*CHÚ PHỤNG THỈNH 5 BÀ - CUNG THỈNH NGŨ HÀNH THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG CHƠN NGÔN:
ỐT MÔ LĂNG DA QUA TÌ CA, SI TA NA CUM BA LA SI HỀ ( 5 lần )
[ Trích từ BÙA CHÚ GIẢNG GIỚI, Nguồn: http://www.mediafire.com/download/9r...oi+182_298.pdf ]
Printable View
*CHÚ PHỤNG THỈNH 5 BÀ - CUNG THỈNH NGŨ HÀNH THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG CHƠN NGÔN:
ỐT MÔ LĂNG DA QUA TÌ CA, SI TA NA CUM BA LA SI HỀ ( 5 lần )
[ Trích từ BÙA CHÚ GIẢNG GIỚI, Nguồn: http://www.mediafire.com/download/9r...oi+182_298.pdf ]
BÀ CỐ HỶ - THÁNH ANH LA SÁT - BÀ HỎA
http://dised.danang.gov.vn/LinkClick...50%3D&tabid=61
五行娘娘
( Nguồn: http://www.fengtipoeticclub.com/tchau/tchau-a019.html )
http://cdn.sieuthitranhdep.vn/wp-con...uong-nuong.jpg
我把童年的一節記憶
遺留在某一段時間
母校旁邊的
一宅破舊不堪的
五行廟裡
刀光劍影
舞台上粉墨登場的
花旦小生
唱著比改良劇更古老的
節日神戲
煙香彌漫
鳴鼓聲與人聲交響的震盪
擾亂不了我和妳
兩小無猜已被神化的
童心
多年以後
我衹記得什麼是
金木水火土
卻忘記去追究
五行娘娘到底是什麼神?
可回憶的角落裡
總隱藏著一雙
含情脈脈的
水汪汪的大眼睛
如娘娘的溫柔凝眸下
扶帶我走過
學生的童年
2008.12.2寫於休士頑
*BÀ THỔ = HẬU THỔ NƯƠNG NƯƠNG
Ngày 18/3 âm lịch: Vía BÀ THỔ ( BÀ THỔ = HẬU THỔ NƯƠNG NƯƠNG ) theo Link: http://www.maiyeuem.net/topic/39110/...h---Suu-Tam/15
*BÀ THỦY = THỦY LONG THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG ( Có lần Điển Bà về, Bà nói ra, thì tôi mới hiểu rằng: MIẾU BÀ THỦY và MIẾU BÀ THỦY LONG; tuy 2 mà 1 vậy ! )
Ngày 21/2 âm lịch: Vía BÀ THỦY ( BÀ THỦY = THỦY LONG THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG ) theo Link: http://vanhoaphuongdong.co/threads/c...ong-nam.12075/
Theo đúng tục lệ thì lễ vía Ngũ Hành Nương Nương là vào ngày 19 tháng Ba âm lịch hằng năm
( http://www.trietvan.com/phamviethung/tucthonguhanh.htm / http://ttntt.free.fr/archive/phamngad.html )
*Theo Link: http://www.saigondautu.com.vn/pages/...ong-nuong.aspx
Bên cạnh đó, truyền thuyết kể lại rằng, những yếu tố cơ bản sinh ra vạn vật cũng đều được xem là mẹ: Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Cây, Mẹ Trời…, vì thế mà có niềm tin trong mỗi cõi Trời, Đất, Rừng, Biển đều có 1 Vị Nữ Thần cai quản. Năm vị Tiên Nương là đại diện cho 5 yếu tố cơ bản trong Ngũ Hành: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, cai quản càn khôn, ban phát tài lộc cho bá tánh, phạt kẻ ác tâm, độ người hiền đức. Đó là 5 Vị:
1. BÀ KIM: LÊ SƠN THÁNH MẪU ( 梨山聖母 - 驪山聖母 - 骊山圣母 - 骊山老母 )
2. BÀ MỘC: LINH SƠN THÁNH MẪU ( 灵山圣母 - 靈山聖母 )
3. BÀ THỦY: CỬU THIÊN HUYỀN NỮ ( 九天玄女 )
4. BÀ HỎA: CHÚA TIÊN CHÚA NGỌC ( 主仙主玉 )
5. BÀ THỔ: THÁNH ANH LA SÁT ( 圣婴羅刹 - 聖嬰羅刹 )
*Theo: http://adatfa.blogspot.com/2012/07/v...m-tong-bo.html
46. KINH HỘ LÊ SƠN THÁNH MẪU TRỪ TÀ:
Cấp cấp Lê Sơn Thánh Mẫu
Án: Me la hoa, me la há tri chì ri
Thiên linh linh Địa linh linh
THẦN TIÊN PHẬT THÁNH linh linh
Sát quỷ trừ ma vật lộng hình
Ám chủ ca ra da tá ha.
Tín ngưỡng đối với các vị thần độ mạng
( https://dongthap.gov.vn/wps/wcm/conn...8/than+do+mang / http://thegioivohinh.com/diendan/sho...0NG-L%C3%80-AI )
Theo đạo giáo, mỗi con người có một mạng (số mệnh). Mỗi mạng do một thần độ trì. Phải nhờ thầy cúng (trong thực tế một số nhà sư cũng làm việc này), để biết mình thuộc mạng gì và do vị thần nào phù hộ. Đàn ông thờ thần độ mạng phải theo thập can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, qúi), đàn bà phải theo thập nhị chi (tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi). Nghi thức thờ rất đơn giản, trên trang thờ chỉ có bài vị hay tranh tượng (có bán ở chợ) với bộ chân đèn, bình hoa, lọ cắm nhang, thường thắp nhang, xá mỗi tối.
a. Thần độ mạng cho đàn ông:
- Quan thánh Đế quân: Còn gọi là Quan đế, Xích đế, Quan công, Quan thánh đế... Đây là một nhân vật lịch sử Trung Quốc sanh năm 162 sau công nguyên, mất năm 219. Tranh tượng là người mặc triều phục màu xanh thẩm, mặt đỏ, râu năm chòm dài đến ngực. Phía sau có hai người; một là Quan Bình (con nuôi cùng chết với ông khi ông bị bắt) hai là Châu Xương mặt đen, tay cầm thanh long đao, một vũ khí lừng danh của Quan Công. Vía sanh cúng ngày 13-1 âm lịch, vía cử cúng ngày 24-6 âm lịch. Thờ Quan công không phải chỉ với nội dung sùng bái một võ tướng mà còn là biểu tượng của lòng chung thủy, trọng danh dự, sự dũng cảm, cương trực. Người ta tin rằng ông đã hiển thánh và hộ trì cho phái nam. Căn cứ vào tranh tượng Quan công còn nhiều danh xưng khác như Ngũ vị Quan công, Ngũ công vương Phật.
- Ngoài ra, cũng có hộ thờ Quan Bình, Tử vi Đại đế, Cậu Tài (Trài), cậu Quý
b/. Thần độ mạng cho đàn bà (bà độ mạng hay bà mẹ sanh):
- Nhóm chịu ảnh hưởng văn hoá Chăm:
+ Chúa Tiên, Chúa Ngọc nương nương; đều là nữ thần Thiên y A na Diễn Ngọc Phi tức thần mẹ xứ sở của người Chăm là Pô Inư Nưgar, được coi là thần độ mạng cho nữ giới. Tranh tượng là người đàn bà hai bên có hai nữ hầu cầm quạt, có hàng chữ Hán ghi chúa Tiên nương nương hay Chúa Ngọc nương nương.
+ Chúa Xứ nương nương: Tức bà Chúa Xứ núi Bà Đen, được triều Nguyễn phong hàm Linh Sơn Thánh mẫu. Tranh tượng vẽ một người đàn bà với bốn chữ Hán “Linh sơn Thánh mẫu”.
- Nhóm chịu ảnh hưởng văn hoá Hoa:
+ Cửu thiên huyền nữ: (như đã trình bày ở phần tổ nghề)
+ Thiên hậu thánh mẫu: Là người thuộc tỉnh Phước Kiến (Trung Quốc), được sanh ra trong một gia đình buôn bán bằng đường biển. Bà mất năm 987 khi chưa lập gia đình; sau đó hiển linh cứu sống nhiều người đi biển gặp nạn, được hoàng đế Trung Hoa phong nhiều danh hiệu, trong đó có tước Thiên hậu Thánh mẫu, thần độ mạng cho nữ giới. Tranh thờ là một người đàn bà với bốn chữ Hán “Thiên hậu Thánh mẫu”.
+ Ngũ hành nương nương: là năm vị thánh mang tên: Kim đức thánh phi, Mộc đức thánh phi, Thủy đức thánh phi, Hỏa đức thánh phi, Thổ đức thánh phi. Dân gian tin rằng năm vị có quyền năng trong các lĩnh vực liên quan đến vàng bạc, cây gỗ, nước, củi lửa và đất đai. Tranh thờ là năm bà mặc năm màu áo khác nhau: xanh, đỏ, vàng, tím, lục, bà mặc áo vàng ngồi ở giữa.
Theo quan niệm ngũ hành của Trung Quốc, hành thổ (đất) ở trung tâm (chính giữa, màu vàng); phảng phất bóng dáng quan niệm tôn thờ Mẹ đất của tâm thức tín ngưỡng cổ sơ. Ở đây dường như có sự hội tụ với tâm thức tín ngưỡng Mẹ xứ sở (Pô Inư Nưgar) của người Chăm trong tín ngưỡng thờ bà Chúa Tiên Chúa Ngọc, Chúa Xứ. Tín ngưỡng Mẹ đất hay Mẹ xứ sở, không chỉ là thần độ mạng cho nữ giới mà còn là Chủ đất với chức năng tương tự như thần Thành hoàng bổn cảnh hay ông Địa.
+ Kim hoa thánh mẫu: tức bà mẹ thai sanh, có chức năng về việc tạo ra con người của Trung Quốc, được coi là thần độ mạng cho nữ giới. Tranh thờ vẽ 12 nữ thần, tượng trưng cho 12 bà mẹ ứng với thập nhị can (12 con giáp); người hiếm con thường khấn bà để cầu tự. Tín ngưỡng thờ Kim hoa thánh mẫu còn thấy trong thần thoại Việt Nam với truyện Mười hai bà mụ.
+ Thánh anh La sát: Cũng còn gọi là bà La sát.
+ Lục cung thánh mẫu: tranh tượng vẻ hình người đàn bà mặc y phục màu đen đứng trên quả cầu.
+ Chơn y thánh mẫu: Tranh tượng vẽ hình người đàn bà mặc y phục màu đen, đứng trên toà sen có hào quang toả sáng trên đầu.
+ Bà Tổ cô: Hình thức thờ cúng giống như thờ bà độ mạng. Đây là vị gia thần riêng của gia đình, vị này thường là chị hay em gái của ông (ông nội, ông ngoại, ông chú, ông bác...) trong giòng họ, qua đời lúc còn trẻ chưa lập gia đình, thường giáng họa phúc cho con cháu trong nhà. Bài vị chỉ viết hai chữ Hán “Tổ Cô”, mỗi tối thắp nhang, thay nước cúng, hàng năm cúng lễ vào ngày đám giỗ của vị này. Ở Đồng Tháp có 15% hộ thờ Tổ Cô; cá biệt có một số hộ, bà tổ cô là liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ.
Kim Bà thì mặc áo trắng, Mộc Bà áo xanh, Hỏa Bà áo đỏ, Thủy Bà áo đen (hoặc tím) và Thổ Bà thì áo vàng.
http://www.baobinhthuan.com.vn/vi-vn....aspx?id=65476
http://www.hoalinhthoai.com/forum/showthread.php?p=735
Miếu ngủ hành Hy Hòa
Thứ hai - 17/10/2011 10:21
( http://www.hoianworldheritage.org.vn...Hy-Hoa-478.hwh )
Miếu Hy Hòa không biết xây dựng năm nào, ngay tên miếu cũng lấy theo tên gọi của phổ lập miếu: Hy Hòa, thuộc làng Minh Hương xưa. Người dân phổ này chuyên làm lịch và hàng mã.
Miếu tọa lạc tại số 6 Nguyễn Thái Học, khối An Định, Phường Minh An
Cũng như cư dân các vùng trên cả nước, cư dân Hội An xưa cũng hướng về đa thần, tin rằng trong tự nhiên có thần cai quản trong đó có nữ thần chưởng quản Ngũ hành với tên gọi là Ngũ Hành Tiên Nương. Miếu Hy Hòa thờ chư vị thần này.
Nhìn lên cổng chính tam quan miếu sẽ thấy ba chữ:
五 行 門
NGŨ HÀNH MÔN
Hai bên có hai tiểu đối:
東 成 - 西 就
ĐÔNG THÀNH - TÂY TỰU
Các cặp đối ở trụ cổng:
Thắng cảnh lâu dài thiên cổ tú
Thái bình thủy nguyệt vạn niên xuân
Mỹ lệ lâu đài ngàn thuở đẹp
Hòa Bình trăng nước vạn năm xuân
Thần nhân sở xá y nam bắc
Tiên nữ du cư tỳ cổ kim
Thần nhân thờ tự nam như bắc
Tiên Nữ độ trì xưa đến nay
Hoành phi ghi: SẮC NGŨ VÂN TƯỜNG
Gian giữa miếu thờ năm bài vị:
金 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Kim đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
木 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Mộc đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
水 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Thủy đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
火 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Hỏa đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
土 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Thổ đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
Và bài vị:
明 天 依 阿 娜 主 玉 聖 女 神 位
Minh Thiên Y A Na chủ ngọc thánh nữ thần vị
(Đây là bài vị thần chủ nhưng hiện nay được an vị ở hàng bên như vị trí phối tế là chưa đúng)
Bên cạnh các bài vị trên còn phối thờ thêm hai bài vị:
奉 為 亡 祖 姑 穎 川 郡 陳 氏 之 神 位
Phụng vị vong tổ cô, Dĩnh Xuyên quận, Trần thị, chi thần vị
Bài vị phụng thờ vong hồn bà tổ cô họ Trần, quận Dĩnh Xuyên
奉 為 亡 祖 姑 蔡 氏 紅 娘 令 神 位
Phụng vị vong tổ cô, Thái Thị Hồng Nương, lệnh nữ thần vị
Bài vị phụng thờ Tổ cô, bà Thái Thị Hồng, lệnh nữ
Câu đối trụ tiền đường ghi:
Hiển hách anh linh chân thánh nữ
Chiêu chương đức hóa thị tiên nương
Hiển hách anh linh là thánh nữ
Sáng soi đạo đức chính tiên nương
Trước năm 1975 khoảng sân này bị che kín và miếu này ít được ai nhắc đến tên Hy Hòa mà chỉ đơn giản gọi là... Miếu Ông Sáo!!
