Chương 2. HÀNH TRÌNH DÂN CHÚA TRONG ĐẠO VIỆT NAM
bài này hay anh em lên tham khảo
Phần 1. Giai đoạn công nhận Đạo Việt Nam
Tin Mừng được các nhà Thừa Sai Tây Phương truyền bá tới Việt Nam. Trong số đó nổi bật hàng đầu phải kể đến Alexandre de Rhodes ( 1591 – 1660 ) là người có công rất lớn biên soạn ra chữ Quốc Ngữ, tức là cách đọc và viết tiếng Việt vô cùng tiện lợi hiện nay.
Đầu năm 1625, Alexandre de Rhodes cùng với bốn cha Dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản, cập bến Hội An, gần Đà Nẵng. Ngài bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Đắc Lộ. Thầy dạy tiếng Việt cho ngài là một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Ngài ghi lại:
“Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Châu Âu, thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng Latin và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở thành thày giảng giúp việc các cha truyền giáo trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của thầy và nơi vương quốc Lào láng giềng.
Khi chúng tôi vừa đến kinh đô Bắc Kỳ, tức khắc nhà vua truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một Nhà Thờ thật đẹp. Dân chúng tuốn đến nghe tôi giảng đạo đông đến nỗi, tôi phải giảng đến 4 hoặc 6 lần trong một ngày. Chị vua và 17 người thân trong gia đình vua xin lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnh và binh sĩ cũng xin theo đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các vị sư đã mau mắn từ bỏ bụt thần để theo đạo Công Giáo. Tất cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho họ hiểu giáo lý đạo Công Giáo rất phù hợp với lý trí và lương tâm con người.
Các tín hữu Công Giáo Việt Nam có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể xóa đi Đức Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ suốt 15 ngày đường để được xưng tội hoặc tham dự Thánh Lễ. Nhưng phải thành thật mà nói, tôi không thể chu toàn cách tốt đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu không có trợ giúp tuyệt vời của các thầy giảng. Vì nhận thấy mình là Linh Mục duy nhất giữa một cánh đồng truyền đạo bao la, nên tôi chọn trong số các tín hữu, những thanh niên không lập gia đình và có lòng đạo đức sâu xa cũng như có nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, để giúp tôi. Những người này công khai thề hứa sẽ dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa, phục vụ Giáo hội, sẽ không lập gia đình và sẽ vâng lời các cha Thừa Sai đến Việt Nam truyền đạo. Hiện tại có tất cả 100 thầy giảng đang được thụ huấn trong Chủng Viện và được các tín hữu trang trải mọi phí tổn.
Vào năm 1651, cha Đắc Lộ cho in cuốn Từ Điển Việt-Bồ-La ( Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum ) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những Giáo Sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Ngoài ra một tác phẩm khác cùng tầm quan trọng do Giáo Sĩ Đắc Lộ soạn là cuốn “Phép giảng tám ngày” ( tựa Latinh: Catechismus ). Khác với phần tự điển ghi từ vựng, “Phép giảng tám ngày” là tác phẩm văn xuôi, phản ảnh văn ngữ và ghi lại cách phát âm của tiếng Việt vào thế kỷ 17. ( Nguồn www.vi.wikipedia.org/wiki/Alexandre_de_Rhodes )
Khi các Giáo Sĩ Dòng Tên vào truyền giáo ở Việt Nam, các ngài cho phép Giáo Dân thờ kính Khổng Tử và các tổ tiên đã qua đời, theo phong tục Việt Nam. Năm 1625, các Thừa Sai ở Hội An nhắn nhủ bổn đạo: “Đạo Đức Chúa Blời buộc mọi người phải tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, nên phải thi hành nghi lễ cúng vái, trừ ít điều mê tín dị đoan, như đốt vàng mã, hay khi cúng lại tin là tổ tiên về ăn của cúng”.
Khi truyền giáo tại Trung Hoa, Dòng Tên cho phép các giáo hữu tại đây được tôn kính Đức Khổng và người qua đời như nghi thức người Hoa quen thi hành đối với tổ tiên và các triết gia của họ.
Phần 2. Giai đoạn phủ nhận Đạo Việt Nam
Nhưng chủ trương hội nhập văn hóa bản địa của Dòng Tên mà vào 400 năm trước mang một tầm nhìn vượt hẳn thời đại, dù đã làm cho việc loan báo Tin Mừng vô cùng thuận lợi, lại gặp phải phản ứng gay gắt ngay từ chính… Vatican.
