì post dùm, cho phong phú topic hì hì.
    When you are young, everything feels like the end of the world. But it's not. It's just the beginning.rose4

  20. #120

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi tritue Xem Bài Gởi
    LỤC TỔ HUỆ NĂNG (638-713)






    Huệ Năng đáp: Đệ tử là dân huyện Tân Châu, xứ Lãnh Nam, thiệt ở phương xa đến đây lạy Tổ Sư chỉ cầu thành Phật chớ chẳng cầu chi khác.


    hic Lãnh Nam này ko biết có phải là Lĩnh Nam trong truyền thuyết thuộc thời Hồng Bàng ko nữa

    http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C4%A9nh_Nam

    "Năm 40, Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Hán. Sử củ ghi chép hai bà đã lấy được 65 thành trì của nhà Hán tại các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Hợp Phố, Hải Nam,...Hai bà xưng vương, với câu hịch nối lại nghiệp xưa vua Hùng, lập tên nước là Lĩnh Nam, đóng đô tại Mê Linh, ngày nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội." :surprise:

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 11:51 AM
  2. Thiền học
    By The_Sun in forum Thiền Tông
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 03-09-2011, 08:52 AM
  3. Tông phái Đạo giáo Trung Quốc
    By The_Sun in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 02-09-2011, 09:34 PM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 20-05-2011, 07:37 AM
  5. Câu chuyện về những “kiếp trước”
    By kiukiu in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 03-05-2011, 11:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •