Nguyên văn bởi CUUBAOLONG
Kính chào Người Khăn Trắng,
Tôi đang tìm hiểu Tôn Giáo. Đề tài “Quan Niệm Phóng Sanh Của Phật Giáo Nguyên Thủy” của Bạn rất hay. Tôi hoan hỷ trong việc làm phóng sanh và thường khuyến khích người khác phóng sanh. Bạn có nói đây là đề tài thuyết pháp của Thượng Tọa Pháp Chất, nhưng vì tôi đọc được đề tài này trên TGVH.com bởi Người Khăn Trắng, cho nên tôi xin lần lượt trình bày thiển ý và nêu 21 câu hỏi của tôi với Bạn. Mong Bạn từ bi giảng giải cho tôi.
Tôi sẽ đặt tất cả câu hỏi, nhưng trọng tâm những câu hỏi của tôi sẽ là NÊN HAY KHÔNG NÊN TẠO PHƯỚC BẰNG PHƯƠNG TIỆN PHÓNG SANH, dựa trên Ngũ Giới mà Đức Phật Thích Ca đã thuyết dạy.
Theo trích dẫn trong Trung Bộ Kinh – Majjhima Nikaya, bài số 60. Kinh Không Có Gì Chuyển Hướng – Apannaka Sutta, Webmaster Binhanson.com Budhasasana
[i][i]Kinh Không Có Gì Chuyển Hướng
“… Ở đây, này các Gia chủ, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống của các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt.
Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt giống; từ bỏ không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm”
….
Tôi kèm theo trích dẫn bài viết "Quan niệm về việc Phóng Sanh của Phật Giáo Nguyên Thủy"
Tôi xin lần lượt trình bày câu hỏi:
"Sở dĩ chúng tôi chọn đề tài này để nói, là vì xét thấy trong Tam Tạng kinh điển, Đức Phật không dạy, không khuyến khích về phước phóng sanh. Không dạy không khuyến khích tức là không có một bài kinh dạy rõ ràng"
Câu hỏi thứ nhất:
Có những sinh hoạt do từ quý Thầy Cô trong Phật Giáo hướng dẫn phật tử hay thập phương bá tánh làm. Từ việc tổ chức đoàn hành hương viếng chùa trong Việt Nam, ngoài Việt Nam, đến tổ chức thiện sự nơi các bịnh viện, cho các bịnh nhân, các cháu sứt môi…, nơi nhà dưỡng lão, nhà trẻ mồ côi, nhà trẻ khuyết tật, … Từ thiện sự giúp đồng bàp nghèo nơi miền quê, miền rừng núi,… đến giúp đỡ nạn nhân thiên tai, bảo lụt khắp mọi nơi… Từ những buổi cơm chay gây quỷ từ thiện, xây chùa, … đến khóa tu Bát Quan, Tham Thiền, Niệm Phật,… Từ những Đêm Đầu Đà rằm tháng Giêng, rằm tháng Tư đến Nhiễu Phật ba vòng trong lễ Dâng Y Kathina. Từ những lễ Để Bát Hội đến nghi thức Trai Tăng trong các đại lễ. Và, trong nghi thức Cầu An, Cầu Siêu, và Trai Tăng phải có dâng Tứ Vật Dụng đến Chư Tăng. Xin hỏi, tất cả những thiện sự, thiện pháp đó Đức Phật Thích Ca có dạy, có khuyến khích, và có bài kinh nào trong Tam Tạng Kinh Điển dạy rỏ về những việc trên không, thưa Bạn?
"Vậy tại sao ngày hôm nay trong giới Phật giáo chúng ta tổ chức lễ phóng sanh?
Thì phải nói là lễ phóng sanh hay phước phóng sanh này bắt nguồn từ bên Trung Hoa, theo truyền thống Phật giáo Bắc Tông. Người ta khuyến khích tất cả người ở thế gian trong đó có các Phật tử Bắc Tông, tổ chức làm phước bằng phương tiện này, bằng phương tiện kia, để tổ chức phóng sanh. Mục đích và động cơ để thực hiện lễ phóng sanh hay nghi thức phóng sanh ngày xưa, là đối với những nhà tu hành khi thấy một chúng sanh bị giam cầm, nhất là những loài thú, rất là đau khổ, mà loài thú bị giam cầm ngoài vấn đề đau khổ theo thông thường của chúng sanh bị tù hãm giam giữ, còn bị giết hại mất mạng v.v... Chính vì đó mà những bậc thiện nhân ngày xưa thấy tội nghiệp, thấy thương, do đó không phải là tự mình phóng sanh để giúp đỡ chúng sanh thóat khỏi sự giam hãm, thoát khỏi tù đày, thoát khỏi sự giết hại đó, và từ đó về sau đương nhiên qúi Sư, hay Thầy, hay Sư Cô khuyến khích thì các Phật tử hành theo."
Câu hỏi thứ hai:
Hình cột rồng quấn trong chánh điện, rồng nằm hai bên tam cấp dẫn lên chánh điện, nhang, trầm, đèn cầy, chân đèn, lư hương, bàn thờ vong linh, đại hồng chung, chuông, trống, mỏ, khánh, thường sử dụng trong chùa bắt nguồn từ đâu vậy, thưa Bạn?
"Mục đích và động cơ để thực hiện lễ phóng sanh hay nghi thức phóng sanh ngày xưa, là đối với những nhà tu hành khi thấy một chúng sanh bị giam cầm, nhất là những loài thú, rất là đau khổ, mà loài thú bị giam cầm ngoài vấn đề đau khổ theo thông thường của chúng sanh bị tù hãm giam giữ, còn bị giết hại mất mạng v.v... Chính vì đó mà những bậc thiện nhân ngày xưa thấy tội nghiệp, thấy thương, do đó không phải là tự mình phóng sanh để giúp đỡ chúng sanh thóat khỏi sự giam hãm, thoát khỏi tù đày, thoát khỏi sự giết hại đó, và từ đó về sau đương nhiên qúi Sư, hay Thầy, hay Sư Cô khuyến khích thì các Phật tử hành theo.
Điều đó, nếu đánh giá theo Phật giáo, thì đó là một loại phước. Thì việc nào thuộc về phước chúng ta cũng khuyến khích, cũng tán thán. Nhưng đối với Phật giáo, Đức Phật dạy các loại phước chúng ta làm, phước nào ra phước nấy, đủ loại phước mà chúng ta phải xác định là thuộc loại phước gì, mục đích để làm chi v.v...
Thì đối với Phật giáo, việc phóng sanh Đức Phật không phải là khuyến khích theo nghĩa một pháp hành giống như bây giờ. Mà là khuyến khích hay khích lệ, Đức Phật chỉ dạy chúng ta phải giữ giới, chứ không phải dạy chúng ta phóng sanh. Bởi nếu phóng sanh thì chỉ phóng sanh có một lần thôi, và người học phóng sanh chỉ được một lần đó mà thôi, nhưng cả đời của họ về sau có thể trong hoàn cảnh nào họ sát sanh hại vật, tạo rất nhiều tội lỗi và khó vượt qua được điều đó."
Câu hỏi thứ ba:
Suy nghĩ, nói và làm theo một điều học thì gọi là hành. Như vậy, nếu người ngày này phóng sanh theo đúng mục đích (trong những trường hợp) phóng sanh của những bậc thiện nhân ngày xưa, như vậy là pháp học hay là pháp hành, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ tư:
Một đoạn kinh trong bài kinh số 55. Kinh Jìvaka, Trung Bộ Kinh, Webmaster binhanson.com
“Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: "Hãy đi và dắt con thú này đến", đó là nguyên nhân thứ nhứt, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy, khi bị dắt đi, vì bị kéo lôi nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói: "Hãy đi và giết con thú này", đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ khổ ưu, đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.”
Bổn phận căn bản của người tại gia cư sĩ là Bố Thí -Trì Giới - Tham Thiền. Theo đoạn kinh trên, tôi hiểu việc làm phóng sanh là cho sức khỏe (lại cho một chúng sanh đang đói khát, bịnh tật, thương tích, trong lúc bị giam cẩm), là cho tự do (lại cho một chúng sanh đang sợ hãi, đau đớn, kinh khiếp, bó buộc vì bị giam cầm), là cho sanh mạng (lại cho một chúng hữu tình, hữu giác đang cận kề sự chết).. Như vậy, có thể nào xếp phóng sanh vào pháp hành Bố Thí không, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ năm:
Đoạn kinh trong bài kinh 45. Tiểu Kinh Pháp Hành- Cùladhammasamàdàna Trung Bộ Kinh. Webmaster: binhanson.com
"-- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại pháp hành này. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, và tương lai quả báo cũng lạc."