Năm 1633, Linh Mục Juan Bautista Moralez, Dòng Đa Minh ( OP ) và Linh Mục Antonio de Santa Maria Caballero, Dòng Phanxicô ( OFM ) đến tỉnh Phước Kiến, Trung Hoa dưới triều Đại Minh. Hai vị chứng kiến các nghi lễ tôn kính Khổng Tử nhưng lại kết án là mê tín dị đoan và có phản ứng quyết liệt. Triều đình cho rằng hai vị chống lại phong tục văn hóa trong nước, gây nguy hại cho trật tự xã hội. Vua Minh trục xuất hai vị đó ra khỏi Trung Hoa. Moralez và Caballero về Roma khiếu nại với Toà Thánh.
Năm 1645, Giáo Hoàng Innocentê X ra tự sắc cấm tuyệt đối các tín hữu Công Giáo thi hành các nghi lễ cúng bái tổ tiên và Khổng Tử.
Ngày 25.1.1707, Giáo Hoàng Clêmentê XI cử Giám Mục Carlo Tommaso Maillard de Tournon đến Nam Kinh công bố lệnh cấm các Linh Mục làm chủ tế hoặc tham dự lễ tế Khổng Tử hoặc người quá cố và đặt bài vị người chết trong nhà. Ai không tuân theo, sẽ tức khắc bị vạ tuyệt thông.
Các văn kiện đó, thời xưa Giáo Hội Việt Nam quen gọi là cuộc tranh tụng “lễ phép nước Ngô”, cũng cấm luôn các nước chung quanh, vốn chịu ảnh hưởng ít nhiều văn hóa Trung Hoa, như Mãn Châu, Nhật Bản, và Việt Nam. Roma không chỉ cấm thờ cúng tổ tiên đã khuất mà còn giới hạn hình thức hiếu thảo cả khi cha mẹ đang còn sống. Từ đó, người Công Giáo có sự cách xa với các anh chị em lương dân. ( http://www.dunglac.org/index.php?m=m...=679&ict=10141 )
Không chỉ dừng lại ở đó mà thôi, vào năm 1773, Giáo Hoàng Clêmentê XIV giải thể luôn Dòng Tên trên toàn thế giới. Các Tu Sĩ Dòng Tên ở Việt Nam cũng cùng chung số phận.
Mãi đến ngày 7.8.1814, Đức Giáo Hoàng Piô VII mới ra trọng sắc Sollicitudo omnium Ecclesiarum tái lập Dòng Tên trên toàn giới. Phải đợi đến năm 1957, Dòng Tên mới quay trở lại Việt Nam. ( www.dongten.net/noidung/15890 )
Chính sách đó của Giáo Hội với Dòng Tên và nền văn hóa Á Đông đã làm cho việc Loan Báo Tin Mừng đang đi từ chỗ thuận lợi sang bị chống đối kịch liệt và bị bách hại tàn khốc, gây nên nhiều cuộc tử đạo không đáng có, dẫn tới tình trạng bị ngưng trệ luôn trong một thời gian rất dài cho tới tận hôm nay.
Phần 3. Tính cực đoan của các tôn giáo Tây Phương
Ba tôn giáo độc thần Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo đều phát xuất từ Tây Á nhưng sau đó lại được phát triển mạnh mẽ tại Âu Châu, tuy cùng tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất nhưng lại tự tôn tự đại phủ nhận lẫn nhau, nhất định cho rằng chân lý chỉ có nơi mình và không ngần ngại lao đầu vào những cuộc thánh chiến đẫm máu để tiêu diệt đối phương.
Giáo Hội Công Giáo đã phát động nhiều cuộc Thập Tự Chinh cũng như đã xử tử nhiều người trên dàn hỏa thiêu vì gán cho họ tội phù thủy hay dị giáo, trong số đó có cả Thánh Nữ Jeanne d’Arc.
Giáo Hoàng Innocent III ( 1160 – 1216 ) đã ra tự sắc quy định bất kỳ ai có quan điểm cá nhân về Thiên Chúa đi ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội phải bị thiêu sống. Ngài phát động cuộc Thập Tự Chinh thứ 4 chống lại Hồi Giáo và thúc ép Vua Philip II Augustus của Pháp tiến đánh miền Albigense vì họ lỡ sát hại Khâm Sứ Tòa Thánh là Pierre de Castelnau. Sau khi chiến thắng, quân Pháp đã tàn sát luôn 20 ngàn người dân ở Albigense. ( www.en.wikipedia.org/wiki/Pope_Innocent_III )
Tại Mỹ Châu Latinh thực dân Tây Ban Nha đã thẳng tay giết chóc dân bản địa và dẹp bỏ các nền văn hóa địa phương, ép buộc thổ dân phải theo Công Giáo. Hậu quả là ngày nay đa số dân miền đó đều nói tiếng Tây Ban Nha và là người Công Giáo.
