Thực giả việc Võ Tòng tay không đánh hổ
Những tư liệu lịch sử vừa mới được phát hiện cho thấy, Võ Tòng chưa từng đánh bất cứ con hổ nào.
Câu chuyện Võ Tòng đánh hổ được kể lại trong bộ tiểu thuyết Thủy Hử nổi tiếng của tác giả Thi Nại Am. Trong tiểu thuyết này, Võ Tòng vốn là người huyện Thanh Hà, Sơn Đông, là con thứ hai trong gia đình, do vậy còn được gọi là Võ Nhị. Cha mẹ mất sớm, Võ Tòng được người anh cả là Võ Trực (còn gọi là Võ Đại Lang) một tay nuôi nấng thành người.
Võ Tòng tướng mạo khôi ngô, tuấn tú, lại giỏi võ công, thường xuyên hành hiệp trượng nghĩa. Nhờ việc tay không đánh chết hổ dữ trên đồi Cảnh Dương, Võ Tòng được huyện lệnh huyện Dương Cốc bổ nhiệm làm chức Đô đầu của nha môn huyện.
Chị dâu Võ Tòng là Phan Kim Liên tư thông với một phú hộ trong huyện là Tây Môn Khánh, hại chết Võ Đại Lang. Sau khi biết được chân tướng sự việc, Võ Tòng đã giết chết cả Tây Môn Khánh lẫn Phan Kim Liên. Việc Võ Tòng giết người là vì trả thù cho anh, nhưng theo pháp luật vẫn phải chịu tội. Do vậy, Võ Tòng bị đày đi Mạnh Châu.
Trong thời gian bị lưu đày, Võ Tòng trải qua nhiều lần bị chèn ép, đày đọa nên quyết định bỏ trốn lên Lương Sơn Bạc, trở thành một trong 36 chòm sao Thiên Cang trong số 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Sau đó Tống Giang quyết định nhận chiếu chiêu an của triều đình, mang quân viễn chinh Phương Lạp. Võ Tòng không phục, chặt một cánh tay không chịu về triều. Võ Tòng sau này xuất gia ở Lục Hợp Tháp tại Hàng Châu, sống cuộc đời thong dong tự tại của một tăng nhân.
Cuộc khởi nghĩa của Tống Giang được nhắc tới trong tiểu thuyết của Thi Nại Am xác thực là đã xảy ra trong lịch sử. Các anh hùng Lương Sơn Bạc nhiều người cũng là những nhân vật có thực, dù không hẳn tham gia cuộc khởi nghĩa của Tống Giang. Võ Tòng cũng không là ngoại lệ.
Theo các tài liệu còn lưu lại tới ngày nay, Võ Tòng là một nhân vật hoàn toàn có thực. Tuy nhiên, không có bất cứ tài liệu nào nói rằng Võ Tòng đã tay không đánh hổ trên đồi Cảnh Dương như người ta vẫn lưu truyền. Vậy rốt cuộc, câu chuyện tay không đánh hổ của Võ Tòng từ đâu mà có?
Một trong những tài liệu sớm nhất về sự kiện Tống Giang nổi loạn còn được lưu truyền cho tới ngày nay là Đông Đô sách lược. Trong cuốn sách này có nói rằng, Tống Giang cùng 36 người tụ tập làm loạn: “Giang cùng 36 người hoành hành ở vùng Hà Sóc, Đông Kinh. Quan quân hàng vạn người nhưng không thể tiêu diệt được quân của Giang”. Tuy nhiên, tác giả cuốn sách này lại không đề cập tới 36 người theo Tống Giang cụ thể là những ai.
Tài liệu đầu tiên đề cập tới 36 người này là cuốn Tống Giang Tam thập lục nhân tán (Ca ngợi 36 người của Tống Giang). Trong cuốn sách này, tác giả đã nhắc tới tên Võ Tòng đồng thời “ca ngợi” Võ Tòng là một người đã xuất gia thụ giới song chẳng tuân thủ giới luật nào cả; từ tửu sắc tới tiền bạc, chẳng có giới luật nào mà Võ Tòng không dám phạm. Ngay cả việc giết người, Võ Tòng cũng coi như chuyện cơm ăn nước uống.