Thực ra thời đó ông Sáo còn sống, do chạy tránh tên bay đạn lạc, năm Mậu Thân 1968 ông Sáo đem bầu đoàn thê tử xin trú tạm trong miếu này. Gia đình ông ở phía sau miếu, phía trước bán cơm.
Nhưng xa hơn nữa vào những năm trước 1945, miếu này là một "trường tư" dạy chữ Nho. Thầy đồ là ông Tư Cung người ở ấp Trường Lệ dưới.
Hàng ngày ông Tư đến miếu vào buổi sáng, sắp xếp dụng cụ sách vở rồi ra chợ dùng cơm trưa và "đong" một giấc, đến chiều mới dạy học.
Sách dạy chữ Nho chia làm 3 loại gồm
Sách mỗi hàng 3 chữ gọi là QUYỂN 1,
Sách mỗi hàng 4 chữ gọi là QUYỂN 2
Sách mỗi hàng 6 chữ gọi là QUYỂN 3
Quyển 1,2,3 mỗi quyển lại chia thành ba quyển nhỏ, học xong 3 quyển 1,2,3 hết 3 năm.
Mỗi năm có 3 lần thi kỳ (mỗi ba tháng) và một lần thi hội. Kiểm tra thi, thầy rút ra một quyển nhỏ rồi đọc bất kỳ hai chữ liền kề, trò phải đọc tiếp cho đến hết quyển.
Ông Hồ Viết, tên tự, do thầy đặt, là Hồ Xuân Quang còn có tục danh là Ký. Ảnh chụp trong một lần điền dã tìm mộ bà thứ phi ở Cẩm Thanh năm 2010.
Chú Ký từng theo học với thầy Tư Cung tại miếu Hy Hòa từ trước năm 1945. Gần 5 năm dùi mài mới nuốt xong ba quyển lớn. Sau đó "quẳng bút lông đi, viết bút chì" được một năm thì Nhật đảo chính.
Chú Ký kể, thời đó tui còn nhỏ chưa biết cái vinh dự "Võng anh đi trước, kiệu nàng theo sau", chỉ mơ học giỏi thành ông Tú.
Hãnh diện lắm, thời đó mà "Ông Tú về làng y như... Thành Hoàng về miễu".
Miễu và lễ hội cúng bà
Theo tài liệu khảo sát năm 1997, ở Đồng Nai có 198 miễu các loại; như vậy, miễu đa dạng và số lượng nhiều hơn đình. Đình gắn với cộng đồng làng thì miễu gắn với đình, chùa, cụm dân cư, vườn nhà của gia đình, hương lộ, hương thôn; nhân vật chính là mẫu.
Những năm 1960, Lương Văn Lựu ghi nhận: “Ngoài đình làng: Nhân dân trong ấp thường dựng lên những “Thổ Chủ” (miễu nhỏ), dưới cội đa hoặc cây to bóng mát, trên đường vắng, hay trong góc vườn để thờ Thổ Địa hay bà Chúa Tiên, Chúa Xứ, Liễu Hạnh và tùy theo ngày kỷ niệm của mỗi vị mà hành cúng hàng năm một cách thành kính” (1). Xét về hình thức, miễu ở Đồng Nai có mấy dạng chính:
- Miễu độc lập ở làng xã: Gắn với cụm dân cư trong làng ấp. Quy mô hơn các dạng miễu khác, thờ “thánh thần”, những làng, xã chưa có đình đều có lập miễu; dạng miễu này như là tiền thân của cái đình.
- Miễu ở đình, chùa: Là những miễu nhỏ ở khuôn viên đình, chùa; thường ở phía trước, thờ các vị Thổ thần, Sơn thần (thần Hổ), Thánh mẫu, Chiến sĩ trận vong.
- Miễu ở đất vườn: Gắn với các khu đất vườn, đất rẫy, đất ruộng của gia đình, thường thờ Bà và thần Đất; người địa phương còn gọi là Thổ Chủ.
- Miễu lẻ ven đường: Miễu do bá tánh lập lên ở ven đường, ven sông, hoặc dưới bóng cây, gò đất cảm thấy là linh thiêng thờ Thổ thần hoặc cô hồn không nơi nương tựa. Đa phần là miễu cô hồn.
Xét về đối tượng thờ cúng, nhận thấy thần điện của miễu đa tạp hơn đình, chùa. Có thể phân thành các dạng chính :
- Thờ vong hồn linh ứng: Những người chết “bất đắc kỳ tử” đều được tin là linh ứng, thường được thờ. Trong đó, các anh hùng, liệt sĩ hữu danh hoặc vô danh, có công hoặc có nhân cách cao được người địa phương thờ trang trọng nhất (như miễu Bình Hòa lập từ 1837 thờ 7 vị công thần chết trận trong binh biến Lê Văn Khôi, miễu cô hồn ở Dốc Sỏi (Bình Hòa) thờ 9 nghĩa sĩ trại Lâm Trung chống Pháp bị hành quyết...).
- Thờ các phúc thần: Thần Hổ, Rái Cá, Mãng Xà vương... là những linh vật giáng họa nhưng cũng được thờ ở đình miễu và được đãi lễ như là phúc thần, dạng này không nhiều, có sự tích hợp nhiều yếu tố, như miễu thờ Rái Cá ở Hòa Quới (Cù Lao Phố), đã hội nhập vào bàn thờ Lang lại đại tướng quân, miễu thờ rắn (Mãng xà vương) ở Mỹ Lộc (Tân Uyên) đã đổi dạng thành thờ Ngũ Hành; miễu thờ thần Hổ thì còn ít nhiều ở các đình, các làng còn đậm nét vùng sơn cước. Phổ biến là các miễu thờ thần Đất dưới dạng Thổ Chủ, Thổ thần hoặc Ông Tà.
- Thánh mẫu: Đa phần miễu ở làng, ấp cũng như ở đình đều có thờ Thánh mẫu, người địa phương quen gọi là thờ Bà. Các Thánh mẫu đã thâm nhập sâu vào đình, chùa, gia đình; lại chiếm lĩnh hầu hết thần điện của các miễu, chứng tỏ tín ngưỡng thờ nữ thần “sâu rễ bền gốc” trong tâm linh của cư dân Việt ở Đồng Nai.
Tục thờ cúng nữ thần gắn liền với cư dân Việt ở Đồng Nai từ buổi đầu mở đất, đồng hành với quá trình phát triển của xã hội, có sự tích hợp nguồn gốc nhập cư và nguồn gốc bản địa; có sự phát triển từ rời rạc vươn lên mang tính “đạo thờ mẫu” rồi lại địa phương hóa các mẫu được phụng thờ. Ở đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã chú ý đến đặc điểm này của đất Gia Định - Đồng Nai “...Nhiều người trung dõng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù hàng phụ nữ cũng thế, có nhiều giai nhân mỹ nữ, mà trong hạng người giàu sang, trường thọ khôn khéo cũng có xuất hiện tên tuổi của giới phụ nữ. Họ hay chuộng đạo Phật, tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần, như: Bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động (quen gọi người phụ nhân tôn quý bằng bà), bà Hỏa tinh, bà Thủy Long, và Cô Hồng, Cô Hạnh... “ (1).