Như vậy, nếu người ngày nay học phóng sanh từ những bậc thiện nhân ngày xưa để (hiện tại) hành việc phóng sanh, pháp hành này thuộc loại pháp hành nào trong bốn loại pháp hành mà Đức Phật dạy, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ sáu:
Có một chuyện kể Phật Giáo, được lập đi lập lại, về một người giết một con dê. Người này chỉ giết một con dê thôi, mà phải đọa vào địa ngục, sau đó phải tiếp tục trả quả, dù mang thân người hay thân súc sanh, người ấy đều bị chết, bằng cách bị giết, suốt 500 kiếp (cho bằng số lông trên mình con dê). Như vậy, nếu như- chỉ một lần thôi - tôi phóng sanh một con chim, tôi có thể hóa sanh nhàn cảnh, sau đó nhiều đời, nhiều kiếp, dù mang thân người hay thân súc sanh, tôi có cơ hội được “tha chết”, hay được “cứu tử” nhiều lần (bằng với số lông trên mình con chim), phải vậy không, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ bảy:
Lời Phật dạy: “Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống của các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình”. Như vậy, người ngày nay học mục đích của những bậc thiện nhân ngày xưa … “thấy tội nghiệp, thấy thương” chúng sanh bị giam cầm mà phóng sanh. Phóng sanh với mục đích như vậy là có cả hai - phước và giữ giới - phải không, thưa Bạn?
"Đức Phật dạy giữ giới, bản thân chúng ta giữ giới là khuyến khích những người khác cùng giữ giới theo. Thì coi như một chúng sanh giữ giới, nguyện trọn đời giữ giới sát sanh, không sát hại sinh vật nữa, thì người đó không phải là phóng sanh có một cái mạng đó trong một đợt đó mà thôi, mà có thể phóng sanh luôn suốt cả đời suốt cả kiếp. Có thể đời này và có những đời sau. Mà không phải chỉ có một chúng sanh đó, tức là một người tu đó, không sát sanh mà họ còn khuyến khích nếu được hai người, được ba người, bốn năm người. Thì chúng ta có thể nói phóng sanh không phải là một lần giống như bây giờ qúi vị đã làm, mà có thể phóng sanh nhiều lần, có thể phóng sanh trọn đời trọn kiếp. Hay nói một cách khác là chúng ta phóng sanh luôn chứ không phải là mỗi đời mỗi kiếp như chúng ta làm phóng sanh giống như bây giờ."
Thiển ý của tôi:
Ngày nay nghề nghiệp nuôi mạng của con người bằng cách buôn bán thú vật rất là nhiều. Thú vật bị tước đoạt mạng sống cũng dưới nhiều hình thức. Người bán thú còn sống từ chuồng trại, người làm nghề đồ tể giết thịt, người đặt thịt sống từ lò để buôn sỉ, người đặt hàng từ người buôn sỉ đem về bán lẻ, người đặt hàng từ nguồn bán sỉ hay bán lẻ để làm thực phẩm, rồi đem bán nơi các tiệm thực phẩm, chợ, quán vĩa hè, nhà hàng … Tất cả những người ấy không may mắn được hiểu biết – theo Phật dạy - đó là Tà Mạng. Họ “đặt hàng” bao nhiêu là có chúng sanh “bị tước đoạt mạng sống bấy nhiêu”. Như vậy, người ngày nay nếu như thương mình, thương vật, có TÁC Ý PHÓNG SANH, thì hãy phóng sanh theo tinh thần chư Phật dạy: Không làm điều ác. Làm những điều lành. Giữ tâm ý trong sạch.
1- Không làm điều ác: thì người hãy tâm niệm về Giới và có Tác Ý Tránh Xa Sự Sát Sanh.
2- Làm điều lành: thì người hãy tâm niệm về Từ Bi, thương xót chúng sanh bị giam cầm, bị giết, hãy Tác Ý Độ Sinh, Hãy Phóng Sanh và khuyên người khác vừa Giữ Giới, vừa Phóng Sanh (y theo tác ý thiện lành của người vậy)
3- Giữ tâm ý trong sạch: thì khi phóng sanh, người hãy ghi nhớ ba điều: “Không Thấy, Không Nghe, Không Nghi” những thú vật mà người sắp phóng sanh đó, đã vì (hành động Thân - Khẩu- Ý phóng sanh của) người mà bị giăng lưới, đặt bẫy, trói bắt, giam cầm, …. Và dĩ nhiên, người hãy tránh “đặt hàng”, tránh bất cứ nơi nào có “nuôi thú vật cho người phóng sanh đến mua”.
"Đó là lý do chánh, Đức Phật không khuyến khích phóng sanh theo nghĩa trở thành một pháp hành, mà phóng sanh đó thuộc về một thiện pháp. Là thiện pháp thì tùy duyên lúc nào chúng ta làm được thì làm, chứ không phải là pháp hành để tu tập. Pháp hành để tu tập chính là pháp hành giữ giới, đó là phước báu rất lớn. Bởi vì nếu phóng sanh, có thể nói một tháng chúng ta phóng sanh có một ngày, nhưng giữ giới thì chúng ta giữ giới luôn cả một tháng, thậm chí có thể cả trọn đời."
Câu hỏi thứ tám:
Lời Đức Phật dạy cư sĩ tại gia rất nhiều, nhưng gom lại, để gọi là bổn phận của người tại gia cư sĩ, thì có ba: Bố Thí- Trì Giới – Tham Thiền. Như vậy, bố thí là thiện pháp và cũng là pháp hành của người tại gia cư sĩ phải không, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ chín:
Lời Phật dạy bậc xuất gia cũng rất nhiều, nhưng gom lại để gọi là bổn phận của bậc xuất gia thì có ba: Giới - Định - Tuệ. Như vậy, mặc dù Giới - Định - Tuệ là Tam Học, nhưng cũng là Tam Hành phải không, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ mười:
Theo vài đoạn kinh trong bài kinh 57. Kinh Hạnh Con Chó – Kukkuravatika Sutta. Trung Bộ Kinh. Webmaster binhanson.com
“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Koliya Haliddavasana là tên một thị trấn của dân chúng Koliya.
Rồi Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, nói lời hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên, ngồi chõ hỏ như con chó. Sau khi ngồi một bên, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng xuống đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?
-- Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng dưới đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?
-- Này Punna, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa". Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông. Ở đây, này Punna, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con chó một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các loài chó. Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: "Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên khác", thời này Punna, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Punna, nếu hạnh con chó được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
………
Khi được nói vậy, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, khóc than, chảy nước mắt. Rồi Thế Tôn nói với lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó:
-- Này Seniya, Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thồi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa".
-- Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy không phải vì lời Thế Tôn nói về con. Nhưng vì, bạch Thế Tôn, con đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài. Bạch Thế Tôn, con có lòng tin tưởng đối với Thế Tôn: Thế Tôn có thể thuyết pháp cho con để con có thể từ bỏ hạnh con bò này và để lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, có thể bỏ hạnh con chó này.
-- Này Punna, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Punna Koliyaputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Này Punna có bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là bốn? Này Punna, có nghiệp đen đưa đến quả báo đen, này Punna, có nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, này Punna, có nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng, này Punna, có nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp.
Và này Punna, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen? Ở đây, này Punna có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ thọ, như các chúng sanh trong địa ngục. Như vậy, này Punna, là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình, và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích mình. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp đen đưa đến quả báo đen.
Và này Punna, thế nào là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng? Ở đây, này Punna, có người làm thân hành không không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không không có tổn hại. Sau khi làm thân hành không không có tổn hại, khẩu hành không không có tổn hại, ý hành không không có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới không không có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới không không có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ không không có tổn hại, thuần nhất lạc thọ, như chư Thiên Subhakinha (Biến Tịnh thiên). Như vậy này Punna là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng.
Và này Punna, thế nào là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng? Ở đây, này Punna, có người làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, các khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, các ý hành có tổn hại và không tổn hại. Sau khi làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, ý hành có tổn hại và không tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, có lạc thọ khổ thọ xen lẫn, như một số loài Người, một số chư Thiên và một số chúng sanh trong đọa xứ. Như vậy, này Punna là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy này Punna, được gọi là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng.
Và này Punna, thế nào là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này Punna chỗ nào có ý chí (Cetana: Tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng. Ở đây, này Punna, chỗ nào có ý chí như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp. Này Punna, bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết.” …..