Tuy nhiên, tất cả thông tin về Võ Tòng trong tài liệu này chỉ có vậy. Tác giả không cung cấp thêm bất cứ thông tin nào khác ngoài những bình luận nói trên. Tới cuối đời Tống, một cuốn sách có tên là Tuyên Hòa di sự đề cập khá chi tiết tới cuộc nổi loạn của Tống Giang. Cuốn sách này viết từ chuyện Dương Chí bán gươm tới chuyện Cửu Thiên Huyền Nữ nhận thiên thư cho đến chuyện Tống Giang cùng 108 anh hùng nổi loạn, cuối cùng nhận chiêu an của triều đình đi đánh dẹp Phương Lạp. Nội dung câu chuyện tương tự như những gì đã được viết trong Thủy Hử sau này.
Có thể thấy, tác giả của Thủy Hử đã sáng tác tiểu thuyết của mình dựa trên cơ sở những gì đã được viết trong cuốn sách này. Theo cuốn sách này thì Võ Tòng xếp thứ 30 trong số 36 người theo Tống Giang ở Lương Sơn Bạc, được coi là một trong những thủ lĩnh của cuộc nổi loạn này. Tuyên Hòa di sự cũng không nói rõ về câu chuyện của Võ Tòng trước khi lên Lương Sơn Bạc theo Tống Giang. Tuy nhiên, điều đó cũng đủ chứng minh rằng, Võ Tòng được xác thực là một nhân vật tồn tại trong lịch sử.
Những tài liệu ghi chép về câu chuyện của Võ Tòng được tìm thấy tới nay phổ biến ở vùng Hàng Châu. Trong những cuốn sách như Chiết giang chí, Hàng Châu phủ chí hay Lâm An huyện chí đều có thể tìm thấy những ghi chép liên quan tới cuộc đời của Võ Tòng. Điều đáng nói là câu chuyện của Võ Tòng được nhắc tới trong các tài liệu này khác khá nhiều so với những gì được kể trong tiểu thuyết Thủy Hử.
Theo đó, Võ Tòng vốn là người làm nghề mãi võ, phiêu lãng giang hồ, nay đây mai đó. Lần đó, Võ Tòng tới Hàng Châu mãi võ mưu sinh, ngẫu nhiên gặp được quan tri phủ của Hàng Châu là Cao Quyền. Họ Cao thấy Võ Tòng võ nghệ hơn người thì rất khâm phục, mời Võ Tòng về làm chức Bổ khoái Hàng Châu. Sau đó, nhờ lập công lớn nên Võ Tòng được thăng chức lên làm đề hạt, rất được Cao Quyền yêu mến.
Không lâu sau đó, do Cao Quyền đắc tội với các nhà quyền quý ở Hàng Châu nên bị bãi quan. Vốn là tâm phúc của Cao Quyền nên Võ Tòng bị cách chức, đuổi về làm một chức quan nhỏ trong nha môn của tri phủ. Quan phủ Hàng Châu mới được bổ nhiệm là Thái Cùng, con trai của Thái sư Thái Kinh ở kinh đô. Dựa vào thế lực cha mình, Thái Cùng làm đủ chuyện càn quấy, ức hiếp dân lành, do vậy, người đương thời vẫn gọi Thái Cùng là Thái Hổ.
Vốn là người nghĩa hiệp, nhìn thấy cảnh tượng Thái Cùng ức hiếp dân lành, Võ Tòng quyết định giết chết Thái Cùng để trừ họa. Hôm đó, Võ Tòng nấp ở bên ngoài cửa nhà họ Thái, đợi khi Thái Cùng vừa ra ngoài cửa thì lập tức xông ra giết chết. Thái Cùng chết ngay tại chỗ nhưng Võ Tòng cũng bị lính của nha môn bao vây. Sau đó, Võ Tòng bị Thái Kinh sai người dùng cực hình giết chết trong nhà lao.