Khảo sát miễu Bà ở Đồng Nai, Bà được thờ là một tập hợp các nữ thần có nguồn gốc và “lý lịch” khác nhau, được thờ cúng ở miễu tùy theo tâm niệm của mỗi nơi:
- Bà Âu Cơ: Bà mẹ “thủy tổ” của dân tộc, theo cư dân Việt vào Đồng Nai khá muộn, được lập miễu thờ vọng gắn với thờ Quốc tổ ở vùng đất mới khai phá sau 1954, thờ cúng đơn giản, lễ cúng chính vào ngày 10 - 3 âm lịch.
- Bà Ngũ Hành: Được thờ phổ biến nhất, đó là 5 vị nữ thần ứng với: Kim Đức Thánh phi, Mộc Đức thánh phi, Thủy Đức thánh phi, Hỏa Đức thánh phi, Thổ Đức thánh phi. Năm bà Ngũ Hành chỉ là ý niệm chung về các vị nữ thần có thiên chức phù trợ cho việc sản sinh và phát triển; không có thần tích cụ thể; ngày vía chính là 5 - 5 âm lịch. Ở những vùng nhiều hỏa hoạn, đông người Hoa, nhiều khi Bà Hỏa (Hỏa Đức thánh phi) được thờ riêng một miễu.
- Liễu Hạnh Công chúa: Nữ thần quen thuộc của cư dân Việt ở đồng bằng Bắc bộ, một thành viên trong Tứ Phủ được thờ ở miễu Bà dưới chân núi Gia Lào (thuộc địa bàn huyện Xuân Lộc), được cúng vía vào ngày rằm tháng 3 âm lịch.
- Bà Chúa Thượng ngàn: Một nữ thần của cư dân đồng bằng Bắc bộ, của Tam Tòa, Tứ Phủ theo cư dân Việt vào Đồng Nai khá sớm, còn dấu vết được thờ ở nhiều nơi, dần dần bị lẩn khuất trong hào quang của các Bà Ngũ Hành, chỉ còn rải rác một vài miễu thờ, như miễu thờ trong khuôn viên đình Thành Hưng (Biên Hòa). Bà được phối hưởng trong lễ cúng đình, không còn cúng ngày vía riêng.
- Chúa Ngọc nương nương, Chúa Tiên nương nương: Là biến thể của Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, mẹ xứ sở Po Inư Nagar của người Chăm; vừa được xem là thần độ mạng cho phụ nữ tại gia, vừa là thần nữ phù trợ cho cộng đồng. Lệ cúng vào ngày 3 tháng 3 (âm lịch) và các ngày rằm lớn.
- Chúa Xứ nương nương, Linh sơn Thánh mẫu: Cũng cùng một gốc với Chúa Ngọc, Chúa Tiên nhưng có trú sở, lai lịch và thần tích riêng. Chúa Xứ được giải thích có nguồn gốc ở Châu Đốc, điện thờ chính ở Núi Sam (Châu Đốc, An Giang). Linh Sơn Thánh mẫu cũng vậy, tục gọi là Bà Đen, điện thờ chính ở núi Bà Đen (Tây Ninh).
- Thiên Hậu Thánh mẫu: Có nơi còn thờ với tự hiệu là Thiên Phi nương nương (như miễu ở đình An Hòa). Đây là vị nữ thần của người Hoa, họ Lâm gốc Phúc Kiến, được người Hoa đưa vào Nam bộ, hòa nhập với thần thánh địa phương trở thành một trong những vị thần bản địa. Vía Bà Thiên hậu ngày 23 - 3 âm lịch.
- Cửu Thiên Huyền Nữ: Vị thần mang ý niệm chung, người ta tin rằng Bà là nữ thần quyền uy tối cao, cai quản cả chín tầng trời. Cửu Thiên Huyền Nữ là vị thần độ mạng phụ nữ, đồng thời là vị thần khai sáng, dạy cho con người biết làm nhà hai mái, biết làm mộc, đóng thuyền; Lộ Ban, Lộ Bốc, thờ Bà làm thầy. Bà được thờ trong miễu khắp nơi, vía Bà ngày 9 - 9 trùng với ngày Cửu Trùng của người Hoa.
- Mẹ Thai sanh: Nguồn gốc là Kim Hoa Thánh mẫu của người Hoa, vị thần trông nom về việc sinh nở. Người Đồng Nai thờ Mẹ Thai sanh với quan niệm là “mười hai Mụ Bà và ba Đức Thầy”.
- Thủy Long Thần nữ: Gốc là một thần giếng, dần dần được quan niệm là một thần cai quản sông nước, gọi chung là bà Thủy. Trong quan niệm dân gian hiện nay, bà Thủy bao hàm cả chức phận của Hà Bá và có thể cũng là Thủy Đức Thánh phi trong bộ Ngũ Hành, cho nên ngày vía cũng là ngày 5 - 5 âm lịch.
- Quan Âm Bồ tát: Vừa là Phật bà vừa là thần nữ. Người địa phương quan niệm Quan Âm có họ hàng với các nữ thần, cùng chức năng cứu khổ, cứu nạn nhất là cứu nạn trên biển. Cho nên, Quan Âm được kéo ra khỏi chùa, gắn với các miễu, nhiều khi cũng được cúng đồ mặn như các nữ thần khác hoặc phối tự ở các miễu lẻ.
- Các nữ thần bổn địa: Vừa dung nạp những vị nữ thần nhập cư, người Biên Hòa - Đồng Nai vừa có xu hướng gởi gấm niềm tin của mình ở những nữ thần tuy không giàu thần tích nhưng gắn bó với mảnh đất mình đang sinh sống. Thị Vãi, một thôn nữ có tính cách khác thường, giàu lòng thương người được người địa phương yêu mến lập miễu thờ, và tên miễu gắn liền với tên núi ở Long Thành - Bà Rịa. Cô bóng Hiên chuyên việc bói toán nhưng thực lòng, khẳng khái, được người địa phương tin phục, lập miễu thờ ở Thiện Tân (Vĩnh Cửu), Ngày vía Cô 15 tháng 2 âm lịch. Cô Lê Thị Hồng, một trinh nữ chết trôi có tấm lòng yêu đất yêu biển Long Hải được ngư dân Long Hải thờ phụng ở Dinh Cô. Vía cô ngày 10 tháng 12 âm lịch.
Trịnh Hoài Đức có nhắc đến Cô Hồng, Cô Các trong Gia Định Thành thông chí, nhưng kết quả điền dã chưa tìm được cơ sở thờ cúng các cô này ở Đồng Nai, chỉ thấy có tên gọi trong văn cúng.
Việc bài trí điện thờ hết sức đơn giản, gồm bát nhang, bình bông, chén nước, chân đèn; những ngày cúng thì: Nước trong, bông tươi, nhang thơm, đèn sáng; lễ vật cúng có thêm bánh, trái, xôi, chè, thịt, thường là thịt vịt hoặc heo thu gọn thành thủ vĩ. Nhiều nơi vật thờ còn có thêm: gương, lược, trâm cài, quạt và một vài món trang sức khác của nữ giới. Những miễu độc lập thường có thêm Tả ban, Hữu ban; Nhị vị công tử, Nhị vị công nương, Cậu Chài, Cậu Quới. Có miễu đầy đủ bàn thờ chư vị như: Tiên sư, Thành Hoàng, thần Hổ, thần Nông, Chúa Tiên, Quan Âm Bồ tát như miễu Ngũ Hành ở Cái Vạn (huyện Nhơn Trạch). Vì là thờ nữ thần cho nên, án thờ dù nhỏ vẫn thường được trang hoàng sặc sỡ, có lọng che, rèm phủ. Câu đối xuất hiện nhiều nhất ở miếu Bà:
Vạn cổ đào hoa chiêu Thánh nữ
Thiên thu vân tập hội Thần tiên.