Như vậy, nếu tôi thực hiện phóng sanh như một thiện sự, Tác ý như một hạnh của Người Giữ Giới Không Sát Sanh, tác ý như người chuyên tâm tạo thiện nghiệp từ phóng sanh. Tôi tác ý hành trì hạnh phóng sanh một cách hoàn toàn viên mãn, tác ý hành trì giới không sát sanh và tích cực phóng sanh một cách hoàn toàn viên mãn, tác ý hành trì tâm từ bi, thương xót loài vật (hoàn cảnh giam cầm của những loài vật mà tôi phóng sanh, mong chúng sống tự do, mong chúng thoát chết) một cách hoàn toàn viên mãn, tác ý hành trì phương cách phóng sanh (tránh những nơi cố ý nuôi cho người mua về phóng sanh) một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung, tôi sẽ sanh về đường Người và sẽ được trường thọ, thiểu tật, thiểu bịnh, phải không, thưa Bạn? Và, Nghiệp Phóng Sanh (với tác ý và thực hiện một cách hoàn toàn viên mãn) như vậy là Nghiệp Trắng, phải không, thưa Bạn?
"Nếu so sánh cả hai loại phước này, phước phóng sanh chúng ta chỉ làm được trong một lúc đó mà thôi, phước đó rất là nhỏ bé, chỉ có một tiếng đồng hồ, hay nửa tiếng, hay trong giây phút nào chúng ta quyết định để thực hiện việc phóng sanh đó. Nhưng việc giữ giới khi chúng ta phát nguyện rồi, phước giữ giới đó không có nghĩa là một lần đó chúng ta có, mà có thể là nguyện giữ giới trong trọn ngày đó chúng ta sẽ được hưởng phước giữ giới trọn ngày đó. Và không phải chỉ trọn ngày đó mà có thể chúng ta đã nguyện giữ giới như năm giới, nguyện trọn đời, là phước chúng ta sẽ có trọn đời. Trừ ra khi nào bị đứt thì khi đó chúng ta thọ giới lại. Nói chung thì phước giới chúng ta sẽ có một cách liên tục cả ngày cả tháng cả năm cả đời cả kiếp, thì phước báu này nếu so sánh giữa hai loại phước thì phước phóng sanh này chỉ tích tắc mà thôi."
Câu hỏi thứ mười một:
Tác Ý Tạo Nghiệp. Theo tiến trình tâm, nếu thực hiện một hành động (thiện hay bất thiện) trước hoặc trong 7 sátna đầu thì, quả trổ ngay trong kiếp sống hiện tại này (và tiếp tục trổ quả trong nhiều kiếp sống tới); hoặc tùy theo những sátna kế tiếp mà trả quả dị thục trong những kiếp sống tới (kiếp này quả chưa trổ). Như vậy, khi tôi vừa trông thấy một lồng chim, chỉ tích tắc, tôi mua và thả chim ngay (trong vòng 7 sátna đầu). Quả lành này sẽ trổ đến cho tôi ngay đời sống hiện tại (nếu có bị kiện cáo cũng thoát khỏi cảnh bị tù tội, khi có bịnh thì gặp thầy giỏi thuốc hay, khi gặp nạn tai thì có người trợ giúp cho tai qua nạn khỏi, suýt chết đuối thì có người cứu, … ) và quả này sẽ còn trổ thù thắng cho tôi trong nhiều đời, nhiều kiếp luân hồi (thêm mạnh khỏe và trường thọ nữa) phải không, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ mười hai:
Cho dù tôi cần thời gian để thực hiện một chương trình, một kế hoạch phóng sanh có dự tính trước, nhưng trong suốt thời gian đó, tôi thực hiện tác ý đầu tiên là NHỨT ĐỊNH PHÓNG SANH. Như vậy, cho dù thời gian để chuẩn bị là một ngày, một tuần, hay một tháng đi nữa, thì quả phước phóng sanh đó sẽ trổ quả đến cho tôi ngay trong kiếp sống này và cho quả lâu dài trong nhiều kiếp sống tới, phải không, thưa Bạn?
"Nếu so sánh về kết quả về sau lại khác nữa. Người làm phước phóng sanh chưa chắc chết được sanh lên thiên đàng, chưa chắc chết mà vượt khỏi địa ngục, bởi phước đó chỉ làm trong một giây khắc ngắn ngủi, nó không đủ sức hộ trì giữ được cho người này còn tái sanh lại làm người, hay được phước sanh thiên, hay giữ người đó không tái sanh sa đoạ địa ngục."
Câu hỏi thứ mười ba:
Một chuyện tích Phật Giáo, mà chư tăng Nguyên Thủy thường kể, là tiền thân Đức Phật Thích Ca khi còn là Bồ Tát, Ngài đã hy sinh thân mình cứu mạng một bầy cọp. Kiếp đó Bồ Tát là mộtThái Tử. Một lần dạo chơi trong rừng, thấy một con cọp mẹ và một bầy cọp con đang đói lã, gầy gò, sắp chết dưới một vực sâu, Thái Tử quyết định dùng thịt của chính mình để cứu sống bầy cọp. Từ trên cao, Ngài phóng mình xuống trước mặt bầy cọp. Bầy cọp rón rén liếm lấy dòng máu của Ngài đang loang trên mặt đất, nhưng không dám vồ lấy thân Thái Tử. Nghĩ rằng cọp mẹ đuối sức không thể vồ giết Ngài, Thái Tử dùng cành cây tự cứa cổ mình đến tắt thở. Bấy giờ bầy cọp mới dám ăn thịt của Ngài. Thái Tử thọ hưởng quả lành này nhiều đời nhiều kiếp nơi nhàn cảnh. Như vậy, hành động bố thí sanh mạng của vị Thái Tử này, để cứu mạng bầy cọp là hành động phóng sanh phải không, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ mười bốn:
Một câu chuyện Phật Giáo:
Có một chiếc thuyền sắp chìm xuống biển khơi. Mọi người trên thuyền hốt hoảng, kẻ thì cầu nguyện, người thì la khóc. Có một người thiện nam đã quy y Tam Bảo và thọ trì Ngũ Giới. Người ấy lên tiếng kếu gọi tất cả hãy bình tĩnh. Người ấy nói về phước báu của Tam Quy và Ngũ Giới và khuyên mọi người hãy phát nguyện thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới, hướng tâm nương tựa vào Tam Bảo trong lúc cận kề cái chết, chớ nên hoảng sợ nữa. Người này chia mọi người thành từng nhóm và lần lượt truyền Tam Quy Ngũ Giới đến họ. Cho đến khi nhóm người cuối cùng vừa thọ Quy Giới xong thì con thuyền cũng vừa chìm xuống mặt nước. Tất cả thác sanh về cảnh giới chư thiên. Như vậy, hành động truyền quy giới của người thiện nam kia là phóng sanh, người này đã phóng sanh tất cả nạn nhân kia về trời, đã phóng sanh họ nhiều đời, nhiều kiếp phải không, thưa Bạn?
"Phước giữ giới ngăn được bốn đường ác đạo, có thể ngăn chặn người ta không đọa địa ngục, ngạ qủi, súc sanh, atula, mà có khả năng giúp cho người ta được sanh về thiên giới. Do đó cổ đức người ta có nói câu "Ngũ giới bất tri nhân thiên lộ triệt", tức là năm giới mà không giữ thì đường người đường trời bị đóng rồi, mà đường người đường trời bị đóng tức là chúng ta phạm giới thì đương nhiên bốn đường ác đạo, đường địa ngục, đường ngã quỉ đường súc sanh, atula chúng ta sẽ bị đoạ vào.
Do đó phước phóng sanh có thể kể thuộc loại bố thí, thuộc về bố thí mạng sống. Phước phóng sanh này không phải tự nhiên làm được, chúng ta phải bỏ tiền bỏ của mua các loài thú rồi thả chúng ra, phước này muốn làm thì đòi hỏi phải có tiền của, chúng ta không thể nào có đủ tiền mua hết tất cả chúng sanh trên thế gian để phóng sanh để chúng sanh được toàn mạng. Khi được phóng sanh rồi thì có thể chúng sanh đó còn nghiệp báo của cái sát sanh của nó phải trả, có thể vừa phóng sanh nó ra rồi có những loài thú còn cái nghiệp phải trả thì chúng sanh khác nhảy vô sẽ bắt nó giam hãm, có thể giết hại nó, hay có thể bán tiếp tục."
Câu hỏi thứ mười lăm:
Mạng sống là quý nhất đối với mọi loài hữu tình. Sanh Tử là trọng đại. Như vậy, tiến trình việc thực hiện phóng sanh càng khó khăn bao nhiêu thì (sau khi thực hiện rồi) phước báu càng tăng trưởng (gấp nhiều lần hơn) cho người phóng sanh phải không, thưa Bạn?