Người dân Hàng Châu cảm kích hành động anh hùng vì dân của Võ Tòng nên đã mang xác Võ Tòng về chôn tại cầu Tay Lãnh rồi lập một tấm bia đá bên trên ghi dòng chữ “Mộ của nghĩa sĩ đời Tống Võ Tòng” để tưởng nhớ người anh hùng họ Võ.
Nhiều người cho rằng, do khi còn sống, Thái Cùng có biệt hiệu là Thái Hổ nên khi Võ Tòng giết chết Thái Cùng để trừ hại cho dân, người ta mới ca ngợi Võ Tòng đã “đánh hổ”. Nói cách khác, câu chuyện Võ Tòng tay không đánh chết hổ thực chất chỉ là câu chuyện được tác giả của Thủy Hử hư cấu từ việc Võ Tòng giết chết Thái Cùng mà thôi.
(Nguồn kienthuc.net.vn)
Thực giả việc lyhl có làm mod nữa hay không.
Trích dẫn:
Nguyên văn bởi
Toitomo714
Ý quên, thằng Linh lyhl Khựa nó cũng lớn lắm rồi đấy...Chắc tại nó sợ chết không ai quản lý diễn đàn dỏm bên kia ấy mà, nơi ấy tuy ảo nhưng mới là đất dụng võ thực sự của nó, hí hí...
Trích dẫn:
Nguyên văn bởi
lyhl
rose4
-----
Trích dẫn:
Nguyên văn bởi
dungdragon88
Cám ơn
Dungdragon88, nhờ cậu dẫn đường mà nghĩa trang Văn Điển đột nhiên đông nghịch, cũng nhờ khả năng khai quật và ăn xác thối tốt mà sáng nay cấp độ của bọn họ đang tăng biến đột ngột, khá lắm !
xem ra cái xác chết của Lyhl ở trang đó vẫn còn giá trị với vô khối cẩu diện nhân.
Mốt lyhl của bên đó dùng những lời lẽ bực bội với diễn đàn bên đó chứng tỏ sau quả đó mốt lyhl đã bị ban quản trị ttvnol.com bên đó cho mốt lyhl đi mốt hai mốt ra khỏi chức mốt bên đó rồi.:laughing::laughing::laughing:
Có một nữ võ sĩ một mình xông pha giết cọp
Có một nữ võ sĩ một mình xông pha giết cọp
Bà Trà, tên thật là Võ Thị Trà, vốn là một cao thủ trong giới võ lâm thời đó. Bà là con của một vị tướng dưới trướng nghĩa quân Tây Sơn – Nguyễn Huệ. Năm 1850, dưới triều vua Từ Đức, bà đã lãnh đạo nghĩa quân của dân làng Tân Khánh trong suốt 10 năm ròng để chóng lại bè lũ quan lại thối nát và giặc ngoại bang ở địa phương. Cuộc khởi nghĩa chấm dứt khi thực dân Pháp sang xâm chiếm nước ta và chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Theo dân gian kể lại, vì căm giận trước tội ác của bọn quan ô lại, bà Trà đã lập căn cứ tại Truông Mây (Tân Uyên – tỉnh Sông Bé cũ) chiêu mộ nghĩa binh chống lại triều đình Tự Đức. Bà nổi tiếng với cặp kiếm, xông trận như vào chỗ không người. Sau đó, có kẻ tạo phản trong hàng ngũ nghĩa quân, nửa đêm căn cứ Truông Mây bị quân triều đình “đánh úp”, bà Trà “mở đường máu” thoát thân cùng sáu nữ binh thân tín chạy đến vùng Chòm Sao (gần chợ Bún ngày nay) lập một ngôi chùa, ẩn náu tại đây đến những ngày cuối đời.
