Lại có các vị Bồ Tát nói rằng:
“Bạch Thế Tôn ! Chúng con đã từng ở nơi các đức Phật nhiều
như số cát của tám con sông Hằng mà nghe được pháp môn
Đà-la-ni này, nghe qua rồi liền đạt được.”
Lại có các vị Bồ Tát nói rằng: “Bạch Thế Tôn ! Chúng
con đã từng ở nơi các đức Phật nhiều như số cát của chín
con sông Hằng mà nghe được pháp môn Đà-la-ni này.
Nghe qua rồi liền đạt được.”
Bấy giờ, Đại Bồ Tát Di-lặc bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn ! Con nhớ trong quá khứ trải qua số kiếp nhiều
như số cát của mười con sông Hằng, có một đại kiếp tên là
Thiện Phổ Biến. Trong kiếp ấy có thế giới Ta-bà vi diệu thanh
tịnh, hết thảy đều trang nghiêm. Bấy giờ có Phật ra đời
hiệu là Sa-la Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri,
Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ,
Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, có
vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha tỳ-kheo tăng, lại có các
vị Đại Bồ Tát nhiều không thể tính đếm, cung kính vây quanh.
“Bấy giờ, đức Phật Sa-la Vương vì đại chúng mà thuyết
dạy pháp môn Đà-la-ni Giải liễu nhất thiết này. Lúc đó
con từ nơi đức Phật ấy mà được nghe pháp này. Nghe rồi
liền tu học. Tu học rồi liền được tăng trưởng đầy đủ mọi
pháp. Trải qua vô số kiếp như vậy, đã có vô số chư Phật
nhiều không thể tính đếm, khi ấy con luôn tùy theo thọ
mạng của chư Phật mà dùng đủ mọi phép tam-muội Sư tử
du hý tự tại của hàng Bồ Tát để cúng dường hết thảy vô
lượng chư Phật.
“Khi ấy, ở nơi mỗi vị Phật như vậy con đều được gieo
trồng vô số căn lành, nhiều đến không thể tính đếm được.
Nhờ gieo trồng căn lành nên có được vô lượng công đức
lớn lao tích tụ. Nhờ căn lành ấy nên chư Phật đều thọ
ký cho con, nhưng do bản nguyện nên con vẫn còn ở lâu
trong vòng sinh tử. Vì còn ở lại nên chưa thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Bạch Thế Tôn ! Nay nguyện đức Như Lai thọ ký quả
Phật cho con, khiến con được thành tựu quả A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Di-lặc:
“Đúng vậy, đúng vậy ! Đúng như lời ông nói. Vào thời đức Phật Sa-la
Vương tại thế, ông đã được pháp môn Đà-la-ni Giải liễu
nhất thiết này. Này Di-lặc! Trong mười đại kiếp quá khứ,
nếu ông muốn nguyện thành tựu quả A-nậu-đa-la Tammiệu
Tam-bồ-đề thì khi ấy hẳn ông đã được nhanh chóng
thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nhập
Niết-bàn Vô dư . Di-lặc! Ông còn ở lâu trong sinh tử là
do có bản nguyện. Sở dĩ không thành quả Phật chỉ là do
muốn lưu lại mà thôi.
“Di-lặc ! Nay ta vì ông mà thọ ký cho sẽ thành tựu quả Phật.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn quán chiếu khắp đại chúng cùng
với các vị Bồ Tát, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
trời, rồng, dạ-xoa, a-tu-la, la-sát, càn-thát-bà, người và
phi nhân. Sau khi quán chiếu rồi liền thuyết ra thần chú này:
“Đới đa phù di, đàn đà phù di, đàm ma đà phù di, già
đế phù di, mật đế phù di, bát nhã phù di, tỳ xá la xà phù
di, bát đế tam tỳ đa phù di, a nậu sai bà phù di, a ba sai
phù di, tam ma đa bác sai ma bác sai phù di, xà đế xoa
duệ phù di, tam xoa xà tỳ thâu xà, ba la, thâu xà tỳ xá già
đạt xá bà đế, tỳ xá đà, đế la na la già già la già, tam xoa
xá bà đa, tỳ ma đế du ba hề la la già ma a trá xoa la, bà
xá tăng già ma y đế châu la bạt đế di, văn đà la, đà ha la
bạt đế, bát nhã phù đa, ha đà già di đa, sa ?sa bàn đa y
la da, ni la da, ha hô tát trá, a mục đà mục a, tha bà đế,
già lâu bà đế, đế hề na đề bà a ca na ma đế, bà ca na ma
đế tam di đế tỳ sa bà địa y đà sa la, y đà bà la, ha la đa
la câu lưu sa, đâu lâu sa lại ma la lưu tha, đa lưu tha, tát
bà tha, tát bà tha già, ni lưu tha, đề ha đa, đa hề phả la,
bà phả la, tát bà phả la, thế trá bà đề.”