Câu hỏi thứ mười sáu:
Lập lại câu hỏi thứ bảy: “Lời Đức Phật dạy cư sĩ tại gia rất nhiều, nhưng gom lại, để gọi là bổn phận của người tại gia cư sĩ, thì có ba: Bố Thí- Trì Giới – Tham Thiền. Như vậy, bố thí là thiện pháp và cũng là pháp hành của người tại gia cư sĩ phải không, thưa Anh?”. Như vậy, phóng sanh là bố thí, và bố thí là pháp hành, và phóng sanh là pháp hành phải không, thưa Bạn?
"Do đó một số người trí thức ở đời thấy điểm này sẽ phê phán: phóng sanh là tiếp tay cho người làm việc ác bất thiện. Hỏi tại sao người ta nói vậy? Bởi vì người ta nói mình mua chim rồi thả, thì nhóm nuôi chim sẽ đi bắt lại và bán lại cho người ta. Như vậy có khác nào chúng ta phóng sanh càng nhiều là chúng ta khuyến khích người đó tiếp tục bắt cho nhiều chúng sanh để bán. Bởi vì có CẦU thì đương nhiên phải có CUNG. Và chính vì đó mà thấy có nhiều điểm bất thiện, những điểm không tốt trong việc mua bán chúng sanh để phóng sanh như thế này, thành ra một số bậc trí thức phê phán chỉ trích, khuyên không nên mua theo kiểu dặn hay đặt hàng, và nhất là làm thành một cái lễ thì coi như điều đó chúng ta khuyến khích nhau, và người ta tham gia vào nghiệp bắt giữ những chúng sanh để đem bán cho chúng ta. Ở Việt Nam, chúng ta nghe có một số người nuôi thú chuyên nghiệp, chẳng hạn như loài chim chóc chẳng hạn, người ta thả nó ra rồi nó bay trở về tổ của người nuôi, và người ta bắt đem bán lại. Điều này không biết quí vị có từng nghe không? ở bên Thái Lan chúng tôi cũng nghe, về những người nuôi loài chim, họ dùng một loại ma túy pha loãng cho uống hàng ngày quen, thành ra nó có bay đi đâu cũng trở về chỗ đó, khi người ta thả rồi nó bay đã rồi cũng trở về chỗ đó ăn, đó là chim. Còn loài cá cũng vậy, họ cho ăn cũng trộn với ma túy, thả xuống sông vùng chuyên môn phóng sanh, hễ thả xuống chỗ đó nó bơi một hồi rồi cũng trở lại chỗ đó, giống như người ta nuôi là chúng sanh để cho phóng sanh. Thành ra điều này người ta thấy người ta phê phán cũng có lý."
Câu hỏi thứ mười bảy:
Học tập về phóng sanh mà “có người thả thì mới có người bắt, có người thả thì mới có người nuôi”, tôi thấy từa tựa như quan niệm ăn thịt cá (mà không giết) thì “có người ăn thì mới có người giết”. Chữ CẦU chữ CUNG áp dụng cho quan niệm phóng sanh này cũng từa tựa chữ CẦU chữ CUNG áp dụng vào quan niệm ăn chay, ăn mặn vậy.
Tôi phóng sanh và tôi chỉ lấy chúng sanh trước mặt làm Đối Tượng khởi Tác Ý (của tôi). Tôi phóng sanh một bầy chim thì bầy chim là đối tượng phóng sanh trước mắt của tôi. Âm thanh tiếng chiêm chiếp và đập cánh hoảng loạn của chúng in vào nhĩ thức của tôi khiến tôi xót xa. Tôi cảm nhận nỗi lo sợ của chúng. Khi mở lồng thả chúng ra, tôi hoan hỷ nhìn chúng vỗ cánh bay. Tôi giữ niềm hoan hỷ đó. Mỗi lúc kể lại cho ai nghe về lần phóng sanh ấy, tâm tôi đều hoan hỷ. Mỗi khi nhớ lại lần phóng sanh ấy, tâm tôi đểu hoan hỷ. Tôi hoan hỷ trước trong và sau khi phóng sanh. Nghề Tà Mạng- buôn bán thú vật- của những ai kia tôi không tác ý đến. Như vậy, tôi có là người khuyến khích, là người tiếp tay với người có tác ý bất thiện (nuôi con vật cho người mua và phóng sanh) hay không, thưa Bạn?
"Nếu chúng ta muốn thực hiện phóng sanh thì lúc nào rảnh rỗi, lúc năm khi mười hoạ, chúng ta thực hành, thì điều đó có lẽ nó không dính dáng gì tới điều này, nhưng mà tổ chức và khuyến khích theo nghĩa trở thành một phong trào thì coi chừng nó sẽ có cái tác hại, người ta lên tiếng phê phán. Qúi vị lên mạng internet xem, không phải ai cũng tán đồng việc phóng sanh của chúng ta, mà người ta còn phê phán điều đó. Mà cách phóng sanh này người ta phê phán, nếu nói rằng Đức Phật dạy thì coi chừng người ta phê phán Đức Phật là sai, Đức Phật không có dạy điều này, Đức Phật dạy chúng ta hành thiện, làm những thiện sự, chứ không dạy chúng ta phóng sanh. Đức Phật dạy chúng ta giữ giới là cấm sát sanh cho bản thân chúng ta, nếu chúng ta giữ được điều đó thì có thể nói là chúng ta đã phóng sanh trọn đời cho tất cả chúng sanh này, chúng ta không còn giết hại nó nữa. Hai nữa là chúng ta khuyến khích thành phong trào giữ giới, một người, hai người, ba người, bốn người năm người, thì việc này không có bậc trí thức nào phê phán chúng ta cả, mà không phê phán chúng ta tức là không phê phán về Đức Phật."
Tôi xin kể một câu chuyện:
Có một nhóm người Việt Nam, ở Houston, Hoa Kỳ chuyên tâm phóng sanh loài vật ở biển. Hàng mỗi cuối tuần, họ ra vùng biển Galveston, cách đó hơn một tiếng lái xe, tìm đến những cửa hàng, bến tàu, để mua tôm, cua, cá trong phạm vi số tiền họ có được ngày hôm ấy. Họ mang tôm cá ấy ra bờ biển, và nhẹ tay đặt chúng xuống nước, hoan hỷ nhìn chúng quảy đuôi, búng mình, bò nhanh về với biển cả bao la. Họ gửi theo chúng lời chúc phúc. Tác ý của nhóm người này, ngoài tâm từ bi, còn là để tạo phước đức hổ trợ cho việc tu tập Tham Thiền và Niệm Phật của họ. Đồng thời họ cầu phước, chú nguyện phước báu phóng sanh cho vài thành viên trong nhóm đang có những căn bịnh lạ, mà chạy thầy, chạy thuốc đều không khỏi. Vậy mà sau một thời gian phóng sanh, những bịnh ấy từ từ thuyên giảm, có người hoàn toàn lành bịnh. Tôi được biết, họ bắt đầu công việc này từ khoảng trước năm 2008. Thành viên của họ tăng lên, trong đó có người Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, …
"Do đó nếu so sánh về phước thì chúng ta thấy về phước phóng sanh này sẽ được phước gì?
Trước hết động cơ phóng sanh là do lòng từ bi, thì chúng ta kể đó là phước đức. Phước từ bi tội nghiệp thương chúng sanh, do phước này nhân này, đời sau chúng ta sanh ra nếu bị giam hãm bị cầm tù thì có những người thương và tội nghiệp chúng ta. Chúng ta thả chúng sanh này thì nhân nào quả nấy, chúng ta giả xử sanh làm loài thú thì nhân nào quả nấy, chúng ta chỉ hưởng được quả sẽ có những người giải thoát chúng ta khỏi sự giam cầm, khỏi tù tội, đó là chúng ta nói về nhân quả theo thông thường. Chúng ta chỉ thấy được có tới đây thôi, đó là điểm chính."