Về tượng thờ các Bà, trước kia rất ít miễu có cốt tượng, thường thờ đơn giản bằng chữ Hán vẽ trên tường hay dán trong khám thờ như: Ngũ Hành nương nương, Chúa Ngọc nương nương, Chúa Xứ nương nương; gần đây phát triển thờ cốt tượng bằng thạch cao, xi măng, gốm hoặc vẽ tranh lồng kiếng với lối sản xuất “hàng loạt” cho nên các Bà đều đồng dạng, trang phục lộng lẫy như nhau, chỉ khác ở tên gọi dành cho Bà này hay Bà kia. Riêng Bà Ngũ Hành là dễ nhận ra nhất với bộ cốt tượng đủ 5 Bà trong 5 sắc áo khác nhau: Xanh, đỏ, tím, vàng, lục với quan niệm cổ truyền rằng hành thổ màu vàng là trung tâm nên ngồi giữa.
Lễ hội cúng Bà ở mỗi miễu một khác, tùy vào ngày vía của mỗi Bà. Những ngày sóc, vọng, ngày Tết, ngày vía đất, các miễu Bà được mở cửa cúng một lễ nhỏ bằng nhang, đèn, bông, bánh trái. Ngày vía mới là lễ chính. Có nơi cúng thường niên như nhau, có nơi đáo lệ 2, 3 năm một lần. Lễ cúng vía Bà thường vào ban đêm (thuộc âm), do Ban tế tự của làng đứng cúng hoặc có khi do tổ chức Hội mẫu ở địa phương làm chủ lễ. Miễu thuộc hệ dân dã nên nghi thức cúng Bà không đóng khung theo khuôn phép điển lệ; cởi mở, sinh động hơn cúng đình. Tuy nhiên, nhiều địa phương vẫn áp dụng nghi thức cúng đình trong cúng miễu.
Lễ vật cúng đơn giản không nhất thiết phải heo sống, heo đen, xôi tinh khiết, cũng không nhiều kiêng kỵ như cúng đình; bình thường thì: Heo quay, heo luộc, mâm xôi, đèn nhang, vàng bạc, bánh trái; có thể cúng vịt; nghèo hơn thì cúng gà, xôi chè, heo thu gọn thành thủ vĩ, vịt quay... nói chung là tùy tâm, tùy sức. Dân làng thành tâm dâng cúng hoa, mâm vàng bạc, đồ trang sức.. đều được miễn là lòng thành.
Đêm trước ngày vía, có nơi đáo lệ hai ba năm hoặc năm năm một lần tiến hành lễ thay áo cho Bà như lễ mộc dục phổ biến. Khi tiến hành lễ này, Chánh bái, Bồi tế lên nhang đèn khấn vái xin phép Bà, rồi lui ra. Các phụ nữ “sạch mình” đã chuẩn bị sẵn nước thơm (nước lá sả, hương nhu, bông bưởi), dùng khăn sạch nhúng nước thơm lau khắp các tượng bà; khăn lau xong, vắt trả nước ra thau khác, cứ như thế cho đến khi sạch rồi thay cho Bà áo mới, áo cũ và khăn lau không được dùng việc khác, sau phải đốt.
Một số miễu lại có tục nghênh Ông ở đình về dự trước khi hành lễ chính; nghênh Ông bằng kiệu có lỗ bộ, dàn nhạc, Lễ sinh và Chánh tế, Bồi tế đi hầu. Lễ đón ở đình, lễ xong phải đưa về. Riêng lễ hội chùa Bà Thiên Hậu ở Thủ Dầu Một và ở Bửu Long thì thực hiện theo nghi thức của Đạo giáo, với nhiều nghi thức phức tạp; có đám rước Bà đi thăm Đình trước ngày lễ chính, có lễ phóng đăng, cúng thí, hát bội, đặc biệt có lễ bắc cầu ngầm ý đón Bà từ biển vào. Lễ bắc cầu vào lúc 0 giờ, đêm đầu tiên của lễ hội. Cầu là một tấm vải đỏ rộng khoảng 0,6 mét, nối dài từ hương án bên ngoài sân vào chính điện. Cách khoảng 15 mét; trên tấm cầu đỏ rắc đầy hoa giấy, vàng bạc. Ba vị Pháp sư tụng kinh cầu đón, lúc ngồi ở bàn lễ, lúc đi vòng quanh như đón Bà; Khi Bà đã vào chính điện thì “cầu” được cuốn lại trân trọng để trước án thờ. Lễ cúng Bà dịp tháng 3 năm 1995 ở chùa Thiên Hậu (Bửu Long), là lễ hội kéo dài 3 ngày do các Pháp sư chuyên nghiệp cùng với dàn nhạc lễ chuyên trách thực hiện với một hệ thống tiết mục nghi lễ nhiều đến mức đa tạp. Lễ cúng Bà Thiên Hậu như đã nêu là một hiện tượng riêng biệt, đáng suy nghĩ. Thông thường ở các miễu khác nghi thức hành lễ giản dị; dân dã hơn. Dự phần vào lễ hội cúng Bà phổ biến là Hát bóng rỗi, Chặp Địa - Nàng; một loại hình nghệ thuật truyền thống phổ biến ở Biên Hòa - Đồng Nai.
Hát bóng rỗi, Chặp Địa - Nàng vừa mang tính nghi lễ (để cúng) vừa để giải trí, vui chơi trong lễ hội; đó là hình thức diễn xướng tổng hợp, gồm nhiều tiết mục liên hoàn; đồng thời cũng có thể phân chia thành các tổ hợp tiết mục tùy chọn. Một chương trình đầy đủ của Hát bóng rỗi, Chặp Địa - Nàng, gồm 8 tiết mục chính, trong đó mỗi tiết mục có thể phân nhỏ, hoặc kéo dài nội dung sinh hoạt. Tiến trình của các tiết mục cũng có thể thay đổi thứ tự hoặc cấu thành nhiều chương trình khác nhau: 1. Lễ khai tràng, 2. Chầu mời - thỉnh tổ, 3. Mời tiên ra tuồng; 4. Phước lộc, 5. Trạng - Nàng xuống huê viên, 6, 7. Bóng múa, 8. Hát chặp.
Hát bóng rỗi, Địa - Nàng ở Đồng Nai thường gồm các tiết mục: 1. Khai tràng, 2. Chầu mời - thỉnh tổ, 3. Chặp Địa - Nàng, 4. Hát bóng rỗi.
Mở đầu cuộc hát luôn là Lễ Khai tràng nhằm mục đích khai mạc cuộc hát, do dàn nhạc bóng biểu diễn, gồm: Chiêng, trống, đàn nhị, kèn, sanh cái. Tiếp theo là các xấp hát Chầu mời - thỉnh tổ: Mời Bà, mời ông, mời tiên, mời các chiến sĩ về dự lễ; mỗi đối tượng có các bài hát phù hợp, các bóng có trí nhớ tốt và tài ứng tác nhanh, không cần hát hay cũng được tán thưởng. Thường thì các bóng cầm trống tum (trống con) gõ nhịp, thay nhau hát. Điệu hát vận dụng cả lý, vè, nói rỗi (nói lối) nhiều khi cả các làn điệu tuồng.