Khi đức Phật thuyết thần chú giải thoát mười hai nhân
duyên này, có sáu mươi na-do-tha chư Thiên được thấy
Bốn thánh đế. Bấy giờ, đức Thế Tôn lại thuyết thần chú này:
“Đới phả lam, a già phả lam, la la phả lam, a la phả
lam, ni la hô la, bà bà đa phiếu, y đàm phả lam, ni giám
phả lam, nam mô đà diêm, tỳ phù nga, bát nhã già già, a
nậu tỳ địa già ca, xà ni già ca.”
Khi đức Phật thuyết thần chú giải thoát này, có mười
ức chư thiên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
thảy đều được địa vị không còn thối chuyển.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại thuyết thần chú này:
“Ba thi, tô ma đô, a nậu ma đô, a câu ma đô, si đà bà
câu ma đa tha, đà xá la, tỳ bá bả tha, y ha thế thiết đa, tô
nễ ma, tô đế xí nã đế a lộ câu a đề đấu nã.”
Khi đức Phật thuyết thần chú giải thoát này, có sáu
mươi bốn ngàn vị trong loài rồng phát tâm A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề, thảy đều được địa vị không còn
thối chuyển.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại thuyết thần chú này:
“A xoa tu bạt xoa, tu bà sa mạn đà na, a la trụ bà bà già
la trù, ca la trà xoa, tất đàm ma đế, tam ma đa đa, a xoa
bà lệ, hề trá ca lộ, ma ha bà lệ, ô xà đà lộ, đà la ni, hề già
la xoa, câu đà xoa câu bà xoa, tỳ lộ bố, tỳ lưu ba mục khư,
thế đế hại đa thế đế bà lệ, a tu lộ tỳ na, tu lộ ba ma đề.”
Khi đức Phật thuyết thần chú giải thoát này, có mười
hai ức dạ-xoa phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
thảy đều được địa vị không còn thối chuyển.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại thuyết thần chú này:
“A thê, ty lê ly, ni đế thê, san đế thê, già đế nê, na ca
di, a lam di, sa lam di, a đà di ma đà di, ma đế di, san ni
ha, thủ lệ đà, la ni a phất xá đa tát đà, tát đề bà tát na
già, tát dạ xoa tát a tu la, đề bà na già, ni lục đế lệ bà la
ni lục đế la tỳ, mật đế bát nhã bát lê bạt đa, mạt đế ba lợi
la tỳ, già đế đề đế ba lợi ba la, già đế đề đế la tỳ, phất bà
sí tỳ xà nễ tỳ tát già lợi bạn đa, a tỳ tha na bạn đa, thủ la
bạn đà, chất la tỳ lê da, bạn đà, tỳ đa bạn để, tỳ sa bà nễ,
mạt già văn đà tỳ xá bát lợi kiếm ma, nễ xoa ba la hô, ô
ha la lộ đề la ba đô, a tu la văn đà na già văn đà, dạ xoa
văn đà, la lợi văn đà, tỳ đề, tỳ đề di, đa ty đa đa ty, ô nã
tức miết, bà già đề, đà la ni a tỳ xá đa đề xá thủ đà ni, bà
sí du đề, kỳ bà du đà ni, ba sí ba lợi yết ma đế ma đế già
đế phu đế già na na ba đế, ba la na phật đề xà da già gia
du nhược đà già ca ty dạ.”
Khi đức Phật thuyết thần chú giải thoát này, có năm
mươi sáu ngàn a-tu-la phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề, thảy đều được địa vị không còn thối chuyển.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Đại Bồ Tát Vô Sở Uý Bình
Đẳng Địa rằng:
“Thiện nam tử ! Chư Phật Thế Tôn ra đời
là rất khó. Diễn thuyết pháp môn này lại càng khó hơn.
Pháp môn này chính là do năm phần: giới, định, huệ, giải
thoát, giải thoát tri kiến huân tập mà thành.“Thiện nam tử ! Thần chú này có thể khiến cho Bồ Tát
được thành tựu oai đức.
“Thiện nam tử ! Như Lai xưa kia trong lúc còn tu hành
đạo Bồ Tát, đã dùng các pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định, trí huệ mà thâu nhiếp nên thần chú
này, cúng dường cung kính vô lượng vô biên trăm ngàn
muôn ức chư Phật Thế Tôn, ở nơi các đức Phật mà tu
hành pháp bố thí, hoặc tu tập Phạm hạnh thanh tịnh,
trì giới, hoặc chuyên cần tinh tấn, hoặc tu tập nhẫn nhục,
hoặc nhập tam-muội, hoặc tu tập trí huệ, hết thảy mọi
pháp tu tập đều chỉ thuần là những nghiệp thanh tịnh. Vì
thế nên ngày nay ta mới được trí huệ cao trổi nhất.
“Thiện nam tử ! Trong quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ ức
na-do-tha kiếp, khi ta tu hành đạo Bồ Tát thường luôn
xa lìa những việc nói dối, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói
lời không chân chánh. Vì thế nên ngày nay ta mới được
tướng lưỡi rộng dài này.
“Thiện nam tử ! Do nhân duyên ấy nên lời dạy của chư
Phật Thế Tôn là chân thật, chẳng hề luống dối.”
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks