Hahaha. Phật có thể nói với chư Thiên bằng lời thường còn Chư Thiến nói và nghe bằng gì???
Sự cực đoan làm giảm IQ đi là vậy đó.
Printable View
Hahaha. Phật có thể nói với chư Thiên bằng lời thường còn Chư Thiến nói và nghe bằng gì???
Sự cực đoan làm giảm IQ đi là vậy đó.
Bỏ đi mà làm Phật tử! Đừng có làm Tổ tử... đu theo mấy cha già Thiền Đông-Thổ China-Giáo tu tiên riết nói chuyện trên mây không! Những chuyện cơ bản, dưới đất thì một người bình thường có thể hiểu được nhưng bạn thì không, vì tối ngày luận trên mây.
Chuyện nó rất cơ bản, đơn giản, dễ hiểu mà vẫn cố "bẻ lái" qua chuyện khác. Ý hỏi chư Thiên nghe nói bằng gì để tôi trả lời, rồi vịn vào đó nói chư Thiên có tai đâu mà nghe, có mắt đâu mà thấy... phải không? Nói chung là nói chư Thiên không có thân sắc (5 uẩn) như con người, thì nghe nói bằng gì, rồi tự lấy cái ngã mà tưởng tượng họ giao tiếp bằng "tâm truyền tâm" chứ gì ! Bạn khỏi gài rồi ráng cãi chày cãi cối, càng cãi càng lòi cái khôn ra!
Để Phật tử nói cho Tổ tử nghe đây này...
Thay vì lí sự cãi cùn (cố cãi tầm bậy) thì tư duy thử coi: chư Thiên nói chuyện mình không nghe được. Vậy, đức Phật nói chuyện với chư Thiên ta cũng làm sao nghe được. Mà ta không nghe được thì nói là "tâm truyền tâm" à? Bây giờ hãy thử tưởng tượng coi, cư dân chư Thiên ấy giao tiếp với nhau như thế nào? Có phải họ cũng sinh hoạt cộng đồng với nhau. Có sinh hoạt cộng đồng (sống cộng trú với nhau) tất nhiên phải có sự giao tiếp với nhau. Mà giao tiếp với nhau bằng bất cứ hình thái nào, cũng là "nói-nghe". ĐỐI VỚI HỌ, SỰ GIAO TIẾP ĐÓ LÀ "A NÓI - B NGHE", chứ không có truyền tâm như kiểu: mình đá lông nheo là bên kia người ta hiểu là đóng cửa thả chó. Hiểu chưa Tổ tử ???
===> Xin ngưng trao đổi đề tài này với bạn ở đây. Vì đã đi quá xa việc cần trao đổi. Vì sao? Ở đây, tôi chỉ phản đối cái chuyện "tâm truyền tâm" kiểu như Tề Thiên canh 3 mò vào để Bồ Đề Tổ Sư dạy pháp. Là sao? Tức là lén lén, khều khều riêng 1 người (hay nhóm người) dạy những cái mà còn che giấu, còn bí mật, kiểu như "gia truyền"!
Thế nên, đức Phật mới khẳng định: ông còn mong mỏi gì ở Ta nữa hả Ananda, Pháp ta dạy sáng rõ như mặt trời, Ta như vị đạo sư đã duỗi thẳng tay ra, không có co tay lại để mà giấu diếm bất cứ 1 thứ gì. Trong lẫn ngoài (Tăng đoàn và ngoài Tăng đoàn), bí mật và không bí mật... không còn gì nữa... ai cũng như ai. (chứ chưa bàn luận tâm truyền tâm là như thế nào nhé).
Tổng kết lại, kết luận: Niêm Hoa Vi Tiếu KHÔNG ĐƯỢC TÌM THẤY TRONG KINH TẠNG. Hết !
Chúc an lạc. Mong hoan hỷ.
:53::53:
tin đồn ??
kết tập lần thứ nhất ???
ai đứng ra triệu tập ?
để làm gi?
có ghi lại không ?( lưu truyền )
tin đồn chỉ là tin đôn ,
hỏi chỉ là hỏi .
:21::21:
chúc các huynh tỉ tịnh tấn trong tu tập.
cát tường.
:53::53:
:53::53:
lên mạng tim 2 chử " góp nhặt "có 3 tác phẩm :
* góp nhặt cát đá
* nhặt lá rừng xưa
* góp nhặt nhửng mảnh đời khốn khó ( vô gia đinh )
không biết chủ top muốn nói gì ??
có thể cho mucdong hiểu thêm được chăng ???
cám ơn trước nha .
chúc các huynh tỉ tịnh tấn trong tu tập.
cát tường.
:53::53:
Càng nói càng thấy rõ IQ giảm nặng thậm chí mất hẳn khi sự Cực đoan tăng cao. Hehhehe.
Câu chuyện rất đơn giản:
Hai con người Giao tiếp với nhau thì theo mô hình:
Tâm Người A <--> Trí Não Người A <--> Thân Người A <<<>>>Thân Người B <--> Trí Não Người B <--> Tâm người B
Phần nổi của giao tiếp: (Thân Người A <<<>>>Thân Người B ) chính là cái chúng ta thấy : Nói, Cười, Vung tay, ...Buồn, Vui.v.v
Phần tôi tách Trí Não ra khỏi Tâm để làm rõ về hiện tượng nói dối. Khi Tâm mong muốn khác nhưng Trí Não có thể khiến họ nói Dối để che đậy Tậm Địa của họ.
Nếu ai đó chưa thực sự có Duyên thực thấy biết về Tha Tâm Thông,hãy hiểu rằng đó là năng lực có Thật giúp một người có thể nhìn trực tiếp Tâm người khác.
Và tất nhiên với những người như vậy không ai Lừa Dối được họ. Tha Tâm Thông là một mức độ Sáng Suốt (Loại bỏ Vô Minh một mức).
Chư Thiên có năng lực Tha Tâm Thông nên việc giao tiếp với các bậc Arahan (cũng có Tha Tâm Thông) là việc đơn giản, không qua ngôn từ, âm thanh.
Chỉ vì @smc mê tín Arahan rởm nên uổng công đọc kinh sách chỉ để đả phá các Pháp tu khác nên càng ngày càng chẳng thêm chút Tinh Tấn. May ra đến khi chết đi sẽ có chút Thấy/Biết được sự giả dối của Thầy Rởm thì lại nổi sân lên sa đường Atula. Thường là vậy cho các kẻ Cự c Đoan.
Vậy nên các bạn trẻ hãy đừng cực đoan như @smc và thầy Arahan rởm của ông ta, làm vậy IQ giảm rất khó lĩnh hội sự Vĩ Đại của Phật Pháp. Ngay cả đoạn trích dẫn kinh kể trên cũng đã bị thêm thắt ý của người Dịch và được nhóm cực đoan vin vào đả phá các Pháp môn tu khác.
Phật Pháp là thực hành để Thoát Khổ trên cơ sở của sự Sáng Suốt (Loại bỏ Vô Minh). Arahan mà bị nói dối không biết mà đi đả phá chuyện Niêm Hoa Vi Tiếu thì Sáng Suốt ở đâu?. Đừng Cực đoan ra rả coi Phật Pháp chỉ như môn Đạo Đức Công Dân, đó là hạ thấp Phật Pháp đấy.
Tóm lại:
Chuyện giống như Niêm Hoa Vi Tiếu là bình thường trong Phật Giáo.
Việc dạy học trò bằng Tâm Truyền là bình thường và phổ biến trong nhiều Pháp Tu của nhiều truyền thống Tâm linh, Tôn Giáo, trong đó có Đạo Phật.
Truyền dạy bằng Tâm Truyền hiệu quả hơn bằng kinh sách nhiều vì Thầy sẽ thấy rõ sự Hiểu của Trò để mà điều chỉnh phương pháp.
Nhưng để gặp một vị Thầy như vậy không dễ chút nào, nhưng không phải không thể.
Các bạn chỉ cần cần mẫn Giữ Giới, bằng sự hiểu biết hiện tại của mình, thực hành một phép Tu. Một ngày Tâm bạn đủ sáng sẽ gặp Thầy.
Chúc các bạn đừng cực đoan mà giảm IQ!
:53::53:
hihihihi
Việt Nam có câu " ăn chưa no,lo chưa tới "
với cái học thì sao ???
tùy theo sở học có cái nhìn (kiến ) để gọi.
với nhửng tư ngử:
* góp nhặt
* kết tập
* hình thành
* thiết lập
* gom góp
* câm lấy
* cốt tủy
* tinh hoa
* lơi dạy
chọn cái nào đây ta ????
Ý, có chịu đứng sau ngươi khác hôn ta ??
đông thì tới,
dị chấp tay mỉn cười.
chúc các huynh tỉ tịnh tấn trong tu tập,
cát tường.
:53::53:
"Vui thay hòa hợp tăng già
Lành thay bốn chúng vui mà đồng tu"
---------
Sáu pháp Lục hòa:
1. Thân hòa cộng trụ, là trên phương diện sinh hoạt hằng ngày trong một tổ chức, chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau.
2. Khẩu hòa vô tránh, đứng trên phương diện giao tiếp chỉ bảo qua ngôn ngữ lời nói lẫn nhau, luôn luôn thể hiện tinh thần khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác.
3. Ý hòa đồng sự, là đứng trên phương diện tư tưởng, lúc nào cũng tôn trọng và ái kính ý kiến người khác, nếu tư tưởng ý kiến đó là đúng, còn nếu không thì hãy cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻ chấp nhận.
4. Giới hòa đồng tu, là chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, lúc nào chúng ta cũng nên tuân thủ cùng nhau tu tập theo giới luật chung đã được đặt ra.
5. Kiến hòa đồng giải, là kiến giải có được về chân lý, hay lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu tập.
6. Lợi hòa đồng quân, là tất cả mọi thứ của cải vật chất có được từ sự hỷ cúng của các thí chủ được chia đều cùng nhau một cách bình đẳng một cách hợp pháp, có nghĩa là bình đẳng trong đồng đẳng.
(https://thuvienhoasen.org/a27001/phap-luc-hoa)
cám ơn Huynh Bkav đã trả lời.
trước khi góp nhặt ,chúng ta đứng trên lảnh vực nào? trên phương diện nào ?
hay một góc nhin nào?
để chọn " tổn"/hại với " ích "/lợi ?
trong Phật môn học " thân " và " tâm " , vậy chọn thân hay tâm ?
chúc Huynh Bkav thường an lạc.
chúc các huynh tỉ tịnh tấn trong tu tập.
cát tường.
:53::53:
Bkav cảm ơn bạn.
Thưa bạn, tôi chưa hiểu rõ từ lãnh vực và phương diện mà bạn dùng nên chưa biết trả lời như thế nào.
Những bài tôi đăng (góp nhặt từ internet) phản ánh một phần cái nhìn cá nhân của tôi về một/nhiều vấn đề trong Đạo Phật, tôi nghĩ là có ích, nhưng vì mang tính cá nhân nên những bài đăng đó chỉ mang tính tham khảo và có tính gợi mở.
Tôi tham gia diễn đàn và đăng bài - có lẽ mong muốn lớn nhất của tôi là mong cho chúng ta gặp, học, hiểu và tu được đúng những gì Đức Phật đã thuyết giảng.
Kính chào bạn!
"Tôi yêu những hình ảnh quê hương của bàn thờ ông thiên trước sân mỗi nhà trong xóm quê, của bà mẹ già lụm cụm thắp hương khấn vái tổ tiên trong đêm giao thừa, của lễ hội đình nhộn nhịp với nhang đèn tượng mã rực rỡ.
Tôi yêu những mẩu chuyện mộc mạc của bà lão cúng ông địa nãi chuối khi tìm ra bầy gà tưởng đã đi lạc mất, của anh tài xế xe đò đốt giấy tiền vàng bạc cho cô hồn trước đầu xe mỗi sáng để đừng gặp tai nạn, của bác ngư phủ không cho vợ đặt chân lên thuyền khi đang trong kỳ kinh nguyệt vì sợ xui xẻo.
Tôi hiểu được khi một người mắc bệnh ung thư ở giai đoạn cuối cùng thì không có gì cần thiết và quan trọng hơn lời hứa hẹn rằng cái chết sắp đến với họ thật ra chỉ là giai đoạn chuyển tiếp vì rồi họ sẽ vẫn còn hiện hữu ở một cõi thế giới nào khác toàn vẹn và vĩnh cửu hơn.
Tôi hiểu rằng đối với một người mẹ đang bồng trên tay đứa con vừa qua đời, chỉ có niềm tin rằng đứa con nầy vẫn còn tồn tại đâu đó và bà rồi sẽ có dịp gặp lại nó một ngày trong tương lai mới có thể xoa dịu phần nào được sự đau đớn tột cùng của bà.
Tôi thông cảm rằng những người đang sống cuộc đời bần hàn, khốn khổ có thể cảm thấy an ủi ít nhiều khi tin rằng Thượng Đế toàn năng từ bi của họ vì lý do huyền bí gì đó đã sắp đặt cho cuộc đời họ như vậy (nếu họ là một tín đồ Thiên Chúa Giáo), hoặc vì kiếp trước họ đã làm nhiều điều tội lỗi nên kiếp nầy họ đành phải trả cho hết nghiệp dữ đó (nếu họ là một tín đồ Phật Giáo).
Tôi nhìn thấy được giá trị và sự quan trọng của các niềm tin trên. Tôi hiểu rằng đây là một loại thuốc an thần cần thiết để giúp những người nầy đối phó với các nỗi sợ hãi, khổ đau, mất mát trong đời sống họ.
Tuy vậy, ở một mức độ tri thức khác tôi không có kiên nhẫn với những người quảng bá và duy trì các điều tệ hại và tai hại xảy ra trong tín ngưỡng nói chung và nhất là trong các tổ chức tôn giáo nói riêng.
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình đạo Phật tiêu biểu. Cũng giống như hầu như tất cả mọi đứa trẻ khác, tôi theo đạo của gia đình tôi. Tôi cũng bắt chước theo người lớn ăn chay, đi chùa, lạy Phật, làm phước. Có một lúc, hoàn cảnh đưa đẩy tôi tiếp cận với Thiên Chúa Giáo. Vì vậy có thể nói là tôi khá quen thuộc với những niềm tin cơ bản của hai đạo nầy. Nhưng có thể nói rằng trong hơn ba mươi năm đầu tiên trong đời tôi đã sống như là một người theo đạo Phật “bình thường”.
Thật ra ngay từ lúc đó tôi đã có vài mối nghi ngờ và bất đồng ý về một số điều giảng dạy trong các đạo nầy. Tuy vậy, cũng như bao nhiêu người khác, tôi không bao giờ dám thắc mắc hay chất vấn vì tôi đã được dạy dỗ từ bé rằng tất cả những gì thuộc về tôn giáo đều là “thiêng liêng” và phải được kính nễ.
Đến một cỡ tuổi nào đó, người ta thường để dành nhiều thì giờ hơn cho lãnh vực tâm linh. Có lẽ đó là lúc mà họ chợt nhận thấy sự mong manh và ngắn ngủi của đời sống. Có lẽ đó là lúc mà ngoài những bận bịu, đam mê, cám dỗ thường ngày trong đời sống thì sự chết bất chợt bắt đầu trực tiếp hay gián tiếp lảng vảng đâu đó trong tiềm thức và tư duy của họ.
Khi giai đoạn nầy xảy đến với tôi, tôi bắt đầu tự tìm tòi, học hỏi tích cực về tôn giáo; bắt đầu là Phật Giáo rồi kế đó là Thiên Chúa Giáo. Thuở nhỏ tôi nói chung là một học sinh giỏi. Tôi siêng học, nhất là các môn tôi ưa thích như toán, vật lý, hóa học, triết lý và sau nầy, luận lý học. Các môn học trên đem lại cho tôi một khả năng phân tích và suy luận cơ bản khá vững chắc.
Có lẽ vì thế mà khi tìm học về tôn giáo thì tôi một nửa để thỏa mãn nhu cầu tâm linh và một nửa với tinh thần của một khảo cứu gia. Tôi bắt đầu tự tìm tòi học hỏi thêm về lãnh vực tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo. Và thay vì chỉ đọc những tài liệu viết bởi các tác giả tôn giáo mà thôi, tôi cũng đọc những tài liệu viết bởi các tác giả “ngoại đạo” nữa. Nhờ vậy mà tôi có sự so sánh giữa những quan điểm khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Theo sự hiểu biết của tôi, một trong những lời dạy cơ bản nhất của Thích Ca Mâu Ni là “Hãy dùng tri thức mà tự suy nghĩ để tìm hiểu về chân lý; đừng nhắm mắt mù quáng nghe theo lời của bất cứ ai, kể cả của Ta”. Tôi dùng lời dạy trên của Thích Ca Mâu Ni làm tôn chỉ gối đầu. Tôi không chấp nhận một tín điều, một lời giảng dạy, một lý thuyết nào vô điều kiện. Tôi luôn luôn thắc mắc, chất vấn, phân tích, tranh luận với mọi người - và quan trọng nhất là với chính tôi.
Tôi liệt kê ra những câu hỏi như “chuyện gì xảy ra sau khi chết?”, “có linh hồn hay không?”, “ma quỷ thần thánh Trời Phật có thật không?”, “con người từ đâu đến?”, v.v. rồi tự tìm tòi và đúc kết các lý thuyết khác nhau lại để cố đưa ra những câu trả lời cho chính tôi. Các câu trả lời nầy nhiều lúc thay đổi theo thời gian và theo những kiến thức mới hơn, những cách suy nghĩ khác hơn của tôi. Nói cách khác, các câu hỏi lẫn các câu trả lời của tôi tiến hóa theo kiến thức và sự suy nghĩ của tôi.
Qua một quá trình tìm tòi, phân tích, suy luận dài thì các lý thuyết và câu trả lời của tôi dần dần quy tụ về một hướng. Và hướng nhìn nầy không cho phép tôi chấp nhận đại đa số những gì mà các tôn giáo nói chung (nhất là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo nói riêng) đang quảng bá và truyền dạy.
Vào khoảng đầu thập niên 1990, tôi có dịp quen biết một tu sĩ Phật Giáo du mục người Anh pháp danh Abhinyana (đã từ trần vài năm trước). Tư tưởng của ông ấy nói chung là “Nếu thấy điều xằng bậy trong lãnh vực tôn giáo, tín ngưỡng mà không mạnh dạn lên tiếng phê bình, chỉnh sửa thì không làm tròn trách nhiệm của một người tự xưng là đi theo con đường Phật pháp”. Có lẽ đây là lần đầu tiên mà tôi gặp một tu sĩ làm chuyện nầy, và có lẽ đây là bước ngoặc thay đổi hẳn cách nhìn của tôi về phương diện tâm linh.
Từ đó tôi trở thành một người vô tôn giáo."
(Nguyễn Nhân Trí - còn tiếp)
(Tiếp theo) Như đã nói, tôi công nhận nhiều ích lợi và điều tốt lành đem đến bởi tôn giáo. Tuy vậy, những mê tín dị đoan, những điều huyễn hoặc tà mị, lường gạt bóc lột, đàn áp, cưỡng bách, tàn ác, vô đạo đức, v.v. liên quan đến triết lý nền tảng của Thiên Chúa Giáo và nhiều lãnh vực thực hành của cái gọi là Phật Giáo ngày nay cần được mọi người nhìn thấy và công nhận.
Tôi không muốn chấp nhận những điều trên vì chúng có nhiều ảnh hưởng xấu cho xã hội và con người, trong đó có tôi và các thế hệ con cháu của tất cả chúng ta.
Nếu chữ “tín đồ” có thể dùng để chỉ mọi người tin theo một hệ thống tín ngưỡng hay tôn giáo nào đó, kể cả Phật tử, con chiên lẫn tăng ni, tu sĩ, linh mục, v.v. thì, theo tôi, tín đồ vì đã bị thuần hóa từ nhỏ bởi quan niệm “bất cứ điều gì liên quan đến tôn giáo, kể cả các lãnh tụ và tổ chức tôn giáo, đều là thiêng liêng và do đó bất khả xâm phạm” nên họ không muốn, và không dám, đối diện các vấn đề trên. Tôi thông cảm, nhưng không muốn chấp nhận, điều nầy.
Có những người tự cho là “trí thức” (hay đáng lẽ biết sử dụng lý trí và kiến thức của họ) nhưng lại trực tiếp lẫn gián tiếp bảo vệ cũng như truyền bá những tư tưởng cổ hủ và huyễn hoặc. Tôi ngao ngán và bực bội trước sự thiếu văn hóa, lẫn thiếu trách nhiệm, của họ.
Nói chung, tôi cho rằng những mê tín dị đoan, những điều huyễn hoặc tà mị, lường gạt bóc lột, đàn áp cưỡng bách, tàn ác, vô đạo đức, v.v. nói trên là một dạng gông cùm của tâm linh con người. Qua lịch sử và đời sống xã hội, tôi nhìn thấy đầy rẫy chung quanh tôi tác hại của chúng.
Nhận định đó đã giúp tôi có thể tẻ hướng đi riêng theo một con đường khác và thoát ra khỏi những gông cùm ấy.
Có người hỏi tại sao tôi phê bình, chỉ trích tôn giáo. Họ cho rằng tôi làm như vậy là không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người khác.
Theo tôi thì phê bình, chỉ trích tôn giáo, và nhiều sự kiện liên quan đến tín ngưỡng, không có nghĩa là không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người khác. Tương tự, tôi tôn trọng quyền tự do bài bạc, uống rượu của người khác nhưng không có nghĩa là tôi không phê bình, chỉ trích những sự kiện tai hại liên quan đến bài bạc và nghiện ngập.
Đối với tôi thì bài bạc, rượu chè và tôn giáo đều là những sản phẩm của con người. Bài bạc, rượu chè có giá trị tiêu khiển, giải trí nhưng cũng có những tai hại của chúng. Những tai hại nầy vì rõ rệt về vật chất nên nhiều người nhìn thấy được. Tôn giáo có những giá trị tâm linh, tinh thần nhưng tương tự cũng có những mặt tệ hại, tai hại của nó. Điều khác biệt là những tai hại của tôn giáo vì phức tạp và không hiển nhiên nên nhiều người không nhận thấy. Điều khác biệt nữa là vì tôn giáo được xem là “thiêng liêng” nên được nhiều người bảo vệ, che chở.
Hơn nữa, nếu tự do tín ngưỡng là quyền của một người được tin vào một điều gì đó thì nó cũng là quyền của một người khác được không tin vào một điều ấy. Nếu tín đồ được quyền phơi bày niềm tin của họ một cách công khai (thí dụ như xây dựng nhà thờ hay chùa chiềng, tham dự các buổi lễ hội cúng bái, bàn luận về giáo lý, v.v.) một cách thoải mái thì những người vô tôn giáo cũng phải có quyền được phát biểu công khai những tư tưởng phi tín ngưỡng của họ mà không lo sợ bị kỳ thị hay áp bức.
Có người hỏi tôi dựa vào tiêu chuẩn nào khi phê phán những người dùng đức tin của họ để lý luận.
Câu trả lời của tôi là tôi dùng cùng chung một tiêu chuẩn mà những người nầy vẫn dùng hàng ngày cho tất cả mọi lãnh vực khác trong đời sống của họ. Họ và tôi đều cùng dùng lý trí kết hợp với kiến thức khoa học và nguyên tắc lý luận cơ bản để suy xét, phân tích, kiểm chứng, so sánh, v.v trước khi đi đến bất cứ kết luận hay quyết định gì trong bất cứ lãnh vực gì liên quan đến từ vấn đề giao dịch, thương mãi,đầu tư cho đến các vấn đề sinh hoạt, vật chất lẫn tinh thần như ăn mặc, mua sắm, đi đứng, giao thiệp, hôn nhân, giáo dục, văn hóa, giải trí, v.v. và v.v.
Đối với tôi thì điều đáng buồn là thế mà khi bàn luận về lãnh vực tín ngưỡng thì những tín đồ nầy lại loại bỏ tất cả các phương tiện suy luận trên để thay thế chúng bằng khái niệm “đức tin”. Khái niệm “đức tin” nầy trong tôn giáo đòi hỏi một sự tin tưởng vô điều kiện bằng cách gạt bỏ mọi suy luận dựa trên cơ sở thực tế.
Có người gán đặt là tôi có ý định muốn bài trừ, dẹp bỏ tôn giáo.
Theo tôi thì việc tiêu diệt tôn giáo chỉ là mơ mộng của các chuyên gia vô thần. Tôn giáo đã và sẽ mãi mãi hiện diện với con người. Tôn giáo có nhiều ích lợi lớn: trong nhiều trường hợp, nó đem đến sức mạnh và đoàn kết con người với nhau. Ích lợi quan trọng nhất của tôn giáo là có tác dụng như một loại thuốc an thần hay giảm đau cho nhân loại. Có điều là thuốc an thần hay giảm đau nào cũng có phản ứng phụ và những trường hợp lạm dụng. Khi phê bình về tôn giáo và tín ngưỡng ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh về những phản ứng phụ của chúng và những trường hợp lạm dụng mà thôi.
Chẳng những thế, tôi cũng không có tham vọng thuyết phục làm người khác từ bỏ niềm tín ngưỡng và tôn giáo của họ. Tôi chỉ muốn trình bày về bản chất thật sự của tín ngưỡng và cái bề mặt đen tối, tai hại của tôn giáo cho người khác thấy mà thôi. Không ai có thể làm ai khác từ bỏ niềm tin của họ được. Chỉ khi nào một người tự chất vấn và tự nhận thấy bản chất thật của tôn giáo rồi và nếu muốn thì may ra một ngày nào đó họ tự thay đổi cái nhìn về tâm linh của họ.
Tôi dùng chữ “may ra” ở trên là vì ngay cả khi một người đã nhận thấy tôn giáo của họ có các khuyết điểm nghiêm trọng nhưng trong đa số trường hợp họ không thể thay đổi gì cả. Phần lớn những người nầy sẽ lo sợ sự chống đối của gia đình của họ, không muốn đối phó với áp lực của cộng đồng và xã hội, không muốn bị kỳ thị là người“vô thần”, v.v. Cái lý do lớn nhất thường là họ không có đủ can đảm chịu nhận là họ và gia tộc lẫn cả truyền thống của họ đã sai lầm trong vấn đề nầy. Phản kháng lại niềm tin và tôn giáo của chính mình cần có rất nhiều can đảm, nhất là để làm điều đó công khai.
Tuy vậy, tôi hy vọng là có những người nếu họ đã hiểu rõ bản chất thật sự của tín ngưỡng thì họ sẽ bớt e dè, sợ sệt để chất vấn, tìm hiểu các vấn đề đáng được chất vấn, tìm hiểu trong tôn giáo của họ. Tôi biết có nhiều người đã mang những nghi ngờ, đã nhận thấy những khuyết điểm trầm trọng trong tôn giáo của họ nhưng vẫn còn đang ngần ngại không biết phải nghĩ sao hay làm gì. Khi đọc qua những quan điểm của tôi thì hy vọng họ có thể sẽ tự tin hơn để củng cố thêm được cái nhìn của họ và tự đi đến những kết luận riêng cho chính họ.
Kế đó, tôi cũng hy vọng là có những người nếu họ nhận thấy được cái bề mặt đen tối, tai hại của tôn giáo thì họ sẽ hành sử và áp dụng niềm tín ngưỡng của họ vào đời sống một cách thích hợp hơn.
Thí dụ, họ sẽ tự giải thoát họ ra khỏi những tín điều cổ hũ, vô lý trong tôn giáo của họ. Thí dụ, họ sẽ không còn sợ sệt bởi những hăm dọa hoang đường hay bị dẫn dụ bởi các hứa hẹn ảo tưởng trong kinh sách. Thí dụ, họ sẽ không còn tôn thờ các tăng sư, linh mục một cách mê muội và nhắm mắt nghe theo các lời giảng dạy của những người nầy một cách mù quáng. Thí dụ, họ sẽ không còn bị gạt gẫm, tự gạt gẫm và góp phần truyền bá sự gạt gẫm nầy đến người khác và các thế hệ con cháu của họ.
Tuy nhiên, đây phải là quyết định riêng của mỗi cá nhân. Nếu họ muốn thì họ phải tự bước tới về hướng đi mà họ lựa chọn. Tôi chỉ có thể nói về dòng suối của tôi; những ai đang khát nước cần phải tự tìm đường đến dòng suối của họ để uống.