Cho đến tận nay nhiều người Hồi Giáo vẫn mang não trạng tin rằng đánh bom tự sát để giết bọn vô đạo, tức là những người không theo đạo Hồi sẽ mang lại phần thưởng thiên đàng cao nhất cho họ.
Não trạng tôn giáo cực đoan này đã lây lan qua cả các ý thức hệ chính trị phát xuất từ Âu Châu. Chủ nghĩa Quốc Xã Đức không ngần ngại thủ tiêu 6 triệu người Do Thái. Chủ nghĩa Mác – Lê đã gây nên cái chết của 100 triệu người.
Giáo Hội đã phải rất vật vã, đau đớn, khó nhọc, và vô cùng chậm chạp để đọc ra Thiên Chúa không hề bị gò bó trong một con đường duy nhất để đi đến với con người.
Trong gần 2.000 năm, nhiều Công Đồng và Giáo Hoàng đã tuyên bố chắc như đinh đóng cột rằng: Bên ngoài Giáo Hội Công Giáo không có ơn cứu độ ( Hors de l’Église, pas de salut ).
Đó là tuyên tín long trọng của Giáo Hoàng Innocent III năm 1208, Boniface VIII năm 1302, Công Đồng FLorence năm 1442, Giáo Hoàng Piô IV năm 1564, và Pô IX năm 1854.
Mãi cho đến tận thế kỷ 20, năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI tại Công Đồng Vatican II, khai mạc đúng 50 năm trước vào ngày 11.10.2012, mới tuyên xưng: Tất cả các Kitô Hữu ( gồm cả Cải Cách, Anh Giáo, Chính Thống ) đều liên kết với chúng ta trong Thánh Thần bởi vì Thánh Thần cũng ban cho họ những ân huệ và ân sủng cũng như hoạt động nơi họ bằng quyền năng thánh hóa ( Lumen Gentium, số 15 ).
Công Đồng Vatican II long trọng tuyên xưng rằng 2/3 nhân loại không theo Kitô Giáo cũng vô cùng thân thiết với Thiên Chúa: Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, theo một cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi. ( Gaudium et Spes, số 22, Giáo Hoàng Học Viện ).
Nếu Giáo Hội toàn cầu đã như thế thì Giáo Hội Việt Nam cũng có rất nhiều giới hạn trong tầm nhìn về những giá trị truyền thống của dân tộc.
Phần 4. Tính bao dung của Đạo Việt Nam
Tại Á Đông, trong hàng ngàn năm đã không hề có các cuộc chiến tranh nhân danh tôn giáo nào. Nhân dân theo các tín ngưỡng dân gian rất nhẹ nhàng bao dung, cùng tồn tại hài hòa song song, không có các tổ chức quy củ và các giáo điều tuyệt đối.
Trích: Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn. Tín ngưỡng không có tổ chức chặt chẽ, không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì cũng lẻ tẻ và rời rạc.
Tôn giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển... được truyền thụ qua giảng dạy và học tập ở các Tu Viện, Thánh Đường, học viện... có tổ chức Giáo Hội, hội đoàn chặt chẽ, có nơi thờ cúng, có sự tách biệt giữa siêu nhiên và con người.
Tín ngưỡng chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, chưa thành quy ước chặt chẽ. ( Hết trích, nguồn: Ngô Đức Thịnh, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2001 )
Giống như Nhật Bản và Hàn Quốc, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của nền văn hóa Trung Hoa trong đó đời sống tinh thần thiên về tín ngưỡng dân gian phóng khoáng, không mang tính cách tôn giáo với tổ chức quy củ như ở Tây Phương với các giáo điều nặng nề, áp đặt và khắt khe.
Tại Á Đông người ta có thể đọc sách Thánh Hiền, ngưỡng mộ Khổng Tử, trung với vua, thanh thoát theo kiểu Lão Tử, thoải mái tôn thờ Phật và cúng vái tổ tiên. Đối với họ, tất cả các triết thuyết khác nhau đó không hề mâu thuẫn với nhau mà còn làm cho đời sống tinh thần của họ thêm phong phú.
Một tôn giáo đặc thù của Việt Nam là Cao Đài tôn thờ chung Phật, Lão, Khổng và cả Chúa Giêsu nữa.