Sau Hát chầu là diễn Chặp Địa - Nàng. Chặp Địa - Nàng là chặp bóng - tuồng hài hước “tổng hợp kiểu cách diễn của bóng rỗi lẫn tuồng (hát bội)” thường gắn với lễ cúng miễu Bà hoặc miễu Thổ Địa. Cuộc hát chỉ có hai nhân vật (Địa và Nàng) theo cốt truyện đơn giản: Tiên nữ Hằng Nga vâng lệnh Tây Vương mẫu xuống trần để hái lộc cầu an cho dân chúng, nhờ Thổ Địa (Địa) dẫn đi đến huê viên để “khai mạch giếng tưới cây huê”. Địa được dịp làm khó, vòi vĩnh, đùa giỡn với tiên nữ. Lối diễn vừa theo bài bản vừa ứng tác; hát, nói, kể kết hợp với nhạc và vũ đạo tuồng; các bài hát chắt lọc từ tuồng và các làn điệu dân ca quen thuộc; hóa trang cũng theo phong cách tuồng hài...; ứng đối giữa Địa và Nàng vui nhộn, dẫn dắt câu chuyện tài tình khiến cho cốt truyện đơn giản trở nên thú vị. Các đoạn: Địa đòi ăn, Địa đau đẻ, Địa chấm chè.. làm nở rộ tiếng cười sảng khoái. Tính cách của Địa không chỉ vui vẻ, còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Với một manh chiếu trước điện Bà, xung quanh là dân làng không phân thứ bậc, Địa bộc lộ hết mình, đùa giỡn với Tiên nữ, châm biếm cả chư Tiên, chư Phật; Địa còn mang ý nghĩa đại diện cho khát vọng thịnh vượng, bình đẳng, có tính nhân bản của dân làng. Chặp Địa - Nàng vừa dứt, bóng múa liền tiếp theo.
Bóng múa vừa mang tính nghi lễ vừa nhằm mục đích giải trí. Các bóng thay nhau múa bông, múa dâng mâm vàng rồi tiếp theo là các tiết mục tạp kỹ. Múa bông nhằm dâng cúng bông như để mở đầu cuộc múa bóng; với chén (hoặc tô) bông trên đầu, các bóng múa xoay người, xoay vòng trước điện thờ rồi dừng để cho người thủ từ nâng chén bông đặt lên bàn thờ Bà. Dâng bông 3 lần rồi đến dâng mâm vàng. Chiếc mâm được trang trí bằng giấy ngũ sắc thành hình tháp (có lẽ mô phỏng tháp Chàm). Mâm vàng được đội đầu, nâng, lật trên tay; trên trán, tự nhích từ chân lên đầu; cuối cùng được đốt cháy. Tháp giấy trên mâm cháy xong là dứt múa dâng mâm vàng, các bóng (vốn ái nam ái nữ) chuyển sang các màn trình diễn đặc sắc, với tài nghệ tạp kỹ như xiếc: Múa ghế, múa khạp da bò, múa bông huệ, múa xe đạp, múa dao, múa xoay đĩa, rót rượu bằng đầu... chủ yếu là các kỹ thuật dùng đầu, trán, mũi, nhân trung nâng giữ vật nặng, vật phức tạp tạo thăng bằng và di chuyển trong vũ điệu theo nhạc lúc mau lúc chậm.
Với cách biểu diễn như thế, dễ dàng nhận ra nguồn gốc Chăm của múa bóng với vũ điệu dựa vào kỹ năng đội đầu. Điều này đã được Huỳnh Ngọc Trảng chứng minh qua phim tài liệu “Múa mâm vàng, cội nguồn và dung mạo” do Hãng phim Tư liệu sản xuất năm 1992. Trước đó nữa, Quách Tấn đã chỉ ra được lò đào tạo các bóng múa là xóm Bóng ở trước Tháp Bà, “nhưng lệ múa bóng ngày vía Bà đã bỏ từ thời Bảo Đại, trước đệ nhị thế chiến“.
Người Nam bộ thường có câu hát luyến tiếc:
Ai về xóm Bóng thăm nhà
Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn không?
Các tiết mục múa trò chơi, gọi là múa tạp kỹ dài - ngắn, nhiều - ít tùy theo không khí cuộc vui; dân làng thưởng nhiều thì sự hào hứng khiến các bóng múa hay, khéo, tận tình hơn, và ngược lại.
Các nữ thần được thờ tại miễu ở Đồng Nai phần lớn có nguồn gốc nữ thần biển, đánh dấu một hồi ức gắn với chặng đường gian lao hình thành các cộng đồng cư dân Việt ở Đồng Nai. Với một tập hợp nữ thần phức hệ như thế, Đồng Nai như là điểm hội tụ đồng thời cũng là nơi khuếch tán các hệ tín ngưỡng thờ nữ thần của miền Bắc, miền Trung, miền Tây, người Hoa và bổn địa. Tục thờ cúng nữ thần cũng cho thấy, cư dân Việt ở địa phương ít nhất cũng tìm được biểu tượng có ý nghĩa nhân bản hơn tư tưởng Nho giáo vốn xem thường phụ nữ.
Tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc bản địa có nhiều nét khác cư dân Việt, Hoa. Người Châu Mạ thờ thần Yang Nđu tối cao, cúng Yang Bri (thần rừng) vào mùa săn bắn; cúng Yang Hiu (thần nhà) cầu cho gia đình bình yên; quan trọng nhất là lễ cúng Yang Bơnơm (thần núi) và Yang Koi (thần lúa) với sinh hoạt cổ truyền của cộng đồng. Người Mạ không coi trọng trinh tiết, trai gái Mạ tự do tìm hiểu kết bạn, con cô con cậu có thể kết hôn; đám hỏi, đám cưới có già làng làm mai dong; sau cưới chú rể ở bên nhà gái sau đó mới ra riêng; luật tục truyền khẩu "nđrih" được thực hiện nghiêm, tội ngoại tình, chửa hoang bị phạt nặng. Khi có người chết, người làng làm lễ cúng Yang Bri xin cây đục làm hòm; hòm đưa vào nhà dài qua cửa lớn; xưa để lâu ngày mới chôn, người chết được chia của; thầy chang cúng tế theo nghi thức cổ, làng có đám tang kiêng cữ đi rừng 7 ngày; sau ba năm có lễ bỏ mả như phong tục các dân tộc Tây Nguyên.
Người Stiêng, Châu Ro có tập quán, tín ngưỡng tương tự người Châu Mạ, khác nhau ở tiểu tiết và tiếng nói, giống nhau ở quan niệm cổ truyền của cư dân cùng địa bàn cư trú Nam Trường Sơn.
(1) Biên Hòa sử lược, sách đã dẫn, trang 149.
(1) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, trang 4.
( http://dongnai.vncgarden.com/dhia-ch...g-xa-hoi/1-4-2 )
100 QUẺ XÂM BÀ
***
聖母靈籤100簽
http://hocthuatphuongdong.vn/index.php?topic=6561.0
xăm BÀ THIÊN HẬU
http://quachtrantuong.forumotion.com...m-ba-thien-hau
xăm BÀ THIÊN HẬU
http://quachtrantuong.forumotion.com...m-ba-thien-hau
【普傳太上道祖(老子、道德天尊( 清)、太上老君)心咒 】
二零一六年十二月三十一日 香港
普傳《太上道祖(老子、道德天尊( 清)、太上老君)心咒》
不肖三密佛子啤嘛榮遷埵智(蓮花尊 金剛)依師承訣竅敬謹撰造
此法乃由來自藏地、在華夏普傳無上 乘之「金剛上師諾那呼圖克圖」所傳
以下為祂對此法所作之開示:
「問:太上老君是否佛菩薩之化身?