Theo tôi, chúng ta ai cũng cần có trách nhiệm phải nhìn thấy những tệ nạn sai trái trong tôn giáo và giúp cho mọi người khác nhìn thấy những tệ nạn sai trái nầy. Nếu không thì làm sao có hy vọng gì nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống xã hội? Nếu mỗi thế hệ của cả dân tộc càng ngày càng tràn ngập những người tối ngày chỉ biết đi chùa bái lạy cầu phước, cúng vong hay vào nhà thờ khấn nguyện cho linh hồn họ được cứu rỗi thì tương lai dân tộc đó sẽ đi đến đâu?
Về mặt giải quyết các vấn đề trong xã hội, dân tộc đó sẽ trở thành những người thay vì suy nghĩ, nghiên cứu tìm ra giải đáp hay tranh đấu và tìm phương hướng hành động thì họ chỉ biết dựa vào những sức mạnh vô hình hoang tưởng. Nếu cúng bái và cầu nguyện đem lại kết quả thì tại sao vẫn còn những chết chóc, khổ đau, bất hạnh cũng như vô số điều bất công, dã man xảy ra hàng ngày ngay cho những tín đồ sùng đạo nhất?
Về mặt trí tuệ, thay vì nhận diện những việc lường gạt, bóc lột, lạm dụng quyền hành vì tư lợi để tích cực cải sửa thì họ lại e sợ bị mất phước đức hay bị mang tội nếu phê bình các tu sĩ, tăng sư (“Ai làm sai trái thì họ có tội còn tui chỉ biết đọc kinh, lần chuỗi”). Họ sẽ trở thành một dân tộc được huấn luyện biết vâng lời vô điều kiện bất kể sai đúng miễn là họ được an thân. Họ cũng sẽ là những thế hệ được dạy dỗ phải từ bỏ lý trí và khả năng suy xét để lệ thuộc một cách tiêu cực vào sự phán đoán kể cả vô căn cứ của kẻ khác.
(còn tiếp)
(Tiếp theo) Chính quyền hiện hành ở Việt Nam đầy rẫy những kẻ ngu dốt và mê tín dị đoan. Ai nói “cộng sản không tín ngưỡng” là không nhìn thấy thực tế. Vô số cán bộ cũng rước tượng phật, tượng đức Mẹ về nhà xì xụp cúng bái và cũng đi cúng vong, cầu hồn, coi đồng cốt, bói toán, v.v. Cán bộ càng cao cấp thì tượng phật càng to lớn, cúng kiếng càng nhiều tiền, đốt vàng mã càng “hoành tráng”, đi cầu khẩn “xác cô” “vía bà” càng thường xuyên vì có đầy đủ phương tiện.
Hiện tượng “nhà ngoại cảm” là một thí dụ. Hiện tượng nầy không hề được mấy ai biết đến trong những năm còn đói nghèo nhưng ngày nay đang tràn ngập từ bắc vô nam và được cả nhà cầm quyền chính thức công nhận và sử dụng. Mê tín dị đoan đi đôi với ngu dốt. Chính quyền Việt Nam không có khả năng hay ý thức để kéo dân trí ra khỏi bãi bùn lầy mê tín dị đoan vì phần lớn chính họ cũng đang lặn ngụp trong bãi bùn lầy đó.
Những người phản đối việc chỉ trích những sai trái trong tôn giáo là những người góp phần bịt mắt bịt tai người dân và dung túng những tệ nạn đó. Nếu chỉ đứng từ xa kêu gào hô hào lật đổ chính quyền thối nát mà không chịu cố gắng sửa đổi bại phong hủ tục cùng vung bồi dân trí và nhân trí trong xã hội thì làm sao hy vọng thành công?
Tôi biết rằng ngay cả với sự tiến bộ vượt bực của khoa học kỹ thuật ngày nay, vẫn có nhiều hiện tượng mà không ai có thể giải thích thỏa đáng được. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng ta nên kết luận rằng các hiện tượng nầy “huyền bí” hay “thiêng liêng”.
Nhiều người tin rằng có các đấng thiêng liêng có thể phù hộ họ trong lúc họ sống và cứu rỗi họ về một cõi vĩnh cửu sau khi họ chết. Niềm tin nầy đem lại một sự an lành cho tâm linh họ. Tuy vậy, theo tôi cho đến nay chưa có bằng chứng khách quan và thỏa đáng cho thấy có đấng thiêng liêng nào phù hộ, cứu rỗi ai cả. Tôi cũng không nghĩ rằng mỗi cá thể chúng ta sẽ còn tồn tại vĩnh viễn sau cái chết. Hiểu được, và quan trọng nhất là chấp nhận được, sự kiện nầy đem lại tự do và sức mạnh tâm linh cho tôi.
Có nhiều người còn cho là tôi làm việc cho cộng sản khi thấy tôi chỉ trích tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo. Những người đó dùng lối suy luận sau đây: 1/ Cộng sản bài kích tôn giáo, và 2/ Tôi “bài kích” tôn giáo, do đó 3/ Tôi là cộng sản. Theo tôi, điều nầy chỉ cho thấy rõ sự yếu kém trong kiến thức cơ bản của họ về quy tắc Tam Đoạn Luận.
Có người cũng cho rằng vì chính quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo cho nên mặc dù tôi không phải là cộng sản nhưng khi đả kích tôn giáo là tôi đang vô tình giúp sức cho cộng sản. Theo tôi thì đó không phải là một lý do chính đáng để im miệng chịu đựng những điều tàn tệ, những lỗi lầm trong tôn giáo mãi mãi.