Phần 5. Một chân dung của Đạo Việt Nam
Một danh nhân Việt Nam nổi bật đã có thể tổng hợp hài hòa tất cả đặc tính văn hóa Việt Nam, xin tạm gọi là Đạo Việt Nam, là Nho Tướng Công Nguyễn Công Trứ văn võ song toàn ( 1778 – 1859 ).
Trích:
Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc về thế thái nhân tình.
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Ông thường tự diễu cợt chính mình.
Nào nào ! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao.
Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng bò. 73 tuổi ông còn cưới thêm một nàng hầu, trả lời cô dâu khi nàng hỏi ông bao nhiêu tuổi: “Năm mươi năm trước, anh hai ba”.
Khi chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
( Cây thông trong cách hiểu Nho Giáo là người quân tử )
Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi. Đối với ông sống trên đời không gì quan trọng bằng để lại một cái danh.
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
( http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Công_Trứ )
Năm Kỷ Mão ( 1819 ), khi đã ngoài bốn mươi tuổi, Nguyễn Công Trứ mới thi đậu Giải Nguyên và được bổ đi làm quan. Điều đó cũng có nghĩa qua suốt bốn chục năm sống ở quê nhà, ông đã nghiệm sinh sâu sắc đời sống thôn dã, hấp thụ đầy đủ truyền thống văn hoá, bản chất và cốt cách người dân đất cổ Giang Đình.
Vốn là nhà nho – một nhà nho hành đạo điển hình – nói chung, Nguyễn Công Trứ không mặn mà với giáo lý và tư tưởng Phật Giáo. Những cảm nhận của ông về Phật Giáo nằm trong qui luật “dĩ Nho nhập Thích” ( đi từ Nho Giáo đến Phật Giáo. Phật Giáo coi mình là đích đến của Nho Giáo ).
Trước sau Nguyễn Công Trứ vẫn trung thành với lý tưởng Nho giáo, với khuôn thước và vốn tri thức của cửa Khổng sân Trình:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung ( Bài ca ngất ngưởng )
Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ ( Nợ nam nhi )
Nhưng tư tưởng Phật Giáo luôn bàng bạc nơi ông.
Thôi cũng muốn Nam vô Di đà Phật,
Trót dở đem thân thế hẹn tang bồng. ( Nhàn nhân với quý nhân )
Khi hỷ nộ, khi ai lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục...( Chữ nhàn )
Có khi ông lại trở nên rất phóng khoáng theo kiểu Lão Tử.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục. ( Bài ca ngất ngưởng )
Phật thì chủ trương xuất thế ( tu hành ) để diệt dục, lấy khổ hạnh và trầm tư mặc tưởng làm phương tiện. Lão thì chủ trương phóng nhiệm để phiêu dật trong cõi thiên nhiên, lấy nhàn tản vô vi làm kế hoạch. Cái chỗ mà Phật và Lão giống nhau là cả hai đều nhìn ra cái phù phiếm của đời người ( nhân sinh hư ảo ).
( http://vuonhoaphatgiao.com/van-hoa/v...phat-giao.html )
Nhưng đặc điểm nổi bật nhất nơi sự nghiệp Nguyễn Công Trứ, khiến ông chói sáng nơi lòng biết ơn của nhân dân muôn đời sau chính là biết chăm lo cho đời sống của dân nghèo. Lòng nhân ái rất đặc biệt này của ông vượt lên trên đòi hỏi bình thường của đạo vua tôi, của Phật Lão Khổng.
Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu… làm thơ. Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ… chống ngoại xâm. Nguyễn Công Trứ có tất cả các phẩm chất đó, thơ văn của ông không hề thua kém các văn hào thi bá, tài đánh giặc Phan Bá Vành và Nông Văn Vân đã mang về cho ông chức Uy Viễn Tướng Công Binh Bộ Thượng Thư. Khi qua đời ông được chính vua ban cho lời ai điếu TẢ HỮU – NGHI VĂN – NGHI VÕ – TỬ SINH – DANH TƯỚNG – DANH THẦN.
Nếu không có Nguyễn Công Trứ thì đã có thể đã không có hai Giáo Phận rường cột của Giáo Hội Việt Nam là Phát Diệm và Thái Bình.
