Tại sao thấy chơn như là thành Phật?
Vì chơn là thật ,là cơ bản nói túm lại là cái căn cơ chân thật , như là như lai là không hề thay đổi, vốn có, không sinh -bất diệt- tự tròn- tự no đủ, vậy chơn như tức cái bản thể vốn không đổi thường hằng tự có tự đầy đủ , đó chính là Phật tánh .
Dạ bẩm Cụ Bà bà Vô Định, Ngũ tổ dựa vào kinh kim cang và dạy thiền tâm không, tâm không còn tư tưởng và vô trụ sẽ hiển lộ kỳ tâm, Tâm Phật.
Lục tổ không cho như vậy là đúng, mà chỉ đúng cho một số người căn cơ cao, Ngài chủ trương thiền vô niệm xứ
Tuy Lục Tổ thấy cái “Không” nhưng không chấp Không, vì cũng còn thấy Tự tánh diệu dụng với năm câu “đâu ngờ … “. Thấy được Tự tánh mới là mục đích của Thiền tông, chứ không phải chỉ thâm hiểu chữ “Không” là đủ. Trong một bài giảng, Tổ cũng nhắc nhở: “Chớ nghe ta nói ‘Không’ mà liền chấp ‘Không’. Nếu để tâm trống không mà tĩnh tọa là chấp cái Vô ký không.”
Sự sáng suốt của Ngũ Tổ trong việc lựa chọn người truyền pháp, cho nên tuy Huệ Năng chỉ là một cư sĩ mà đã được chọn làm vị Tổ thứ sáu của Thiền tông. Ngay đêm đó Ngũ Tổ đưa Lục Tổ ra đi một cách kín đáo. Sau đó nghe tin Huệ Năng được truyền thọ, có mấy trăm người đuổi theo để lấy lại y bát vì cho rằng Huệ Năng không xứng đáng. Ðiều đó cũng dễ hiểu vì một ông cư sĩ chỉ biết giã gạo, không được học hỏi gì về Phật pháp mà lại được trao cho danh vị Tổ thì đối với nhiều tăng thật khó mà chấp nhận. Có một vị tăng tên là Huệ Minh, vốn là một tướng quân, tánh tình nóng nảy, đuổi kịp Huệ Năng, nhưng sau đó lại bị khuất phục nên xin Huệ Năng nói pháp. Huệ Năng nói: “Ông đã vì Pháp mà đến đây, thì nên dứt hết các trần duyên, chớ sanh một niệm tưởng, ta sẽ vì ông mà nói Pháp.” Một hồi sau Huệ Năng nói: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái gì là bản lai diện mục (original face) của thượng tọa Minh”. Huệ Minh ngay đó đại ngộ. Ðó là bài pháp thứ nhất của Lục Tổ, tuy ngắn ngủi mà sau này thường được nhắc nhở tới.
Sau đó Lục Tổ vẫn chưa có dịp hoằng pháp, mà phải ẩn náu trong 15 năm. Khi đến chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu và gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Lúc ấy có luồng gió thổi động lá phướn. Một vị tăng nói gió động, một vị tăng khác nói phướn động, cả hai tranh cãi không ngừng. Huệ Năng bước ra nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà là tâm các ông động.” Cả chúng đều ngạc nhiên. Pháp sư mời Huệ Năng lên ghế ngồi và sau cuộc đàm đạo, Pháp sư nhận ra được Lục Tổ, xuống tóc cho Tổ và thờ Tổ làm thầy. Tới lúc đó Tổ mới chính thức thọ giới. Pháp sư hỏi Tổ là Ngũ Tổ Huỳnh Mai truyền thọ như thế nào. Tổ trả lời: “Ngài không có truyền thọ gì, chỉ cần Kiến tánh, chẳng cần Thiền định để Giải thoát.”
Quan Thứ sử cùng các viên quan, chức sắc vào núi thỉnh Tổ về nơi giảng đường chùa Ðại Phạm để thuyết pháp. Năm sau Tổ rời về chùa Bửu Lâm ở Tào Khê để hoằng pháp. Trung bình chư tăng thường có mặt tại chùa không dưới một ngàn.