Để tưởng nhớ công lao của vị nữ tướng này, dân trong vùng gọi vùng đất bao gồm làng Tân Khánh và Làng Bình Chuẩn là “ đất Bà Trà”. Và cũng từ đây, người dân gọi phái võ truyền thống xuất phát từ Tân Khánh, Bình Chuẩn là “phái võ Bà Trà – Tân Khánh” hay “Tân Khánh Bà Trà”. Thời đó, phái võ này được coi là một trong số rất ít phái võ cổ truyền có tiếng ở miền Nam Việt Nam. Võ Bình Định – võ Tân Khánh Bà Trà cũng đã bắt đầu nổi tiếng trong giới võ lâm Việt Nam.
Tư liệu về người nữ anh hùng hào kiệt này hiện nay vẫn còn rất ít, hầu hết là những câu chuyện được góp nhặc lại trong dân gian. Mặc dù vậy, Võ phái “ Tân Khánh – Bà Trà” đã là một minh chứng hùng hồn cho những cống hiến của vị nữ võ sĩ này cho nền võ thuật cổ truyền nước nhà. Cái nôi Tân Khánh – Bà Trà đã sản sinh ra không biết bao nhiêu anh tài hào kiệt trên đất nam bộ như: hai anh em Võ Văn Ất (Hai Ất) và Võ Văn Giá (Ba Giá) và bà Võ Thị Vuông (Năm Vuông) từng làm rạng danh võ phái Tân Khánh Bà Trà với những lần đánh hổ… Những võ sư nổi tiếng khác có thể kể tên: Hai Đước, Sáu Trực, Năm Nhị, Bảy Phiên và Năm Quy, mỗi người đều có những phong cách riêng với nhiều thành tích. Quyền sư Võ Văn Đước (Hai Đước) phá tan thế trận Mai Hoa Thung bảo vệ thanh danh xứ sở. Sáu Trực, một học trò của Hai Ất, tiếp nối truyền thống rực rỡ của thầy, đã truyền thụ võ công cho nhiều môn sinh trong số này có hai nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn An Ninh và Phan Văn Hùm. Đệ nhất côn Đỗ Văn Mạnh (Năm Nhị) làm cho võ phái Tân Khánh Bà Trà nổi tiếng khắp Nam kỳ với cây trường côn khiến nhiều võ sĩ kinh hồn táng đởm. Trong khi đó Bảy Phiên và Năm Quy lại đóng góp cho sự phát triển của môn phái bằng cách đào tạo những môn sinh cho các cuộc đấu võ đài mà người Pháp tổ chức những năm 1930-1940, đồng thời rèn luyện kỹ pháp chiến đấu, giáo dục tinh thần yêu nước cho những người tham gia các phong trào khởi nghĩa chống Pháp nổ ra trong vùng.
Và cho đến những năm 50 của thế kỉ 20, Võ sư Hồ Văn Lành là người đã đưa võ phái Tân Khánh – Bà trà phát triển qua một giai đoạn mới. Cho đến ngày hôm nay, Võ phái Tân Khánh – Bà Trà đã có rất nhiều đóng góp cho làng võ cổ truyền Việt Nam.
Uống nước thì phải nhớ nguồn, để có những thành quả đó, con cháu nhà võ nói riêng và dân tộc việt nam nói chung không thể quên một tên tuổi đã làm rạng danh đất nước , đó chính là Bà Trà. Thân nữ nhi yếu mềm mà bà dám xông pha một mình giết một con hổ, 10 năm ròng lãnh đạo nghĩa quân đấu tranh cho công bằng và lẻ phải. Như một tờ nhật báo Việt Nam thời đó có viết:
“ Người dân Sông Bé tự hào vì ”làng Tân Khánh đã có một cô gái trẻ, với võ thuật Tân Khánh Bà Trà, đã đơn thương giết chết cọp, khiến ngoại bang hết lòng khâm phục”….
“Tôi nghĩ đến danh đồn võ ta ở Bà Trà Tân khánh đánh cọp rất hay, mà nếu không sao dám đánh với cọp dữ? Thử hỏi võ Đại Hàn, võ Nhu Đạo, võ đánh Bóc có dám đứng nhìn khi gặp cọp trong rừng không?” ….