Trích: Phát Diệm có nghĩa là phát sinh ra cái đẹp, phát triển và thịnh vượng. Địa danh Phát Diệm do chính Nguyễn Công Trứ đặt ra. Cách đây gần 200 năm về trước, Phát Diệm chỉ là một cánh đồng bát ngát, mênh mông, chỉ có bùn lầy và cỏ sậy tràn ngập dưới những làn sóng lênh láng. Con đê Hồng Đức, con đường cái quan chạy suốt từ Quảng Phúc qua Phúc Nhạc rồi đổ ra bể… hiện còn đứng vững để minh chứng đường ranh giới phân chia đất và nước của thời xưa. Và rồi Tạo Hoá đã làm việc rất nhiều. Người ta tính các chi nhánh sông Hồng Hà bồi thêm cho miền Trung châu Bắc Việt cứ trung bình mỗi năm được 100 thước trên một diện tích dài 25km chạy ra bể. Như thế, cứ sau 10 năm bờ bể Bắc Việt Nam lợi thêm một cây số: cùng chung một đà tiến đó, sau 100 năm Phát Diệm đã chiếm thêm 10 cây số chạy ra bể.
Giải đất này, thẳng cánh cò bay, dưới đời Minh Mạng ( 1826 – 1840 ) đã được Nguyễn Công Trứ đem hết công lao khai thác và tổ chức. Năm 1828, với tư cách Dinh điền sứ, Nguyễn Công Trứ dâng sớ, xin triều đình cho lập huyện Tiền Hải ( Thái Bình ). Năm 1829, tức Minh Mạng năm 20, cụ lại dâng sớ xin nhà vua cho phép khai khẩn doanh điền tỉnh Ninh Bình, tức thành lập huyện Kim Sơn. Là nhà nho uyên bác, Nguyễn Công Trứ đã đặt cho hai huyện Tiền Hải ( bể tiền ) và Kim Sơn ( núi vàng ) những danh xưng tuyệt đẹp, nhiều ý nghĩa và muôn đời còn ghi nhớ tính cách thanh bình, hiền hoà của hai cuộc kinh doanh xã hội kỳ diệu trong lịch sử miền Trung châu Bắc Việt. Riêng trong huyện Kim Sơn, chính cụ là người đã cao kiến phân chia lãnh thổ, điền địa, đặt tên cho các thôn, xã, đã cho đào những con sông ngang dọc làm máng chuyên chở, tiện lợi và mang lại phì nhiêu cho 14.600 mẫu đất của cả một miền tân lập.
Nói cho chí lý, sự nghiệp khai nguyên của Nguyễn Công Trứ về sau này vẫn được cha Trần Lục tiếp tục và hoàn bị. Cả hai vĩ nhân này ra chào đời không xa nhau. Cuộc đời cha Trần Lục, còn gọi là Cha Lớn Khâm ( 1825 – 1899 ) đến sau cụ Dinh Điền Sứ ( 1778 – 1858 ). Năm 1829, cụ Nguyễn Công Trứ khởi công lập huyện Kim Sơn, thì cha Trần Lục mới ra đời được 4 năm. Năm 1873 cha đã ra tay chuẩn bị vật liệu, để xây cất quần thể Thánh Đường Phát Diệm. Cha Lớn Khâm đã đứng lên chiêu mộ dân cư về ở, đã chiến đấu lấy lại những khoản công tư điền thổ cho dân chúng, đã khởi công cho đào con sông Ân giang chạy ngang địa hạt Kim Sơn, suốt từ Điền Hộ cho tới Như Sơn, lấy đất đắp thành con đường 10 ngày nay. Lập trường của cha, chính sách của cha rất thực tế: có thực mới vực được đạo. Làm cho công cuộc Tông Đồ đi đôi với những khả năng kinh tế, xã hội của người dân, bất cứ lương hay giáo !
( http://www.phatdiem.org/Portal/Deskt...=11&Culture=vi – VN&catID=170 )
Trích: Đền thờ Nguyễn Công Trứ được xây dựng tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tiền thân của ngôi đền là ngôi nhà ba gian của Nguyễn Công Trứ làm tại ấp Lạc Thiện để ông đi về và làm việc tại đây. Năm 1852, nhân dân Kim Sơn xây dựng lại thành ngôi Sinh Từ ( Đền thờ sống ), thờ ông ngay lúc ông còn sống. Hàng năm, đến ngày sinh nhật của Nguyễn Công Trứ, nhân dân mở hội mừng thọ ông. Sau khi ông mất, năm 1882, ngôi đền được tu sửa lần thứ nhất và xây dựng tiền đường 5 gian và được đổi tên từ Sinh Từ thành Truy Tư Từ. Năm 1992, đền thờ Nguyễn Công Trứ được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
Huyện Kim Sơn được ghi vào bản đồ Việt Nam từ năm 1829. Việc quai đê ở Kim Sơn được tiến hành trên diện tích đất sình lầy ven biển, ngập mặn với muôn vàn khó khăn và huy động nhiều nhân lực. Sau hơn 1 năm, việc quai đê thành công, huyện Kim Sơn được thành lập với 7 tổng, 63 làng, ấp, giáp, trại. Cùng với việc lập làng, Nguyễn Công Trứ cho tiến hành xây dựng các công trình thuỷ lợi.