Tôi đã rất nhiều lần đắn đo không biết những bài viết của tôi sẽ đem lại những ích lợi và những tai hại gì đến người đọc; và các ích lợi đó có đáng kể bao nhiêu so với các tai hại, nếu có. Tôi biết rằng một số bài viết của tôi sẽ làm nhiều người phẩn nộ vì họ cho rằng tôi xúc phạm đến các niềm tin thiêng liêng của họ. Đây có lẽ là điều làm tôi băn khoăn và áy náy nhất. Tuy nhiên, tôi hy vọng là những người nầy sẽ dần dà nhận hiểu ra được đây chỉ là một điều bất đắc dĩ mà tôi phải làm; không ai muốn bỏ công sức và thời giờ ra để cố ý gây hiềm khích và tự chuốc phiền hà vào mình. Tôi chỉ nghĩ những người nầy nên nhận biết rằng liều thuốc an thần của họ có nhiều phản ứng phụ và các phản ứng phụ nầy đang gây ra những ảnh hưởng xấu lên thế giới của tôi, cũng như của họ.
Tôi biết rằng bất kể tôi nói gì hay giải thích gì đi nữa thì những tín đồ sùng đạo triệt để vẫn sẽ bác bỏ các lý luận của tôi để bênh vực tôn giáo của họ và tiếp tục tin theo những gì họ muốn tin. Tôi hiểu rằng một cây nến không thể nào là đối thủ của bóng tối. Tôi hiểu rằng một ngàn cây nến cũng không thể nào là đối thủ của bóng tối. Một căn phòng tối cần phải có một cánh cửa ăn thông với ánh sáng bên ngoài. Tuy vậy nếu phần lớn những người sống trong phòng sợ chói mắt và nguyền rủa ánh sáng thì việc mở cửa ra chỉ là một ảo tưởng.
Có những người trước đây đã thắp lên các ngọn nến của họ trong căn phòng tối nầy. Vì vậy sau khi cân nhắc tôi đã quyết định sẽ cố thắp lên ngọn nến của tôi. Ít ra là cho chính tôi.
(Nguyễn Nhân Trí)
Thấy hình chụp dải ngân hà (milky way) của một nhiếp ảnh gia ở Mỹ, tôi có vài suy tư, xin chia sẻ ở đây. Nhớ lại nhiều năm trước, có lần tôi đến tịnh tu vài ngày tại Tu viện Bodhinyana, Tây Úc. Ban đêm, bước ra ngoài nhìn lên trời, thấy cả một bầu trời đầy sao sáng như thế này, không một bóng mây. Tiếc rằng lúc đó không có máy ảnh để ghi lại, nhưng cũng tương tự như ảnh kèm theo đây.
Rồi bâng khuâng suy nghĩ. Như chúng ta đều biết, mỗi ngôi sao như thế là một mặt trời, đang cháy sáng. Chung quanh mỗi mặt trời (sun) là những hành tinh (planet), tạo thành một thái dương hệ (hệ mặt trời, solar system). Chúng ta đang ở trên trái đất nầy, là một hành tinh của một hệ mặt trời. Có vô số hệ mặt trời tương tự như thế.
Trong các hệ mặt trời của vũ trụ nầy, có thể có những hành tinh có đủ điều kiện sống – oxygen, nước, nhiệt độ, ánh sáng, v.v. – như trái đất của chúng ta, và như thế, ắt là có những chúng sinh tương tự như loài người chúng ta đang sinh sống ở đó. Có vô số ngôi sao nghĩa là vô số mặt trời, nghĩa là vô số hành tinh trái đất, nghĩa là vô số chúng sinh tương tự như loài người.
Như thế, vấn đề một ngày nào đó, trái đất nầy sẽ bị tiêu hoại là chuyện có thể xảy ra, nhưng không có gì là quan trọng, không đáng để quan tâm. Bởi vì nếu trái đất nầy có nổ tung, loài người ở đây có thể bị tiêu diệt, nhưng rồi các chúng sinh nầy sẽ tái sinh vào trái đất của các thái dương hệ khác, vẫn lẩn quẩn trong thế giới Ta-bà vô thủy vô chung, nếu chưa giác ngộ giải thoát.
Do đó, câu hỏi người ta thường đặt ra để thảo luận “Con người từ đâu đến, chết rồi sẽ đi về đâu?” cũng không đáng để bàn luận – nếu ta chấp nhận thuyết tái sinh và thông hiểu bản chất của vũ trụ với vô số hệ mặt trời.
Hơn nữa, khái niệm về vô số thái dương hệ trong vũ trụ giúp ta hiểu được do đâu dân số trên trái đất này càng ngày càng gia tăng, vì có thể chúng sinh ở các thái dương hệ khác được tái sinh về đây.
Ngay cả trên trái đất nầy, mình chỉ là một đơn vị nhỏ bé trong số 7 tỷ người đang sinh sống. Huống hồ gì khi nhìn vào vũ trụ bao la với vô số hành tinh trái đất! Mình không là gì cả, không có nghĩa lý gì cả. Sống hay chết, dù có làm được cái gì, cũng không quan trọng, cũng chẳng có tác động gì cả. Kiếp sống con người quá ngắn ngủi so với thời gian, không gian, và lịch sử biến động của vũ trụ.
Chẳng có gì là quan trọng. Tất cả đều là do cái tâm si mê, vô minh nầy khuấy động lên. Có lẽ điều quan trọng duy nhất là làm sao sống an vui, tĩnh lặng ngay bây giờ, trong giây phút nầy, tại nơi đây.
(Bình Anson, https://budsas.blogspot.com/2018/08/...oi-nho-be.html)
Thuật ngữ "tái sanh" là thuật ngữ vay mượn. Đức Phật không có chủ trương luân hồi, tái sanh.
Chỉ có các Hành nối tiếp các Hành, làm sở duyên cho Thức có mặt, an trú và tăng trưởng. Như vậy là toàn bộ Khổ uẩn tập khởi. Khi các Hành chấm dứt, Thức không còn sở duyên để có mặt, an trú và tăng trưởng. Như vậy là toàn bộ Khổ uẩn này đoạn diệt.