Thiển ý của tôi:
Một hạt lúa giống gieo trồng sẽ trổ nên một cây lúa. Một cây lúa sẽ cho nhiều hạt lúa. Mỗi hạt lúa (trên cây) ôm trong lòng nhân sanh cây lúa mới. Có một lần tôi được một người bạn cho một bụi nhỏ rau ngò gai. Tôi trồng bụi rau xuống đất. Vì ít quá nên tôi không hái rau để ăn, mà cố tình để gây giống. Bụi rau trổ hoa rồi hạt rụng. Sang năm, tôi có một đám lớn rau ngò gai xanh ngăn ngắt. Có bao giờ một hột chỉ cho một trái (hay một nhân sanh một quả), còn nhiều “quả” trổ sanh liên quan đến nhân ấy lắm! Ví dụ, một hạt bắp trổ thành một thân cây bắp, cho dù thân cây bắp chỉ cho ra 1 hoặc 2 trái bắp, bản thân một trái bắp đang mang (dính theo mình) bao nhiêu là “nhân sanh cây bắp”…
Câu hỏi thứ mười tám:
“Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Có những đặc ân giảm án cho những tù nhân mang bản án tù chung thân, hay lãnh án tử hình. Nhân nào đã trổ quả đến cho những người được giảm án tù chung thân, những người tưởng chừng phòng giam cũng sẽ là huyệt lạnh! Nhân nào đã trổ quả đến cho những người được giảm án tử hình, những người thắt tim chờ tiếng cửa sắt khua vang, lạnh lùng, trong phòng giam mỗi buổi sáng sớm! Nhân nào trổ quả cho những người phạm tội –đáng ra phải ngồi tù- lại chỉ lãnh án tù treo! Nhân nào trổ quả cho những người phạm tội – lý khó dung, tình thông nạp- được tuyên bố trắng án! Như vậy, chỉ một Tích Tắc của Tác Ý và thực hiện phóng sanh một lần thôi, có thể nào quả phát sanh đến cho những người phạm tội, hay những tù nhân, mà tôi vừa ví dụ không, thưa Bạn?
"Nhưng phước giữ giới là khác, phước giữ giới này nếu chúng ta phát triển thấp thì cũng là phước từ bi, từ bi này khác. Từ bi kia là tội nghiệp chúng sanh bị giam hãm cầm tù. Nhưng từ bi này là tội nghiệp chúng sanh bị sát hại, bị mình giết hại trong hiện tại và bị người khác giết hại trong hiện tại ,hoặc là kể cả tương lai, thành ra mình nguyện như thế này là có thể mình chấm dứt sự sát sanh trong tương lai cũng dựa trên lòng từ bi, giữ giới cũng là lòng từ bi. Nó khác nhau ở chỗ là phóng sanh chúng ta phải phải tiền dùng tài sản của mới thực hiện được phước đó. Còn đối với phước giữ giới thì chúng ta không cần tốn tiền tốn bạc chúng ta giữ được điều này, đó là nói theo thông thường giữ giới, phước giữ giới. So sánh giữa hai cái phước về sanh thiên, phước phóng sanh thì năm khi mười hoạ lúc nào phước mà tới bất chợt bởi chúng ta làm mong manh trong cả một đời sống chúng ta không biết làm được bao nhiêu lần, thành ra phước này bấp bênh không đủ sức giải quyết trong lúc chúng ta cận tử hấp hối lâm chung để nó có thể chận bốn đường ác đạo hay có thể giúp chúng ta sanh lên thiên giới. Do đó phước này nói một cách khác hơn, đôi khi chúng ta có phước này nhưng phước này không đủ sức để chúng ta sanh lại làm người hay không đủ sức sanh làm chư thiên, mà chúng ta bị một nghiệp ác khác, phước này không đủ sức chận nghiệp ác thì nghiệp ác kéo chúng ta sanh vào cõi thú chẳng hạn, thì chết sanh làm cõi thú chúng ta trả nghiệp ác đó, nhưng nếu chúng ta bị chúng sanh bắt bớ giam hãm cầm tù ăn thịt hay hãm hại, thì lúc bấy giờ phước phóng sanh mới giúp cho chúng ta, thì người ta mới thả chúng ta giống như chúng ta đang thả chúng sanh vậy thôi. Nhưng riêng phước giữ giới thì khác, khi chúng ta giữ giới như thế này thì phải nói là nó đủ sức chận ngang tất cả những nghiệp ác nào, tất cả những nghiệp bất thiện nào mà nó có thể khiến chúng ta đoạ bốn đường ác đạo, cái phước giữ giới mà nó mạnh như thế đó, phước giữ giới còn giúp cho chúng ta có thể sanh được về các cõi trời."
Tôi xin kể một câu chuyện có thật: Đại ý là chính, tình tiết là phụ.
Trước năm 1972, có một gia đình có con trai ngoài mặt trận. Một ngày, gia đình nhận tin người con tử trận (không tìm thấy xác). Đến chùa xin lễ cầu siêu, Ngài trụ trì cười nói với gia đình: Cầu an. Nó chưa có chết. Có niềm thành kính với Ngài, cho nên mọi người chờ đợi. Mấy năm sau 1975, người con trai đột ngột xuất hiện nơi ngưỡng cửa nhà. Anh kể: Trước ngày anh ra trận, anh có lên chùa xin quy y với Ngài Hòa Thượng. Ngài đã truyền Tam Quy và Ngũ Giới cho anh (theo hệ phái Theravada). Khi lâm trận nơi chiến trường, anh luôn tâm niệm “mình là người có giới”. Một lần, trông thấy một đối phương lấp ló (người đó không nhìn thấy anh), anh giơ súng lên, nhưng hạ xuống vì “tâm anh có giới”. Chiến trận ác liệt. Bom dội tứ phương. Anh cùng đồng đội vùng chạy. Mỗi khi đuối sức gục xuống thì có một lực vô hình dựng anh lên, đôi chân anh chạy như lướt trên mặt đất. Đến một ngã rẻ, đồng đội anh quẹo (bên trái), anh vừa định quẹo theo thì lực vô hình kia hất anh về bên phải. Vừa quẹo qua phải thì chân anh như vướng vào vât gì cao tới đầu gối, khiến anh té sấp người xuống đất. Vừa khi đó “Ầm”, anh còn kịp nhìn thấy xác đồng đội văng lên phía sau lưng. Anh nhìn quanh chổ anh té xuống. Không một gốc cây to. Không một bụi đất cao. Dưới chân anh chỉ là cát đá, mà hòn đá to nhất cũng chỉ bằng ngón chân mà thôi. Anh lại chạy. Lực vô hình ấy nâng đôi chân anh. Anh cứ chạy. Té xuống. Vực lên. Anh chạy tuốt qua vùng đất đối phương (mà không hay) nên anh bị bắt… Ngài Hòa Thượng dạy: Quả phước (toàn sanh mạng, thoát ngục tù, được trả tự do, và về sum họp với gia đình) này do giữ giới và do tác ý phóng sanh (tha một mạng người) của anh trong chiến trường!
Câu hỏi thứ mười chín:
Theo bài kinh số 27. Kinh Khởi Thế Nhân Bổn. Trường Bộ Kinh. Webmaster: binhanson.com
"10. Này Vàsettha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển hoại. Trong khi thế giới chuyển hoại, các loại hữu tình phần lớn sanh qua cõi Abhassara (Quang Âm thiên). Ở tại đây, những loại chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài. Này Vàsettha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển thành. Trong khi thế giới này chuyển thành, một số lớn chúng sanh từ Quang Âm thiên thác sanh qua tại đây. Những chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy một thời gia khá dài.
Tóm tắt: Thế giới chuyển hoại là do lửa, xuất phát từ sức nóng của 7 mặt trời, hạn hán, khô cạn, rồi phát cháy. Lửa cháy đến cõi Quang Âm Thiên thì dừng lại và tắt đi. Chúng sanh phần lớn được sanh qua cõi Quang Âm Thiên đó là nhờ tu tập Tứ Vô Lượng Tâm (Từ-Bi-Hỷ-Xả), và họ trở thành những chúng sanh hữu tình đầu tiên của một thế giới mới." Như vậy, Từ Bi của Tứ Vô Lượng Tâm là từ bi gì - giữa từ bi của phóng sanh và từ bi của giữ giới, - lại khiến người tu tập Từ Bi được thọ quả lành tái sanh lên Quang Âm Thiên- thưa Bạn?
"Nói đặc biệt đây là chúng ta nói giữ giới theo nghĩa giữ giới để kiếm phước, chứ chưa phải giữ giới theo nghĩa đoạn trừ phiền não, giữ giới cao cấp hơn. Giữ giới theo cấp đoạn trừ phiền não chúng ta có thể đắc được thiền định. Trước hết nói về công năng đắc thiền định, thiền định thì chuyện này dễ dàng, người ta nói "giới năng sanh định, định năng sanh tuệ." Nhưng đặc biệt của giới nhà Phật không phải chữ năng đắc định không đâu, giữ giới của nhà Phật có khả năng đoạn trừ phiền não và có thể đắc thành quả thánh Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, Alahán. Do đó Đức Phật mới khuyến khích chúng ta giữ giới, chẳng hạn giới không sát sanh chẳng hạn, bởi chúng ta giữ giới không phải chỉ một giới không sát sanh, chúng ta còn nhiều giới khác. Nhưng ở đây chúng ta muốn nói là so sánh giữa giới không sát sanh và sự phóng sanh, hai cái khác nhau. Và hai cái phước trổ quả báo ra sao kết quả như thế nào, thì chúng ta so sánh thấy quả báo của giữ giới này trong khi giữ giới chỉ kể một giới không sát sanh mà phước thù thắng to lớn nhiều hơn đặc biệt hơn tất cả chúng sanh."