( http://vi.wikipedia.org/wiki/Lễ_hội_đền_Nguyễn_Công_Trứ )
Chương 3. TIN MỪNG VÀ ĐẠO VIỆT NAM
Phần 1. Phải nhìn ra Chúa Giêsu yêu mến Đạo Việt Nam
Cuộc đời của Chúa Giêsu phải trở nên gương mẫu tuyệt đối cho người tin. Đối với Chúa Giêsu, tất cả trần gian đều là một món quà mà Chúa Cha đã ban cho Người. “Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con” ( Ga 17, 10 ). Người đã đón nhận và tuân thủ nhiệt thành Do Thái Giáo vì đó chính là thế gian mà Thiên Chúa, Cha của Người đã tạo thành, dẫn dắt qua dòng thời gian và ban cho Người. Nơi thế gian đó Chúa Giêsu được tôn vinh.
“Và Con được tôn vinh nơi họ” ( Ga 17, 10 )
Không có lý do gì để cho rằng Thiên Chúa thương yêu dân Do Thái hơn dân Việt Nam. Nếu dân tộc Do Thái có Đạo Do Thái thì dân tộc Việt Nam cũng có Đạo Việt Nam. Ta có cái không hay như đàn ông thường lấy nhiều vợ, nhưng ta có cái hay hơn như thường chỉ kết án người tội lỗi bằng dư luận chê cười chứ không bao giờ đi ném đá ai cho đến chết.
“Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
Tại sao Tin Mừng đề cập quá nhiều những chi tiết tuân thủ chi li Lề Luật Do Thái của Chúa Giêsu ? Có những cái chẳng có ý nghĩa gì cả đối với chúng ta ngày nay như dâng của lễ là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non ( x. Lc 2, 24 ).
Đối chiếu Cựu Ước với truyền thống Việt Nam, đặc biệt là các sách Giảng Viên, Châm Ngôn, nhất là sách Huấn Ca với Gia Huấn Ca của Việt Nam, ta thấy ngay có rất nhiều điều tương đồng giữa Đạo Do Thái và Đạo Việt Nam. Không thể lý giải được sự trùng hợp kỳ lạ tuyệt vời này nếu không tin rằng chỉ có một Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn cả hai dân tộc.
“Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,
Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.
Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái,
Khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.
Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ,
Ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.”
( Huấn Ca 4,3 – 6 )
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi,
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
Xấu trong làng nước, để cười mai sau.
( Gia Huấn Ca, Nguyễn Trãi, câu 114 – 120 )
Học hỏi nơi hành trình trần gian của Chúa Giêsu bắt buộc ta phải đi đến chỗ thâm tín dân tộc và Đạo Việt Nam, trong tất cả nội dung hay và không hay của chúng ta, cũng là do Thiên Chúa tạo thành và dẫn dắt qua dòng lịch sử 4.000 năm. Nơi dân tộc ta và Đạo của ta Chúa Giêsu cũng sẽ phải được tôn vinh. Nói một cách khác, nếu Chúa Giêsu đã giáng sinh làm một người Việt Nam thì chắc chắn rằng Người sẽ đón nhận đất nước và con người Việt Nam như Người đã đón nhận quốc gia và dân tộc Do Thái. Người sẽ luôn là một người tuân giữ nhiệt thành và rao giảng Đạo Việt Nam. Người sẽ rất am tường và trân trọng Đạo Việt Nam. Trên môi miệng Người thay vì nói ra “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...” Người sẽ ngâm nga:
“Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo
Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.”
( Gia huấn ca, Nguyễn Trãi )
Người sẽ kiện toàn Đạo Việt Nam như Người đã kiện toàn Do Thái Giáo. Bởi thế Chúa Giêsu vẫn nói rằng: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...”
Anh em thường nghe nói rằng: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên Trời là Đấng hoàn thiện. ( x. Mt 5,46 – 48 )
Chúa Giêsu vẫn sẽ gây nên nhiều xáo trộn nơi các lề xưa thói cũ của ta. “Tại gia tòng phụ. Xuất giá tòng phu. Phu tử tòng tử. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà. ( Mt 10, 34 – 36 ).