Giải thích như thế này là cách hướng hành giả đến quả vị alahan. Nhưng khi chưa đến quả alahan thì hanh giả vẫn đi tái sinh chứ .
Bạn SMC thử nghĩ xem khi ông Cấp Cô Độc bỏ sắc thân này thì ông sinh lên cung trời. Vậy ông có tái sinh không? Nếu ko tái sinh thì cái gì đưa ông lên trời?
- Nữa hả...
Không có hướng ai đến đâu hết. Mà đức Phật đang dùng ngôn từ thế gian để miêu tả "sự thật tuyệt đối". Sự thật là các Hành nối tiếp các Hành, làm duyên cho Thức khởi sanh, tăng trưởng, truyền thừa. Thức có mặt làm duyên cho Danh Sắc tập khởi.
Chữ "tái sanh" tạm mượn, chứ tôi có nói "không có sự tái sanh" sao? Tôi khẳng định lại: Có tái sanh, nhưng từ tái sanh chỉ tạm mượn (dùng ngôn từ, hình ảnh Tục-đế, thế gian) để chỉ bày Chân-đế (chân lý).
Tức là: thuyết pháp cho phàm phu (nhất là người thích đầu thai như bạn) để họ có thể hiểu, thì đức Phật dùng từ tái sanh (hoặc đầu thai nếu tôi thuyết pháp lại cho người đạo ông bà, tin có địa ngục dưới lòng đất, Diêm Vương, Hắc Bạch Vô Thường...). Nhưng bản chất sự chỉ là sự tiếp nối của các Hành làm duyên cho Thức có mặt, tăng trưởng, truyền thừa.
Mình thấy giống như một đám mây, sau một thời gian ta vẫn thấy đám mây đó - nói là "đám mây đó" nhưng thực ra đám mây thay đổi liên tục và không còn là đám mây cũ nữa (về hình dáng, tính chất v.v.). Cái mà ta gọi "đám mây đó" chỉ là một cách gọi, thực chất không có đối tượng cố định nào có thể được gọi là "đám mây đó" cả ==> ta nói đám mây là vô ngã.
Cũng vậy, toàn thân và tâm (danh và sắc) của con người là sự tụ tập của 5 uẩn (uẩn = nhóm họp); các uẩn này cũng không thường hằng, luôn luôn thay đổi nên cái gọi là con người chỉ là một sự định danh. Cũng như khái niệm đám mây - không có thực thể cố định đằng sau sự tụ tập của 5 uẩn ==> con người là vô ngã.
Mình nghĩ nói luân hồi, tái sanh cũng đúng khi ta nhìn các đối tượng với tính cách đối tượng ở thời điểm sau là hệ quả của đối tượng ở thời điểm trước; và nếu bạn MINH SANG nhìn con người là một dòng chảy liên tục và luôn biến đổi của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thì chúng đang luân hồi và tái sanh ngay trong từng khoảnh khắc. Trong khi đó nói không luân hồi tái sanh thì có lẽ đúng bản chất hơn vì có bản ngã nào tồn tại sau mỗi đối tượng đâu mà luân hồi và tái sanh.
"Không ai tắm hai lần trên một dòng sông"
Có vẻ triết học và chánh Phật pháp có tương đồng! Cũng như vậy nếu nghiên cứu về khoa học, ta cũng thấy khoa học và chánh Phật pháp cũng có nhiều điểm tương đồng! Chỉ những kẻ u mê tin theo ngoại đạo mạo nhận cứ mãi bám chấp vào tà pháp thì sẽ thật khó hiểu cho họ!
Bạn ơi, cũng giống như mình, trước kia khi mới bước chân vào đạo Phật thì cũng có biết đâu vào với đâu - trong đạo Phật có nhiều thứ quá, nhiều quan điểm quá; rồi qua tìm hiểu thực hành trao đổi mới dần dần hình thành nên một hướng đi, một hướng suy nghĩ cho mình trong đạo Phật.
Ai trước khi đi mà chẳng phải học bò. Nên với những người mới đến với giáo pháp của đức Phật, hay cả với những người cũ, mình cứ dùng những lời ái ngữ khi nói chuyện, khi thảo luận. Đức Phật chẳng dạy 6 phép lục hòa để giữ đoàn kết tương thân tương ái với nhau đấy thôi. Nếu không như vậy Phật Giáo có thể tan nát hết.
Mình tu theo đạo Phật trước hết là lợi ích cho mình, nhưng mình cũng mong muốn những người khác cũng được hưởng những điều cao thượng và tuyệt vời trong giáo pháp của Ngài. Diễn đàn giống như một tăng đoàn nhỏ - nói theo một nghĩa hẹp, toàn là huynh đệ với nhau, là những người có nhân duyên/nhân quả với nhau, vậy lòng mình có vui gì khi những điều mình nói, giả sử là đúng, lại làm tổn thương đến người khác.
Vậy nên, mình nghĩ chúng ta trao đổi, nói lên những điều mình cho rằng là không đúng trong đạo Phật, nói lên những nghi vấn của mình trong đạo Phật, nói lên những lập luận mình nghĩ có thể là chưa đúng của huynh đệ nào đó trong diễn đàn v.v. nhưng những điều đó nên là với những lời từ ái, và với tâm từ dành cho người trao đổi - như vậy chẳng phải hay biết bao bạn nhỉ!
Mình viết những dòng trên khi thấy trong diễn đàn có những đối thoại gay gắt, mình không có ý dạy ai và tự cảm thấy xấu hổ khi mình không làm được như mình viết, thôi thì nêu ra cũng là nhắc nhở bản thân khi tham gia diễn đàn.
Kính chào bạn!