答:太上老君是千手觀世音菩薩之化 。」
(手印暫不普傳)
種子字:「些」(seh)藏文(白色)
太上道祖心咒(摘一持誦則可):
A. 嗡,些,嘛哈咕嚕,呢喇嘛那加吔, 耳,沙嚕娃,司啲,吽吽,呸
Om,Seh,Maha Guru,Nira mana gaya,李耳,Saruwa,Sidi,Hum,Hum,Pei
B. 嗡,些,啤渣打喇嘛,呢喇嘛那加吔 李耳,沙嚕娃,司啲,吽吽,呸
Om,Seh,beh ja dara ma,Nira mana gaya,李耳,Saruwa,Sidi,Hum,Hum,Pei
https://www.mercyandwisdom.com/copy-of-5
二零一六年七月十八日 香港
普傳《至聖先師孔子誦修簡儀》
不肖三密佛子啤嘛榮遷埵智(蓮花尊 金剛)依師承訣竅敬謹撰造
此法乃由來自藏地,在華夏普傳佛門 上密乘之[金剛上師諾那呼圖克圖]所傳
以下為祂對此法所作之開示:
問:孔夫子是否佛菩薩之化身?
答:當然是佛菩薩化身。
問:孔夫子是何佛菩薩之化身?
答:孔夫子是文殊菩薩之化身。文殊 薩早已成佛,亦即是諸佛菩薩之化身 因漢(華夏)人均信仰孔夫子,故康 藏人稱漢(華夏)人是文殊菩薩的弟 ,對漢人有相當尊敬。
問:孔夫子是聖人,不知有無咒語?
答:有咒語,孔夫子之咒語有消滅年 日時分一切不祥災晦與百無禁忌功德
《至聖先師孔子誦修簡儀》
(一)淸淨端嚴身心,準備修法
誦三字明咒7/14/21遍,加持自身,修法處所及供品(若 有)
嗡,鴉,吽
Om, Ah, Hum
(二)將右手大拇指屈入掌中,至右 無名指末節,然後握拳,此乃金剛拳 (道教稱為[握固印])
誦文殊菩薩護身咒七遍
嗡,司廉(两字連音讀),吽
Om, Silim, Hum
接着以金剛拳印觸碰額頭,喉嚨,心 ,右肩,左肩(依此順序),然後在 頭將手印散開
(三)合掌至誠念誦如下:
那摩十方三世常住一切上師三寶
(三稱,亦即[念三遍],下同)
那摩大智文殊師利菩薩摩訶薩(一稱 [訶]字讀[呵])
那摩至聖先師孔子(三稱)
那摩金剛上師諾那呼圖克圖(一稱)
那摩蓮花龍尊黄公念祖金剛上師(一 )
我與無餘眾有情,直證菩提永皈依
仰懇時刻垂護念,自覺覺他祈加持
(三稱)
(四)雙手結文殊菩蕯慧劍印
(務請參考手印圖,結法為[雙手各指作外相叉,唯竪兩中指,曲 節指頭相觸合,如劍尖狀,印置胸前])
手印結妥,隨作以下觀想:
A . 首先觀想自己身處於萬里無雲晴空之
B . 接着觀想至聖先師孔子安住在您對面 空上方,而黄文殊菩薩則安住在至聖 師孔子之頂上(有關祂們的形姿,務 請參考本儀軌所附之法相)
C. 然後觀想在至聖先師孔子之心間,有 個金黄色藏文種子字[啲](di,務請參考本儀軌所附之藏文種子 字),放出極為強烈的金黄色光,光 您頂門而入,將自己一切惡業罪障, 病魔崇,痛苦煩惱,負面情緒,災厄 劫煞等皆化為黒氣,從全身的毛細孔 出體外,在大氣中蒸發消失,您遂渾 通透淨徹,心得安樂自在
(五)當以上種種,您都已經觀想無 後,便可將手印在額頭散開,接着去 念珠,持誦至聖先師孔子心咒108遍或 以上(有時間能多念更好,但,最少 念108遍,務請注意![孔夫子]三字,以[廣東話](粤語)發音則可)
嗡,鴉,嘛哈咕嚕,曼祖司哩,呢喇 那加吔,孔夫子,沙嚕娃,司啲,吽 ,呸
Om,Ah,Maha Guru,Manju siri,Nira mana gaya,孔夫子,Saruwa,Sidi,Hum,Hum,Pei
(六)讚願偈(合掌念一遍)
大智文殊垂眷念
下生華夏挽倒顛
明傳人倫伏古道
皈命至聖蓮足前
唯盼先師賜加持
願我濁世作清流
匡扶正義悲智運
苦海誓作度人舟
(七)合掌迴向(以下言辭,僅供大 參考)
弟子(自己姓名或法名)今謹以此持 至聖先師孔子心咒之殊妙功德,至誠 伸迴向:
祈願那摩至聖先師孔子,慈光注照, 願攝受,令使弟子(自己姓名或法名 身心康健,消宿現業,增諸福慧,息 災除障,圓成善根,道心不退,現眷 樂,先亡超昇
願我與一切眾生,悉皆速疾共證真常 樂
(後可再加自己個人之祈願)
至此修法圓滿,吉祥如意
【鄭重補充説明】
(1)此《至聖先師孔子誦修簡儀》之 言、手印與觀想,乃殊勝不共傳承, 倘非皈依弟子,本不輕授,今姑大開 便,望盼大家勿作等閒
(2)此儀軌看似簡單,不若藏密、東 、唐密儀軌之繁廣,但,實際上却是[麻雀雖小,五臟俱全],大家修之以恒,自能心領神會
(3)手印若在平常非修法場合,千萬 要隨便亂結,形同兒戲,又,所有手 印切記必須在額頭散開,因為所有手 在散開時會有光放出,若不在額頭散 ,其放出之光便會傷害那些[無形眾生](是故東密,唐密之修行人在結手印 ,會以淨布或袈裟遮蓋,我們不必如 ,但請務必慎重,如法行持)
又,結手印前應洗淨雙手
(4)通常若要能充分發揮咒力,需起 持誦滿一[洛叉](即十萬遍,越多越好),但,倘能 懷無偽之深信切願,即使未滿遍數, 必得蒙加持。
(5)手印圖已備妥,歡迎需要的同修 同道或朋友以臉書私訊(PM)向本群 管理員索要,咒音和法本PDF檔案可從 本群組專頁下載
咒音檔案:待傳。
大家最近是不是收不到新法和帖文了
建立悲智法施專頁,旨在方便同修。 免同修錯過悲智法施所傳的每個新法 盼請各位將本專頁,在「已讚好(Liked )」一欄,設定為「搶先看(see first)」或開啟「接受通知(Get notification)」選項。另: 有些電話是沒法設定以上選項的,那 要麻煩各同修用電腦處理了
https://www.facebook.com/mercyandwis...2%3A%22R%22%7D
【 至聖先師孔子誦修簡儀 】
二零一六年七月十八日 香港
普傳《至聖先師孔子誦修簡儀》
不肖三密佛子啤嘛榮遷埵智(蓮花尊 金剛)依師承訣竅敬謹撰造
此法乃由來自藏地,在華夏普傳佛門 上密乘之[金剛上師諾那呼圖克圖]所傳
以下為祂對此法所作之開示:
問:孔夫子是否佛菩薩之化身?