Mâu thuẫn sẽ lên tới tột đỉnh khi Chúa Giêsu nói rằng Người có trước Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, rằng Đức Thánh Trần, Lê Lợi, Quang Trung phải vui mừng khi thấy Ngày của Người. Người là Đấng mà Phật, Lão, Khổng và tất cả tổ tiên Việt Nam phải thờ phượng.
Chắc chắn rằng chúng ta chẳng có tốt lành gì hơn người Do Thái đâu. Sớm muộn gì chúng ta cũng mang Người ra lăng trì vì đó là hậu quả tất yếu khi bóng tối xung đột với ánh sáng. ( Lăng trì còn gọi là tùng xẻo hay xử bá đao, là một trong những hình phạt tàn khốc và dã man. Phạm nhân sẽ vô cùng đau đớn vì không được chết nhanh chóng, có trường hợp xẻo tróc nửa phần thịt trên cơ thể mà phạm nhân vẫn còn giãy dụa gào thét ).
Nhưng chúng ta vẫn phải mang lấy tâm tình của Chúa Giêsu mà sống với dân tộc và đất nước ta. Đó chính là gia sản, là Nhà Cha mà Chúa Cha đã ban cho Người và cho chúng ta. Với con người và đất nước Việt Nam, Chúa Giêsu và chúng ta đều phải cũng mang lòng “Nhiệt tâm đối với Nhà Cha ta bùng cháy nơi tim ta như một ngọn lửa” ( x. Ga 2, 17 ). ( Tôi thích cách dịch này của Vũ Đình Lưu trong Anh Em Nhà Karamazov, tác giả Dostoievski, Nhà xuất bản Nguồn Sáng, 1972 ).
Điều quan trọng nhất chúng ta phải học hỏi từ hành trình của Chúa Giêsu trong Đạo Do Thái là Người muốn chúng ta chấp nhận trọn vẹn thân phận một người Việt Nam với tất cả di sản văn hóa và tinh thần mà cha ông ta để lại. Chúng ta phải Loan Báo Tin Mừng của Chúa Giêsu như một người Việt Nam theo Đạo Việt Nam.
Phần 2. Giáo Hội Việt Nam chưa trân trọng Đạo Việt Nam
Công tâm nhìn nhận, công lao của Nguyễn Công Trứ đối với Công Giáo còn to lớn hơn gấp bội đối với Phật Giáo. Ông chỉ có xây lên một ngôi chùa và viết một số câu thơ vịnh Phật trong khi xây dựng nên hẳn hai vùng dân cư Công Giáo xầm uất có hai Giáo Phận lớn là Phát Diệm và Thái Bình.
Trong khi Công Giáo hoàn toàn thờ ơ với Nguyễn Công Trứ thì Phật Giáo có vô số bài giảng pháp vận dụng đến tư tưởng và sự nghiệp của ông. Với một nhà nho hành đạo ngang tàng như Nguyễn Công Trứ, chỉ nội một việc hồi thú, hồi đầu, hồi hướng “đáo bỉ ngạn” cũng chứng tỏ sức hấp dẫn của tư tưởng Phật Giáo.
http://www.daophatngaynay.com/vn/van...Phat-giao.html
Đây chính hình mẫu con người tài cao, đạt tới độ thấu suốt lẽ đời, đạt tới diệu đạo đại ẩn, dấn thân nhập cuộc với chốn quan trường, thị thành, danh lợi mà vẫn gián cách, vượt lên, đứng trên mọi chốn quan trường, thị thành, danh lợi… Hơn nữa, Nguyễn Công Trứ cũng có phần đồng cảm với cách nhìn của Phật Giáo về thời gian đời người vốn đong đầy bất trắc, mong manh và hữu hạn.
http://www.giacngo.vn/PrintView.aspx...e=vi&ID=5EF453
Nguyễn Công Trứ khẳng định, dù bị hiểu lầm, dù bị đàn áp, nhưng Phật Giáo không bao giờ bị tiêu diệt, giềng mối của Đạo ( đạo thống ) vẫn được mọi người dân ở nhiều quốc độ noi theo và gìn giữ ( công cứ ). Vì thuận thiên lý và hợp nhân tâm, trong quá trình phát triển và hội nhập, từ Tây sang Đông, Phật Giáo đã đi như một dòng sông luôn luôn thích ứng với mọi điều kiện địa lý và thổ nhưỡng để tiếp nhận vào lòng nó tất cả cảnh vật ở hai bên bờ. Đến nước ta, Phật Giáo phát triển và chung sống thân ái hoà đồng với Nho Giáo để đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh của người Việt và đồng thời tạo nên sức mạnh tinh thần cho dân tộc Việt:
Bạng y thiên lý hành tương khứ
Đô tự nhân tâm tố xuất lai.