Lê Duyên
Trận đả hổ kinh thiên động địa của môn phái Tân Khánh Bà Trà
Trận đả hổ kinh thiên động địa của môn phái Tân Khánh Bà Trà
Khi đến nhà Võ sư Nguyễn Hồng Đỏ (đường Huỳnh Tấn Phát, quận 7, TP.HCM), chúng tôi cảm thấy ấn tượng với lô gô của phái võ được ông phóng to, treo trang trọng ngay giữa gian chính. Ngoài những binh khí đao, kiếm, lao… thì tấm lô gô gợi lên nhiều điều về phái võ TKBT. Đó là hình ảnh một võ sư tung cú đá chí mạng vào đầu con hổ trong tư thế rất đẹp.
Hiện nay, lô gô trên quần áo của phái TKBT cho các môn đệ theo học là hình ảnh một võ sư đang đánh một con hổ lớn. Đây chính là bắt nguồn từ những trận đả hổ của các bậc tiền bối. Những trận đánh hổ còn được kể vanh vách bởi các môn đệ, nhưng rõ hơn hết vẫn là pho sử sống của phái TKBT, võ sư Hồ Tường.
Nỗi khiếp sợ của xóm làng
Ngày xưa, Bầu Lòng là một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Thủ Dầu Một (nay là Bình Dương) còn bình yên. Ngày ngày, những lương dân chí thú khai hoang làm ăn. Họ trồng trọt chăn nuôi gia súc, gia cầm: Bò, gà… để mưu sinh qua ngày trong sự yên bình. Nhưng một thời gian phá rừng, lập làng, nhiều lần người dân hoảng hốt khi thấy hổ về. Thi thoảng, sau một đêm, người dân mất vài con vật nuôi. Họ nghi là do hổ vồ. Càng ngày, tần suất hổ xuất hiện nhiều hơn vào ban đêm và bắt vật nuôi trong nhà.
Những trai tráng trong làng hay những thợ săn tìm đủ cách để đuổi thú dữ về rừng. Từ việc phục kích, bắn tên tẩm thuốc, dùng chó săn sủa đuổi hổ đi… nhưng xem ra, các biện pháp ấy không ăn thua. Lũ hổ quá hung dữ. Nhiều thợ săn nhìn thấy mà mất vía, không bắn được mũi tên nào. Họ sợ bắn trật thì hổ sẽ vồ tới và xé xác làm mồi.
Tương truyền, một lần, hổ định bắt con trâu của một lương dân trong làng. Tuy nhiên, đây là một con trâu dữ nên nó húc lại con hổ. Sau đó, không hiểu vì sao, một đàn trâu gặm cỏ gần đó chạy lại tiếp viện, làm hổ thua cuộc bỏ chạy về rừng. Từ đó, mỗi khi có hổ về, dân làng lại dắt con trâu, thần hộ mệnh tới, làm con hổ rút lui. Từ khi hổ về làng, dân chúng hết sức khốn đốn, làm ăn, sản xuất kém vì sợ hổ vồ. Họ chỉ tính toán thời điểm hổ xuất hiện để làm việc đồng áng. Nghĩ cách chống thú dữ, những ông hương chức trong làng bèn tính phương án mượn súng về đuổi hổ.
Thế là ông hương quản cùng một số thanh niên lực lưỡng ngồi trên xe trâu tiến về dinh ông cai tổng để mượn súng. Sở dĩ phải dùng xe trâu là sợ hổ vồ khi đi ngang qua những con đường nhỏ, nhiều cây rừng rậm rạp.
Thời ấy, mỗi làng cách nhau rất xa, trong khi lại thưa thớt người ở, thú dữ rất nhiều. Vì thế, hương quản và trai tráng phải mượn "thần trâu" áp tải. Nếu có gặp hổ thì tàu kéo sẽ nghênh chiến. Sau vài ngày lội đường vất vả, ông Hương Quản và đám trai tráng mới về được đến làng. Có súng, dân làng yên tâm và mừng rỡ. Từ đó, lương dân làng Bầu Lòng yên tâm ra đồng làm ăn dưới sự bảo vệ của ông hương quản. Ngày ngày, họ vác súng cùng một số thanh nhiên tuần tra từ đầu làng đến cuối xóm. Buổi tối, dân chúng che chắn cẩn thận.