Câu hỏi thứ hai mươi:
Thiển ý của tôi:
Công năng của Giới - trong phạm vi của “Giới năng sanh Định” (dù là Thiền Định hay Thiền Minh Sát)- là (trong giai đoạn đầu) khi hành giả nhắm mắt tọa thiền, thông thường ý thức làm việc nhiều, vì lẻ ấy, hành giả thường gặp “pháp cái” là Phóng Tâm khởi lên. Khi phóng tâm, thông thường hành giả “thấy” lại những việc chính mình đã làm. Những việc làm đã qua dù thiện hay bất thiện, chất chứa trong ký ức, trong cái kho “Tưởng”, trở về với hành giả, như xem lại một bộ phim. Nếu hành giả làm nhiều bất thiện, thì tâm trạo cử, hối quá phát sanh đến hành giả, khiến thân tâm hành giả cảm thấy nóng nảy, bứt rứt, ngồi không yên, nhắm mắt không yên, phóng tâm càng phóng tâm thêm,... khó chú tâm vào đề mục tham thiền. Nếu hành giả làm nhiều thiện nghiệp thì tâm hoan hỷ, thỏa thích phát sanh; hân hoan sanh, phỉ lạc sanh, làm duyên trợ hành giả chú tâm vào đề mục và từ từ vào định (theo mức độ của chú tâm và tùy theo đề mục tham thiền). Như vậy, bố thí từ phóng sanh, thiện pháp từ phóng sanh có chất chứa vào Tưởng không, thưa Bạn?
"Và đây là lý do Đức Phật không chủ trương không thuyết giảng một đề tài một pháp nào khuyến khích làm việc phóng sanh, nhưng điều đó không có nghĩa là Đức Phật cấm làm. Đức Phật không cấm nhưng không khuyến khích. Tức là Đức Phật kể cái này là loại hành thiện, thì hành thiện này là tùy theo chúng ta muốn làm thì làm còn không làm thì điều đó không quan trọng. Không phải là chúng ta người tu hành mà không phóng sanh là chúng ta không đầy đủ phước, không đầy đủ đức để tu hành. Nói như vậy là sai, là không đúng. Bởi vì so sánh giữa hai cái, người phóng sanh và người giữ giới thì người giữ giới cao thượng, người giữ giới cả ngày cả tháng cả năm cả đời cả kiếp còn cái này phóng sanh thì lâu lâu năm mười bữa nửa tháng hay ba bốn tháng mới làm được một lần, nó không phải là cái hạnh, không phải là nguyện, không phải là pháp để tu tập, thì đó là lý do mà chúng ta thấy hai cái khác nhau. Thì trong hai cái khác nhau chúng ta đã thấy phước báu rõ ràng là phước giữ giới cao thượng qúi giá hơn. Chúng ta giữ được bản thân và khuyến khích trở thành một phong trào giữ giới thì quả thật phước báu lớn. Chúng ta đã tự mình giác ngộ và khuyến khích cho người khác giác ngộ theo trong con đường tự giác giác tha giác hành viên mãn.
Còn nếu so sánh theo một nghĩa nữa của phóng sanh, thường thường người ta phóng sanh để cầu phước. Thì nếu nói cầu phước cũng sai. Vì nếu cầu phước thì cầu phước gì? Nếu người ta cầu phước từ bi tội nghiệp chúng sanh bị giam hãm cầm tù, thì nghĩa là nếu tôi sau này có bị giam hãm cầm tù thì xin người ta thả ra, thì thấy rõ ràng nếu làm phước với mục đích này thấy uổng công mất thì giờ, chưa gì hết mà chúng ta sợ bị đoạ bị bắt bị giam cầm tù. Bởi làm sao vậy? Người phóng sanh này họ không có pháp tu, họ không có được giữ giới không có phước giữ giới. Thì đương nhiên giống như người đời không biết làm được phước gì thì thôi làm đại phước phóng sanh cho có phước này hộ trì cho chút định. Thì nếu so sánh giữa hai phước, thì phước phóng sanh người ta chỉ hiểu theo nghĩa là thả chúng sanh để nữa chúng sanh giải thoát thôi, còn nếu mà trưởng dưỡng về lòng từ bi thì trưởng dưỡng lòng từ bi này thì có lúc đó thôi. Còn giữ giới, đã giữ giới liên tục rồi thì phước từ bi chúng ta cũng là phước liên tục, tâm từ bi chúng ta liên tục."
Câu hỏi thứ hai mươi mốt:
Theo quyển Kinh Tụng – Hòa Thượng Hộ Tông. Webmaster: binhanson.com
Chư Tăng hệ phái Nguyên Thủy thường phúc chúc cho thí chủ theo hai bài kinh sau dây (chỉ xin ghi lại phần tiếng Việt):
ANUMODANĀRAMBHAGĀTHĀ
"Các con đường nước đầy đủ, nhứt là sông và rạch làm cho biển được đầy đủ, cũng như sự bố thí mà thí chủ đã làm trong lúc hiện tại đây, Cầu xin cho đặng kết quả đến những người đã quá vãng. Cầu xin các quả lành mà người đã mong mỏi, cho được mau thành tựu kịp thời đến người. Cầu xin những sự suy xét chơn chánh cho được tròn đủ đến người. Như trăng trong ngày Rằm. (Bằng chẳng vậy) cũng như ngọc Ma-ni chiếu sáng rỡ ràng là ngọc quý báu, có thể làm cho tất cả sự ước ao của người đều được như nguyện."
SĀMAÑÑĀNUMODANAGĀTHĀ
"Cầu xin cho tất cả sự rủi ro của người đều được xa lánh. Cầu xin cho tất cả tật bịnh của người đều được dứt khỏi. Sự tai hại cũng chẳng có đến cho người. Cầu xin cho người được sự an vui trường thọ. Cả 4 Pháp chúc mừng là: Sống lâu, Sắc đẹp, An vui, Sức mạnh, hằng thêm đến người, là người năng nghiêng mình lễ bái, cúng dường đến Tam-Bảo và có lòng tôn kính các bậc tu hành tinh tấn nhứt là bậc trì Giới, và bậc Trưởng lão."
Khi tôi làm thiện pháp phóng sanh, Tác Ý là bố thí sanh mạng, Tác Ý cho tự do đến chúng sanh đang bị giam hãm, cầm tù, và tôi thành tâm cầu phước cho chính tôi. Tôi cầu xin: “Cầu xin cho tất cả hoàn cảnh giam hãm, cầm tù của tôi đều được xa lánh. Cầu xin cho tất cả hoàn cảnh bắt bớ, giam cầm của tôi đều được tránh khỏi”. Như vậy, phước phóng sanh đó sẽ thành tựu đến cho tôi - tránh xa, thoát khỏi - mọi hoàn cảnh liên quan đến bắt bớ, giam cầm, tù tội, ngay trong hiện tại và luôn đến tương lai, kiếp sống này và trong luân hồi phải không, thưa Bạn?
"Nếu tu hạnh từ bi đúng hạnh từ bi thì lại khác. Người ta tu không phải là lâu năm khi mười hoạ hay nửa tháng nào đó người ta tu tập về hạnh từ bi, thì như vậy giữ giới sát sanh này nhiều khi người ta lại nghĩ là phóng sanh để cầu phước cho gia đình mạnh khỏe và an vui, thì chẳng qua chúng ta suy nghĩ là phước sẽ đem lại cho chúng ta những điều đó thôi, chứ chưa phải là cái chính."
Tôi xin kể một câu chuyện có thật:
Có một cô gái bị bịnh ngoài da, sần sùi, ngứa ngáy, cả đông y, tây y cũng không giúp gì được cho cô. Cô bị chứng bịnh này gần 20 năm, cho nên thể chất của cô yếu ớt, lại thêm mặc cảm, vừa buồn rầu, vừa u uất, chán chường. Tôi góp ý cho cô phóng sanh để cầu sự mạnh khỏe và an vui cho chính bản thân cô. Tôi nhắc nhở cô “cẩn thận” về phóng sanh. Ví dụ, ngoài việc tránh việc “vừa thả đi đã thấy người bắt lại”, còn phải lưu ý là cá nước sông thì không mang thả ra nước biển. Chim quen trong lồng thì không thả đến trời cao, … Hiểu ý tứ, cô thực hiện việc phóng sanh rất là chu đáo. Kết quả, cô tươi đẹp, mạnh khỏe, hạnh phúc, an vui.
"Nếu mà gọi là làm phước theo nghĩa cầu lợi cầu tài có phước báu nhiều trong đời sống để giàu sang, thì phước đó không phải là phước phóng sanh, mà phước muốn cầu tài giàu sang thì ngoài vấn đề cúng dường cho Tam Bảo hay cúng dường cho Đức Phật hoặc cúng dường cho Chư Tăng thì phước này mới đúng là người cầu phước. Giả xử qúi vị muốn cầu phước để phước trổ hiện tại được giàu sang, được sung sướng, được có tiền, có của, thì không có phước nào ngoài phước cúng dường cho Tam Bảo, mà Tam Bảo cụ thể nói về Chư Tăng hiện tại, bởi việc cúng dường cho Chư Tăng hiện tại là cúng dường bằng đồ ăn, thức uống, bằng tứ sự đến cho Chư Đại Tăng, qúi vị cúng dường đúng pháp thì cầu phước có thể trổ cho qúi vị sanh ngay trong đời hiện tại, có thể trổ cho qúi vị giàu sang sung sướng có tiền có của, đạt địa vị. Ngày xưa người ta làm phước thì phải nói người ta được giàu sang thành những vị trưởng giả, giống như bây giờ trở thành những người triệu phú, trở thành những người tỷ phú, và thậm chí người ta còn đạt được những địa vị quan quyền, thậm chí địa vị vua chúa cũng vẫn còn đạt được. Đó là phước báu bố thí để cầu phước. Nếu chúng ta gọi là cầu phước thì cụ thể hơn là làm phước cúng dường đến Chư Tăng.
Và nếu so sánh giữa hai loại phước, phước đến do phóng sanh là phước từ bi tế độ, tức là chúng ta thương hại chúng ta giúp cũng giống như làm phước cho người nghèo khổ thì hai cái phước Chư Tăng này thì chúng ta không thể nào nói chúng ta làm phước bằng từ bi bằng cái nghèo khổ được bởi Chư Tăng không phải là đối tượng thiếu phước hay đối tượng nghèo khổ để chúng ta từ bi thương hại chúng ta cho. Chư Tăng là bậc tu hành có ân đức lớn đạo đức cao thì chúng ta cúng dường đến mục đích là cúng dường cầu phước, thì chúng ta cúng dường này bằng sự tôn kính, cúng dường này cũng giống như cúng dường cha mẹ là bậc đáng tôn đáng kính. Vậy chúng ta cúng dường bằng cách như thế này thì phước tôn kính, phước quả báu cúng dường đưa đến chúng ta sẽ được quả báu tôn kính. Thì chính quả báu tôn kính này làm đúng, sở dĩ ta được phước làm vua được làm trưởng giả là nhờ ta tôn kính Chư Tăng, tôn kính đến đâu thì phước người ta được tôn kính đến đó, mà chúng ta tôn kính Chư Tăng nhất hạng thì đương nhiên chúng ta được mọi người tôn kính nhất hạng, mọi người tôn kính nhất hạng lại là chúng ta đã đứng trong địa vị của vua chúa rồi. Đó là phước báu tôn kính đến Chư Tăng đem lại bằng sự lễ vật bằng sự cúng dường. Khi chúng ta xuất tiền của để cúng dường cầu phước thì nếu cầu phước bằng cách cúng dường Chư Tăng thì chúng ta mới cầu phước giàu sang có tiền có của đem lại chúng ta. Còn chúng ta bố thí bằng cách mua chúng sanh để phóng sanh thì chúng ta muốn cầu phước này như muối bỏ sông bỏ biển chứ đừng hi vọng cầu phước nào được ngay trong hiện tại, bởi phước này không đem lại, bởi chúng sanh này nếu nói theo Đức Phật nghĩa là cho con thú một trăm lần không bằng cho người ác một lần, mà cho con thú nghĩa là phải nói rằng bất quá chúng ta chỉ hưởng được có một trăm đời trăm kiếp mà thôi, còn khi cúng dường mà cho người nghèo khổ những người lỡ đường người bịnh hoạn mà chúng ta từ bi tội nghiệp người ta cơ nhỡ hay thiếu thốn bất hạnh gì đó thì chúng ta cúng dường hay là bố thí cho họ thì phước chúng ta vẫn còn hơn con thú cả chục lần. Từ đó mà chúng ta so sánh đến cái hạng đắc thiền rồi hướng đến Tu Đà Hườn Tu Đà Hàm A Na Hàm, A La Hán, từ từ tới Chư Tăng phước báu cúng dường Chư Tăng là phước báu tối thượng để chúng ta cầu phước được.
Do đó người nào nói rằng phóng sanh để cầu phước được có tài sản có tiền của có được may mắn có gì đó, thì chẳng qua người đó chủ trương về phóng sanh khuyến khích người ta nói vậy thôi, còn đúng hay sai thì không ai kiểm tra không ai biết. Còn nếu mà nói Đức Phật thuyết thì Đức Phật không thuyết. Thành ra chúng ta không thể nào tin những lời người ta nói phóng sanh để được giàu sang, phóng sanh được sung sướng, cái đó chẳng qua là lời của mấy vị tổ nói mà thôi chứ không phải là Đức Phật nói.
Đó là điểm quan trọng nhất để chúng ta so sánh về từng loại phước, phóng sanh phước như thế nào, phước bố thí cúng dường như thế nào. Nếu giả xử như chúng ta muốn trưởng dưỡng lòng từ bi thì chúng ta phóng sanh cũng được, chúng ta làm phước điều đó cũng được, nhưng nếu chúng ta cầu phước thì chuyện phóng sanh này không phải là chuyện cầu phước của chúng ta, mà chúng ta cúng dường Chư Tăng là chuyện cầu phước, cúng dường Chư Tăng là chúng ta được phước cúng dường mà được thêm phước về tôn kính đem theo. Còn nếu chúng ta gọi là cầu phước theo nghĩa để chặn bốn đường ác đạo, hay để được sanh thiên, hay được phước đặc biệt quí báu về đời sau, thì phải nói nhờ phước của giữ giới đem cho chúng ta tất cả. Qúí vị chỉ phóng sanh bình thường thôi nghĩa là nghiệp ác chưa từ bỏ, cái giới qúi vị không giữ, qúi vị phạm đủ cách thì đời sau qúi vị sanh ra có thể được là mình khi nào bị cầm tù thì người ta sẽ giải thoát cho mình, còn nếu người ta không cầm tù thì phước đó không sanh không còn trổ cho chúng ta, và khi chúng ta trong lúc bị cầm tù đôi khi không phải chúng ta được may mắn có tay chân mắt mũi đầy đủ ngũ quan, bởi vì nếu chúng ta không giữ giới mà giới khiếm khuyết nó có thể sanh chúng ta đui mù tàn tật câm điếc v.v.... và chúng ta cũng sẽ bị giam hãm cũng giống như tất cả các chúng sanh khác, nhưng phước giữ giới thì sẽ đưa ngũ quan hoàn hảo cho chúng ta, chúng ta sẽ có tay chân mắt mũi không khuyến tật bộ phận nào hết, nó đem đến cho chúng ta một thân thể đầy đủ của một chúng sanh, nhất là thân thể của loài người chẳng hạn, và nó giúp cho chúng ta có thêm về trí tuệ để chúng ta được giải thóat. Còn phước phóng sanh thì bất quá phước đó là phước thông thường để cứu mạng của một chúng sanh để nuôi nấng lòng từ bi theo nghĩa người ta không biết có từ bi thôi. Chứ Phật Giáo là từ bi giữ giới, từ bi đó cao thượng hơn qúi giá hơn.