答:當然是佛菩薩化身。
問:孔夫子是何佛菩薩之化身?
答:孔夫子是文殊菩薩之化身。文殊 薩早已成佛,亦即是諸佛菩薩之化身 因漢(華夏)人均信仰孔夫子,故康 藏人稱漢(華夏)人是文殊菩薩的弟 ,對漢人有相當尊敬。
問:孔夫子是聖人,不知有無咒語?
答:有咒語,孔夫子之咒語有消滅年 日時分一切不祥災晦與百無禁忌功德
《至聖先師孔子誦修簡儀》
(一)淸淨端嚴身心,準備修法
誦三字明咒7/14/21遍,加持自身,修法處所及供品(若 有)
嗡,鴉,吽
Om, Ah, Hum
(二)將右手大拇指屈入掌中,至右 無名指末節,然後握拳,此乃金剛拳 (道教稱為[握固印])
誦文殊菩薩護身咒七遍
嗡,司廉(两字連音讀),吽
Om, Silim, Hum
接着以金剛拳印觸碰額頭,喉嚨,心 ,右肩,左肩(依此順序),然後在 頭將手印散開
(三)合掌至誠念誦如下:
那摩十方三世常住一切上師三寶(三 ,亦即[念三遍],下同)
那摩大智文殊師利菩薩摩訶薩(一稱 [訶]字讀[呵])
那摩至聖先師孔子(三稱)
那摩金剛上師諾那呼圖克圖(一稱)
那摩蓮花龍尊黄公念祖金剛上師(一 )
我與無餘眾有情,直證菩提永皈依
仰懇時刻垂護念,自覺覺他祈加持( 稱)
(四)雙手結文殊菩蕯慧劍印
(務請參考手印圖,結法為[雙手各指作外相叉,唯竪兩中指,曲 節指頭相觸合,如劍尖狀,印置胸前])
手印結妥,隨作以下觀想:
A . 首先觀想自己身處於萬里無雲晴空之
B . 接着觀想至聖先師孔子安住在您對面 空上方,而黄文殊菩薩則安住在至聖 師孔子之頂上(有關祂們的形姿,務 請參考本儀軌所附之法相)
C. 然後觀想在至聖先師孔子之心間,有 個金黄色藏文種子字[啲](di,務請參考本儀軌所附之藏文種子 字),放出極為強烈的金黄色光,光 您頂門而入,將自己一切惡業罪障, 病魔崇,痛苦煩惱,負面情緒,災厄 劫煞等皆化為黒氣,從全身的毛細孔 出體外,在大氣中蒸發消失,您遂渾 通透淨徹,心得安樂自在
(五)當以上種種,您都已經觀想無 後,便可將手印在額頭散開,接着去 念珠,持誦至聖先師孔子心咒108遍或 以上(有時間能多念更好,但,最少 念108遍,務請注意![孔夫子]三字,以[廣東話](粤語)發音則可)
嗡,鴉,嘛哈咕嚕,曼祖司哩,呢喇 那加吔,孔夫子,沙嚕娃,司啲,吽 ,呸
Om,Ah,Maha Guru,Manju siri,Nira mana gaya,孔夫子,Saruwa,Sidi,Hum,Hum,Pei
咒音下載
(六)讚願偈(合掌念一遍)
大智文殊垂眷念
下生華夏挽倒顛
明傳人倫伏古道
皈命至聖蓮足前
唯盼先師賜加持
願我濁世作清流
匡扶正義悲智運
苦海誓作度人舟
(七)合掌迴向(以下言辭,僅供大 參考)
弟子(自己姓名或法名)今謹以此持 至聖先師孔子心咒之殊妙功德,至誠 伸迴向:
祈願那摩至聖先師孔子,慈光注照, 願攝受,令使弟子(自己姓名或法名 身心康健,消宿現業,增諸福慧,息 災除障,圓成善根,道心不退,現眷 樂,先亡超昇
願我與一切眾生,悉皆速疾共證真常 樂
(後可再加自己個人之祈願)
至此修法圓滿,吉祥如意
【鄭重補充説明】
(1)此《至聖先師孔子誦修簡儀》之 言、手印與觀想,乃殊勝不共傳承, 倘非皈依弟子,本不輕授,今姑大開 便,望盼大家勿作等閒
(2)此儀軌看似簡單,不若藏密、東 、唐密儀軌之繁廣,但,實際上却是[麻雀雖小,五臟俱全],大家修之以恒,自能心領神會
(3)手印若在平常非修法場合,千萬 要隨便亂結,形同兒戲,又,所有手 印切記必須在額頭散開,因為所有手 在散開時會有光放出,若不在額頭散 ,其放出之光便會傷害那些[無形眾生](是故東密,唐密之修行人在結手印 ,會以淨布或袈裟遮蓋,我們不必如 ,但請務必慎重,如法行持)
又,結手印前應洗淨雙手
(4)通常若要能充分發揮咒力,需起 持誦滿一[洛叉](即十萬遍,越多越好),但,倘能 懷無偽之深信切願,即使未滿遍數, 必得蒙加持。
(5)手印圖已備妥,歡迎需要的同修 同道或朋友以臉書私訊(PM)向本群 管理員索要,咒音和法本PDF檔案可從 本群組專頁下載
https://www.mercyandwisdom.com/blank-172
*Thái-Thượng Đạo-Tổ Tâm-Chú (太上道祖心咒 ):
.Om,Seh,beh ja dara ma,Nira mana gaya,李耳,Saruwa,Sidi,Hum,Hum,Pei
.OM HRIH, VAJRADHARMA NIRMANAKAYA LI-ER, SARVA SIDDHI HUM HUM PHAT
*Thái-Thượng Đạo-Tổ Tâm-Chú (太上道祖心咒 ):
CN1:
.嗡,些,嘛哈咕嚕,呢喇嘛那加吔, � �耳,沙嚕娃,司啲,吽吽,呸
.Om,Seh,Maha Guru,Nira mana gaya,李耳,Saruwa,Sidi,Hum,Hum,Pei
.OM HRIH, MAHAGURU NIRMANAKAYA LI-ER, SARVA SIDDHI HUM HUM PHAT
CN2:
.嗡,些,啤渣打喇嘛,呢喇嘛那加吔 � �李耳,沙嚕娃,司啲,吽吽,呸
.Om,Seh,beh ja dara ma,Nira mana gaya,李耳,Saruwa,Sidi,Hum,Hum,Pei
.Om,Say,beh ja dara ma,Nira mana gaya,李耳,Saruwa,Sidi,Hum,Hum,Pei
.Om,Shri,Banza dharma,Nirmanakaya LI-ER,Sarwa,Sidi,Hung,Hung,Peh
.OM RHI, BENZA DHARMA NIRMANAKAYA LI-ER, SARVA SIDDHI HUNG HUNG PHET
.OM HRIH, VAJRADHARMA NIRMANAKAYA LI-ER, SARVA SIDDHI HUM HUM PHAT
=========
●九二、太上老君心咒
嗡、太上老君、悉地吽
*Thái-Thượng Lão-Quân Tâm-Chú ( 太上老君心咒 ):
.嗡、太上老君、悉地吽
.Án, Thái-Thượng Lão-Quân, Tất-Địa Hồng
.OM TAISHANG-LAOJUN SIDDHI HUM
the "Highest Elder Lord" (太上老君, Taishang Laojun).
http://www.wikiwand.com/en/Three_Pure_Ones