Quả nhiên, có súng, hổ không xuất hiện. Nhưng được mươi ngày thì hổ lại xuất hiện và làm dữ hơn trước. Như đánh được hơi, biết đường đi nước bước của ông hương quản, hễ ông ở đầu làng thì hổ xuất hiện cuối làng. Còn ông xuống cuối làng thì hổ lại tìm cách phá hoại ở đầu làng. Rồi ban đêm hổ xuất hiện, gầm ầm trời, cả làng không ai ngủ được. Có lần, hổ về bắt hẳn con heo nhà ông hương quản. Vị này định giơ súng lên bắn thì mồ hôi trên trán rơi lã chã vì thấy "ông ba mươi" to và dữ quá. Hôm sau, ông kể cho mọi người : "Nếu tôi bắn không chết thì hổ sẽ thịt tôi".
Có súng nhưng không thể giết hoặc đuổi hổ đi, ông hương chức bèn cử người tìm đến ông cai tổng để xin cách trị thú dữ. Ông cai tổng chỉ đám dân làng lo sợ sang tỉnh Gia Định mời ông thầy Tám ở làng Gia Bẹ, chuyên đánh hổ về. Nghe lời ông cai, hương quản và đám trai tráng tìm và mời ông thầy Gia Bẹ về làng tiếp đãi hoan hỉ bao nhiêu món ngon. Đợi hổ xuất hiện sẽ đánh cho trận tơi bời.
Lương dân thấy có thầy về trừ hổ cho làng cũng mừng ra mặt và góp phần thịnh đãi ông thầy Gia Bẹ. Bữa cơm đang dùng dang dở thì có tiếng kêu hốt hoảng, hổ về làng. Mọi người đứng trân người chờ thầy Tám chuẩn bị nghênh đón. Khi hổ tiến đến gần, mọi người hốt hoảng, còn ông thầy Gia Bẹ thì chẳng thấy đâu. Nhìn lại, mọi người thấy ông thầy Gia Bẹ mặt cắt không ra máu. Dân làng Bầu Lòng lại rơi vào tình cảnh bất an lo lắng. Còn ông thầy Gia Bẹ cho biết, dù nhiều lần đánh hổ tại làng nhà nhưng chưa bao giờ thấy chúa sơn lâm nào to như thế.
Ngày quyết đấu
Vẫn bị hổ về quấy phá, dân làng làm không được, ngủ không yên. Các chức sắc trong làng lại phái người để cầu cứu ông cai tổng ở Tân Khánh. Nghe xong chuyện ông thầy Gia Bẹ, cai tổng bật cười chê: "To nhỏ cũng là hổ, sao lại nhát thế". Với sự thỉnh cầu của đám lương dân, ông cai bèn cho người mời ông Ất, ông Giá hai đệ tử của phát TKBT đến. Ông này ngỏ hầu nhờ hai vị trên đi một chuyến, diệt trừ thú dữ, trả lại sự bình yên cho dân làng.
Nghe chuyện, hai ông đồng ý và vội về nhà nói lại người thân, thu xếp đồ đạc cùng ông hương quản và đám trai tráng lên đường. Đi một ngày đường, họ về tới làng. Trên đường về, ông hương quản và đám trai tráng có vẻ không tin về ông Ất, ông Giá này. Họ suy đoán, chắc cũng giống ông thầy Gia Bẹ. Về đến làng, mọi người cũng tỏ vẻ không mấy lạc quan với hai ông thầy võ. Còn chức sắc lại lo cơm nước khoản đãi. Cơm nước xong, hai ông toan nghỉ tay, lấy sức nghêng đón thú dữ. Tuy nhiên, ngay lúc ấy, bỗng có tiếng gầm rất lớn..