Tuy nhiên hôm nay qúi vị làm phước phóng sanh thì chúng tôi cũng chỉ qúi vị làm cách này nữa, bây giờ mình đã làm rồi hay lỡ làm rồi hay mình đã thường làm rồi, thì thôi cũng được, bây giờ qúi vị làm phước xong qúi vị có thể nguyện như thế này, chẳng qua nó tạo duyên cho chúng ta thôi thì chúng ta nghĩ là nhờ làm phước mà phóng sanh cho chúng sanh này được thoát khỏi giam hãm thoát khỏi tù đày, thì thôi do nhờ phước báu này cho tôi nguyện cho tôi giải thoát được ngục tù tham ngục, tù sân ngục, tù si, tức là giải thoát khỏi tham sân si. Thì nếu nguyện như thế đó thì từ phước vật này nó sẽ chuyển qua thành phước trí cho qúi vị. Hay phần phước đức này chuyển qua phước trí thì nó trợ duyên phước này sẽ có một tác dụng khác không phải tác dụng phóng sanh, mà nó có tác dụng nhờ phước này đời sau chúng ta có thể giải thoát được tham sân si. Chúng sanh bây giờ bị tham sân si giam hãm, chúng ta là người đang bị nô lệ của tham sân si, ở trong ngục tù của tham sân si, nghĩa là quản lý hay hành hạ chúng ta hàng ngày, chúng ta chưa được giải thoát, chúng ta bị chịu nhiều đau khổ giống như một chúng sanh ở trong ngục tù chịu đau khổ. Như vậy thì chúng ta tác ý khéo qua thì chúng ta vẫn được phước nguyện giải thoát, nhưng phước này chẳng qua là phước phụ thuộc, hay phước trợ duyên. Giống như ngày xưa trong kinh thấy câu chuyện của một ông sa di đi đổ rác, rồi một ông Tỳ Khưu quét rác đổ rác, thì phước thông thường thôi, nhưng người ta cũng biết khéo chuyển phước này, "do phước này đời sau cho tôi có nhiều trí tuệ hay có thể tôi tu hành tôi giải thoát" v.v.... Thì người ta chuyển phước qua thành phước để giải thoát thì cũng được. Trong kinh còn kể một có một ông đi quét lá bồ đề bình thường thôi, ông nhờ quét lá này ông mới dùng tác dụng quét đó ông nguyện cho sau này ông có được trí tuệ giống như cây trổi quét sạch tham sân si này. Người ta khéo chuyển những phước vật đi qua thì người ta cũng có được lợi ích, mà phước này chỉ có trong Phật giáo dạy cho chúng ta mới được, còn nếu không có thì giống như người đời làm phước phóng sanh chẳng qua là phước thông thường của người đời chỉ có phước nhân quả tương quan trả lại cho thôi.
Thời pháp đến đây cũng vừa phải lẽ trước khi dứt lời chúng tôi xin hồi hướng đến tất cả Chư Thiên, nhất là Chư Thiên hộ pháp Đức Trời Đế Thích Tứ Đại Thiên Vương ....."
Và, cuối cùng:
Tôi xin gửi ba bài kinh này đến những người cầu phước.
Chân thành cám ơn Thượng Tọa Pháp Chất. Chân thành cám ơn Người Khăn Trắng.
Theo quyển KINH TỤNG – Ngài Hòa Thượng Hộ Tông. Webmaster: binhanson.com
YĀNADĀNĀNUMODANAGĀTHĀ
KỆ TỤNG VỀ SỰ HOAN HỶ THEO VẬT THÍ
Annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ,
Mālā gandhaṃ vilepanaṃ,
Seyyāvasathaṃ padīpeyyaṃ,
Dānavatthū ime dasa.
Cả 10 vật thí nầy là:
1) Cơm; 2) Nước; 3) Y phục; 4) Xe, Thuyền; 5) Tràng bông; 6) Vật thơm; 7) Vật thoa; 8) Thất; 9) Chỗ ngụ; 10) Đèn đuốc.
Annado balado hoti.
Người thí vật thực gọi là cho sức lực.
Vatthado hoti vaṇṇado.
Người thí y phục gọi là cho sắc đẹp.
Yānado sukhado hoti.
Người thí xe thuyền gọi là cho sự an vui.
Dīpado hoti cakkhudo.
Người thí đèn đuốc gọi là cho mắt sáng.
Manāpadayī labhate manāpaṃ.
Người thí vật vừa lòng hằng được vật vừa lòng.
Aggassa dātā labhate punaggaṃ.
Người thí vật quý trọng hằng được vật quý trọng.
Varassa dātā varalābhī ca hoti.
Người thí vật đẹp hằng được vật đẹp.
Seṭṭhandado seṭṭhamupeti ṭhānaṃ.
Người thí chỗ quý trọng hằng đi đến nơi quý trọng.
Aggadāyī varadāyī,
Seṭṭhadāyī ca yo naro.
Những người nam nữ thí vật quý, thí vật đẹp và chỗ quý trọng.
Dighāyu yasavā hoti,
Yattha yatthūpapajjati.
Những người nam nữ ấy, thọ sanh đến cõi nào, hằng được trường thọ, được cao sang trong cõi ấy.
Etena saccavajjena,
Suvatthi hotu sabbadā,
Arogyasukhañceva,
Kusalañca anāmayaṃ.
Do lời thành thật nầy. Cầu xin sự thạnh lợi, sự an vui, do không tật bịnh và tránh khỏi sự đau đớn, dễ dàng hằng phát sanh đến người.
VIHĀRADĀNASUTTAGĀTHĀ
KỆ TỤNG VỀ SỰ THÍ TỊNH XÁ
Sītaṃ uṇhaṃ paṭihanti,
Tato vāḷamigāni ca,
Siriṃsape ca makase,
Sisire cāpi vuṭṭhiyo.
“Thất của Chư Tăng” công dụng để ngăn ngừa lạnh ướt, nóng nực, thú dữ, rắn nhỏ, rắn lớn, các côn trùng, các thứ muỗi và mưa.
Tato vātātapo ghoro,
Sañjāto paṭihaññati.
Gió và nắng quá gắt đã phát rồi hằng dội lại, bởi nhờ nơi thất.
Leṇatthañca sukhatthañca,
Jhāyituṃ ca vipassituṃ,
Vihāradānaṃ sanghassa,
Aggaṃ buddhehi vaṇṇitaṃ.
“Cách thí thất” mà người đã dâng cúng đến Chư Tăng, cho các Ngài nương-náu, an tâm, cho đặng thiêu hủy điều ác, và tu Pháp Minh-sát mà Chư Phật là các đấng Giáo chủ, đã có lời ngợi khen, là việc bố thí cao thượng.
Tasmā hi paṇḍito poso,
Sampassaṃ atthamattano.
Cớ ấy, chư Thiện tín là người trí thức, khi được thấy rõ sự lợi ích cho mình.
Vihāra kāraye ramme,
Vāsayettha bahussute.
Cần lập chùa, cất thất là nơi tiêu dao an-lạc, rồi nên thỉnh các bậc Trí tuệ đến ngụ nơi ấy.
Tesaṃ annañca pānañca,
Vatthasenāsanāni ca,
Dadeyya ujubhūtesu,
Vipasannena cetasā.
Nên tín ngưỡng các bậc đã có thân tâm chơn chánh, và dâng cúng thêm vật thực, nước, y phục và thất cho các Ngài.
Te tassa dhammaṃ desenti,
Sabbadukkhāpanudanaṃ,
Yaṃ so dhammamidhaññāya,
Parinibbātyanāsavo.
Người tín thí khi đã thấy và thông rõ Phật giáo, sẽ được dứt khỏi lậu phiền não và đến Niết-bàn.
DEVATODDISSADAKKHIṆĀNUMODANAGĀTHĀ
KỆ TỤNG ĐỂ HỒI HƯỚNG QUẢ BỐ THÍ ĐẾN CHƯ-THIÊN
Yasmiṃ padese kappeti,
Vāsaṃ paṇḍitajātiyo.
Những bậc Trí tuệ được ở trong nước nào.
Sīlavantettha bhojetvā,
Saññate brahmacārino.
Thường thỉnh các bậc trì giới cao thượng là bậc thu thúc, đến thọ thực trong nước.
Yā tattha devatā āsuṃ,
Tāsaṃ dakkhiṇamādise.
Chư Thiên đã hội tại chỗ cúng dường, thì bậc Trí tuệ nên hồi hướng quả DAKKHIṆĀDĀNA đến Chư Thiên ấy.
Tā pūjitā pūjayanti,
Mānitā mānayanti naṃ.
Chư Thiên mà bậc Trí tuệ đã cúng dường, đã tiếp rước do quả (DAKKHIṆĀDĀNA) hằng cúng dường, hằng tiếp rước bậc Trí tuệ.
Tato naṃ anukampanti,
Mātā puttaṃva orasaṃ.
Bởi bậc Trí tuệ hồi hướng quả DAKKHIṆĀDĀNA đến Chư Thiên, thì Chư Thiên hộ trì lại bậc Trí tuệ, cũng như cha mẹ tiếp dẫn con đẻ vậy.
Devānukampito poso,
Sadā bhadrāni passati.
Thiện tín được Chư Thiên hộ trì rồi, thì hằng thấy rõ các nghiệp lành.
Chúc tất cả thành viên an lành!
Trân Trọng
CUUBAOLONG
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)