Phẩm thứ hai: Trí huệ Bát nhã
Phần này có thể được coi là quan trọng nhất trong kinh. Tổ giảng về pháp Ma ha Bát nhã Ba la mật đa (Skt: Maha Prajna Paramita), có nghĩa là đại trí huệ đến bờ bên kia. Pháp tu này đạt thẳng mục đích của Thiền là Kiến Tánh Thành Phật. Tất cả chúng sinh, từ người ngu đến kẻ trí đều có Phật tánh như nhau. Có khác nhau chăng chỉ là kẻ mê, người ngộ. Vì vậy nên Tổ chỉ rõ thêm: “Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ đề.” Thế nào là mê, mê đây là không thấy được tự tánh của mình. “Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật … Trí Bát nhã đều từ bản tánh mà sanh, chẳng phải từ bên ngoài vào, không nên lầm với ý thức”. Tất cả muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người, hoặc nói cách khác là tự tánh bao hàm muôn pháp. Ngay cả chư Phật ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai), mười hai bộ Kinh cũng đầy đủ ở trong tự tánh.
Cần biết rõ những danh từ tự tánh, bản tánh là để chỉ cái bản thể (self-nature) của mỗi người, đó là cái không sanh, không diệt, không biến đổi, thường hằng. Không nên lầm với danh từ tánh tình, tánh nết là những hiện tượng do duyên hợp tạo nên, luôn thay đổi, không có một thực thể. Thí dụ ta không thể nói người đó bản tánh nóng, vì lúc gặp một việc vui mừng người đó cũng vui vẻ như những người khác, vậy lúc đó tánh nóng ở chỗ nào; hoặc nếu người đó được dạy bảo thì cũng bỏ hẳn hoặc bớt tánh nóng. Như vậy tánh nóng của người đó thay đổi tùy theo hoàn cảnh chứ không thường hằng. Danh từ tự tánh, bản tánh hay bị hiểu lầm là vậy. Cũng như danh từ bản tâm nói trong kinh có thể bị hiểu lầm đó là cái tâm suy nghĩ, tính toán, hiểu biết của mình, sự thực đó chỉ là vọng tâm, nó thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh xã hội, văn hóa chứ không phải là bản tâm, tự tâm, chân tâm.
Khi thấy rõ bản tâm tức là giải thoát, là đạt được Bát nhã Tam muội, tức Vô niệm. “Vô niệm là thấy tất cả các pháp mà tâm không nhiễm vương, dính níu.” Cũng có người hiểu rằng Vô niệm là dứt bặt tư tưởng, không nghĩ ngợi gì hết. Lục Tổ cảnh giác liền là “chẳng phải như người lầm tưởng, cho là ‘trăm điều chẳng nghĩ, khiến cho niệm tưởng tuyệt dứt’ đó là bị pháp trói buộc, tức là biên kiến.” Trong phẩm này Tổ cũng hai lần cảnh giác những người chấp Không và để tâm Không mà ngồi Thiền là sai lầm: “lại có kẻ mê để tâm ‘không’ mà tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, với bọn người này không thể nói gì được, vì họ bị rơi vào tà kiến.”
Trong phẩm này có những lời dạy rất là thực tế “người đời suốt ngày miệng niệm Bát nhã mà chẳng nhận được Tự tánh Bát nhã, cũng như người nói ăn mà không ăn nên chẳng no được, miệng chỉ thuyết Không, muôn kiếp chẳng được Kiến tánh … Cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm, miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hóa … Ðối với tất cả các pháp, dùng trí huệ của chân như tự tánh chiếu soi, chẳng chấp, chẳng bỏ, tức là Kiến tánh thành Phật.” Tổ chỉ rõ là cần tu hạnh Bát nhã, thực hành theo kinh Kim Cang thì sẽ được kiến tánh. Tổ cũng lấy kinh nghiệm bản thân và dạy: “kẻ tự ngộ thì chẳng phải nhờ đến người khác chỉ bảo, nếu cố chấp rằng phải luôn ỷ lại vào thiện tri thức mới mong được giải thoát thì không có lý như vậy”, còn nếu không tự ngộ thì cần phải nhờ thiện tri thức chỉ ra mới thấy.
Tổ có dạy bài tụng Vô tướng tại cuối phẩm để những người xuất gia cũng như tại gia y theo mà tu hành. Sau đây là một vài đoạn trong bài tụng:
“Chỉ truyền pháp kiến tánh,
Hoằng pháp phá tà tông.
Ngoài tâm đi tìm đạo.
Suốt đời chẳng thấy đạo.
Thương, ghét chẳng quan tâm,
Duỗi thẳng hai chân nằm.
Phật pháp tại thế gian,
Chẳng rời thế gian để tìm giác.
Lìa thế gian tìm bồ đề,
Cũng như tìm sừng thỏ.
Tụng này là đốn giáo,
Cũng gọi đại pháp thuyền,
Lúc mê tu nhiều kiếp,
Ngộ chỉ một sát na.”[/COLOR]
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)