Thời ấy, hai ông Ất và Giá mới 30 tuổi. Ông Ất người to cao, nước da ngăm ngăm. Còn ông Giá lại trắng trẻo, mảnh khảnh hơn. Cả hai ông đều sử dụng roi trường thuần thục. Thấy hổ, ông Giá nhanh tay cầm roi trường, nhảy ra thủ thế. Còn ông Ất thì tỉnh bơ, đứng dựa cạnh cửa, một tay cầm roi, một tay cầm tăm xỉa răng như không có chuyện gì. Thấy thầy võ ra sân nghênh chiến với hổ dữ, dân làng vừa hiếu kỳ chạy ra xem. Giữa khoảng sân đất khá rộng, thấy người xuất hiện, hổ dữ liền nhảy bổ vào tính xẻ thịt, nuốt tươi.
Nhanh trí đoán được ý đồ, ông Giá nhẹ nhàng nhảy sang một bên, tránh cú vồ của thú dữ. Đồng thời ông nhanh tay quất một cú roi đau điếng vào mạn sườn chúa sơn lâm. Hổ tức lồng lộn, nhảy bổ lần nữa vào con mồi nhưng ông Giá với võ nghệ cao cường đã tránh đòn và quất liên tục vào con thú dữ.
Người và hổ quần nhau liên tục, bụi giữa sân bay lên mù mịt. Trong khi đó, dân chúng từ trong ngóc ngách chui ra xem đông ngịt. Còn ông Ất vẫn thản nhiên đứng quan sát, mặc cho ông Giá chiến đấu. Được một hồi, con hổ nằm ngửa, chổng bốn chân lên trời. Nhưng với sự tinh thông cũng như hiểu biết về võ thuật, ông Giá bèn đứng yên, chờ hổ đứng dậy và chiến đấu tiếp. Vì ông biết, hổ nằm ngửa và chổng chân lên trời là thế để giết con mồi. Ai sơ ý nhảy vào là chết ngay. Giới võ gọi đó là thế "trâu vằng" của hổ.
Sau khi con mồi không sập bẫy, hổ đứng dậy. Hai bên lại lao vào trận. Được một lúc, hổ lại lăn ra thủ thế, ông Giá cũng đứng nghỉ lấy sức. Nhưng càng về sau, ông Giá đánh càng ác liệt. Mỗi đường roi của ông mạnh như trời giáng, đánh mạnh vào những chỗ yếu của thú dữ.
Biết không thể hạ gục con mồi, hổ toan tính đường tháo chạy. Khi rút lui chưa được bao lâu thì mọi người nghe tiếng rống của thú dữ rồi mất tăm. Hóa ra, ông Ất đoán biết, trong tình thế đó, con hổ thế nào cũng tháo chạy bèn phục kích diệt hổ. Mọi người không thấy ông Ất đánh hổ nhưng nghe nói lại, chỉ cần một roi là con hổ gục hẳn.
Hổ dữ hoành hành
Cảm giác bất an vì thú dữ nơi rừng thiêng, nước độc bắt đầu lan trong dân làng. Quả thế, hổ càng tiến gần với con người và bắt gia súc của lương dân. Những người dân yếu thế chỉ biết dùng những vật dụng trong gia đình như nồi, thùng, mỏ… để đánh, khua cho hổ dữ chạy về rừng. Ban đầu những vật dụng này phát ra tiếng kêu làm hổ sợ thật. Nhưng dần rồi nó cũng quen với những âm thanh đó và đứng trơ trơ như thách thức dân chúng. Chúng đến với mật độ dày hơn, không chỉ vào ban đêm nữa mà cả ban ngày. Người dân sợ khiếp vía, hò nhau tìm chỗ ẩn nấp.
Chính vì trận đả hổ kinh thiên động địa đó nên về sau dân chúng mới có câu "Cọp Bầu Lòng - Võ Tòng Tân Khánh". Ý nói cọp (hổ) dữ ở Bầu Lòng do "Võ Tòng" là ông Hai Ất và ông Ba Giá, những môn đệ của phái võ TKBT diệt trừ. Họ đả hổ còn kinh hoàng hơn Võ Tòng bên xứ Tàu nhiều.
Trung Nghĩa