Đạo dựa theo lẽ trời mà ra
Do từ lòng người mà phát
Tôi nghĩ rằng Nguyễn Công Trứ có thể ví như một vị Tiền Hô của Giáo Hội Việt Nam. Đền thờ cấp quốc gia của ông tọa lạc ở xã Quang Thiện, Ninh Bình, là nơi có mật độ Công Giáo cao nhất nước. Ở Quang Thiện chúng ta có Giáo Xứ Ứng Luật. Gần đó là có Giáo Xứ Hòa Lạc, đều là những Giáo Xứ lâu đời nhất ở Việt Nam, sản sinh ra rất nhiều vị mục tử danh tiếng. Không bao xa còn có Phúc Nhạc là quê của Thánh Nữ duy nhất của Giáo Hội Việt Nam, Anê Lê Thị Thành ( Bà Thánh Đê ).
Trong dịp Tết Nhâm Thìn 2012, cán bộ lớn của Nhà Nước đã về thắp hương đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn, như một lần nữa ghi nhận công ơn đối với người có công mở nước.
Tại sao Giáo Hội Việt Nam lại thờ ơ với Nguyễn Công Trứ. Tại sao mỗi dịp giỗ ông, các vị mục tử và Giáo Dân không thể trở thành những người Việt Nam bình thường đến thắp nhang để tri ân vị khai quốc công thần có công lao vô cùng to lớn với nhân dân và Giáo Hội như vậy ? Chúng ta có khác gì 9 người phong được Chúa Giêsu chữa lành nhưng đã bỏ đi luôn mà không hề biết quay lại để nói lên lời cám ơn Người. Có lẽ vì ông không phải là người Công Giáo chăng ? Giá mà ông đã theo Công Giáo như các danh nhân Nguyễn Trường Tộ hay Trương Vĩnh Ký và có tên Thánh là Đaminh như một số khá đông Giáo Dân Phát Diệm thì hay biết mấy. Nếu thế thì có thể chúng ta đã tiến hành vận động phong Thánh cho ông chăng ?
Gioan Tiền Hô chỉ làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, chứ ngài có bao giờ chịu Phép Rửa của Chúa Giêsu để trở thành một người Công Giáo chính cống đâu. Thế mà ngài vẫn là một vị Đại Thánh của Giáo Hội. Vị Hồng Y duy nhất của Giáo Hội Việt Nam hiện nay có tên Thánh là Gioan Baotixita.
So với cha Trần Lục xây dựng nên Nhà Thờ Đá Phát Diệm thì công lao lập nên cả hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải của Nguyễn Công Trứ phải to lớn hơn và đáng được ta ngưỡng mộ cùng với chí khí và văn tài của ông.
Tại sao chúng ta không thể trở thành một người Việt Nam bình thường theo Đạo Việt Nam để hòa mình với dòng chảy của dân tộc như Chúa Giêsu đã hoàn toàn sống trong Đạo Do Thái với lòng kính trọng các Tổ Phụ cùng Ngôn Sứ ?
Nguyễn Công Trứ chỉ là một thí dụ cho thấy cái chọn lựa tự mình đứng bên lề dân tộc rất kỳ lạ và không thể hiểu nổi của chúng ta.
Chúng ta không đào luyện những người rao giảng Tin Mừng có khả năng hòa mình trong suối nguồn văn hóa dân tộc như thông thạo Hán Nôm, có thể ngâm thơ, hát quan họ, ca cải lương, chơi đàn kìm, nhất là có lối diễn tả theo cách Việt Nam cho người Việt Nam hiểu được. Các giáo sĩ của chúng ta thường hãnh diện vì thông thạo các ngôn ngữ Tây Phương, am tường văn học, Triết Học, Thần Học, âm nhạc, hội họa Tây Phương, nhưng nhiều vị lại giảng thuyết rất cao siêu khó hiểu, chỉ vì nặng về lý luận Tây Phương, y như các luật sư tranh biện ngoài tòa án, nhiều phen người nghe có cảm giác như đang mắng nhiếc họ.
Cho đến bao giờ chúng ta mới biết trân trọng đúng mức Đạo Việt Nam ?
NGUYỄN TRUNG, 12.2012
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks