Lý Chí Thường Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký [trích dịch]
Lời dẫn của người dịch
Khưu Trường Xuân tên thật là Khưu Xứ Cơ, tự là Thông Mật, hiệu là Trường Xuân Tử, quê ở Thê Hà, Đăng Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông được Nguyên Thái tổ tức Thành cát Tư hãn (1162-1227) mời đến triều đình Mông Cổ, cách Trung Quốc vạn dặm về phía Tây.
Nguyên Thái Tổ phái hai mươi chiến sĩ Mông Cổ đi mời, dẫn đường, hộ tống quốc khách. Khưu Chân Nân sang Tây Tạng, đem theo mười trời yêu dân (kính thiên ái dân) làm gốc. Nguyên Thế Tổ lại hỏi về thuật sống lâu (trường sinh cửu thị), Chân Nhân đáp hãy giữ lòng trong sạch ít ham muốn (thanh tâm quả dục) làm căn bản.
Nguyên Thế Tổ rất đẹp dạ, tặng Chân Nhân danh hiệu Thần Tiên, phong tước Đại Tông Sư, giao cho Chân Nhân chủ trì Trường Xuân Cung, cai quản Đạo Giáo cả nước, nhờ thế mà Toàn Chân Giáo cực thịnh.
Toàn Chân Giáo (cũng gọi Toàn Chân Đạo, Toàn Chân Phái) do Vương Trùng Dương sáng lập vào đầu đời Kim (triều nhà Kim bắt đầu năm 1115). Toàn Chân Phái chủ trương Tam Giáo hợp nhất, tính mệnh song tu, hoặc tu tính trước tu mệnh sau. Toàn Chân Phái chiếm lĩnh trọn phương bắc Trung Quốc, còn phương nam là giang sơn của phái Chính Nhất (chuyên về phù lục).
Vương Trùng Dương có bảy đại đệ tử được đời tôn là Bắc Thất Chân Nhân (bảy vị Chân Nhân phương bắc), sau này họ lập thành bảy chi phái của Toàn Chân Giáo:
1. Mã Ngọc lập Ngộ Tiên Phái, chuyên về thanh tĩnh, lý luận thanh đàm và luyện nội đơn.
2. Đàm Xứ Đoan lập Nam Vô Phái, bảo thủ chủ trương của Vương Trùng dương.
3. Lưu Xứ Huyền lập Tùy Sơn Phái.
4. Khưu Xứ Cơ lập Long Môn Phái, có ảnh hưởng nhất so với sáu chi phái kia. [Long Môn cũng là tên núi, thuộc Lưỡng Châu, Khưu Chân Nhân hay ẩn cư ở núi này. Tác phẩm chủ yếu của ông là Đại đan chân chỉ, trình bày chỗ bí yếu của thuật luyện đan (ngồi thiền) là tính mệnh song tu (vừa tu tính vừa tu mệnh).]
5. Vương Xứ Nhất lập Du Sơn Phái.
6. Hách Đại Thông lập Hoa Sơn Phái.
7. Tôn Bất Nhị (trước khi xuất gia là vợ của Mã Ngọc) lập Thanh Tịnh Phái.
Cuộc đời tu hành của Bắc Thất Chân Nhân được tiểu thuyết hóa thành truyện Thất Chơn Nhơn Quả. Sang nửa sau thế kỷ XX, vào những năm sáu mươi, nhà văn Kim Dung (Hong Kong) đưa tất cả bảy nhân vật này vào truyện chưởng với biệt hiệu Toàn Chân Thất Tử.
Phần viết này (về Khưu Trường xuân và Toàn chân giáo) căn cứ theo Hồng Phi Mô 1992: 25-30 Lê Anh Minh dịch
·
Trong số mười tám đệ tử theo Khưu Chân Nhân sang Tây Tạng có Lý Chí Thường.
Lý là người ghi chép lại cuộc vạn lý tây du này. Năm 1219, từ phía bắc của Bắc Kinh, đoàn người đi về Mông Cổ, theo hướng tây nam băng qua Tashkent và Samarkand, rồi theo hướng nam đến Perwan (ngay phía bắc của Kabul), thuộc Afghanistan.
Tashkent sau là thủ phủ của Uzbek (Nga), thuộc miền Trung Á. Nó nằm trên một gò ở gần chân dãy núi Thiên Sơn. Nơi đây cũng là một ốc đảo lớn nằm dọc theo con sông Chirchik, sản xuất nhiều trái cây và bông vải, được coi là một trong những miền sản xuất hàng hóa vải sợi lớn nhất châu Á.
Samarkand sau cũng là thành phố của Uzbek, ở trung nam nước Nga. Nó từng là một trạm chủ yếu trên con đường Tơ lụa thời cổ. Người Ả Rập chiếm nó năm 712, biến nơi đây thành một trung tâm văn hóa rất lớn của Hồi giáo. Thành Cát Tư Hãn chiếm đoạt lại thành phố này năm 1220, và đến năm 1365 nó trở thành kinh đô của vua Mông Cổ là Tamerlane (1336-1405), cũng viết là Tamburlaine, hay Timur. Từ năm 1868 nó thuộc về người Nga.
Kabul là thành phố quan trọng vì nó kiểm soát con đường mậu dịch phía đông bắc dẫn vào Pakistan. Do đó, trong lịch sử ba nghìn năm của nó, thành phố này thường xuyên bị ngoại xâm. Nó từng là kinh đô của đế quốc Mông Cổ (1504-1526), và trở thành thủ phủ của Afghanistan từ năm 1773.
Arthur Waley đã dịch tác phẩm của Lý Chí Thường ra tiếng Anh, nhan đề The travels of an alchemist, 1931.
Waley sinh năm 1889 tại London, là nhà thơ, dịch giả, và nhà Trung Quốc học. Học ở Cambridge, rồi ông lấy hai học vị tiến sĩ văn chương ở hai đại học Aberdeen và Oxford. Ông giữ chức phó quản thủ Phòng Ấn loát và Đồ họa của Viện Bảo tàng Anh và giảng dạy Đông phương học tại một học hiệu trực thuộc Viện Bảo tàng này (1912-1930). Năm 1952, ông được trao tặng một huân chương (the Order of Companion of the British Empire). Năm 1953, được Nữ hoàng Anh ban tặng Huy chương Thi ca (Medal for Poetry).
Ngoài bản dịch tác phẩm của Lý Chí Thường, Waley còn có các công trình nghiên cứu và dịch thuật quan trọng như sau:
- Thơ Trung Quốc (Chinese poems, 5 quyển), 1918.
- Nhập môn nghiên cứu hội họa Trung Quốc (An introduction to the study of Chinese painting), 1923.
- Đạo Đức Kinh (The Way and its power), 1935.
- Luận Ngữ (The analects of Confucius), 1938.
- Ba con đường tư tưởng Trung Quốc cổ đại (Three ways of thought in ancient China), 1939.
- Nguyên thị vật ngữ (The tale of genji, 6 quyển, dịch tiểu thuyết Nhật), 1955
- V.v...
Sau đây là một phần lớn văn bản của Trường Xuân Chân Nhân Tây Du Ký, dựa theo bản tiếng Anh của Arthur Waley. Tuy nhiên, vì không có trọn vẹn bản tiếng Anh của Arthur Waley, tôi đã sử dụng phần trích đăng của Owen và Eleanor Lattimore, in trong hiệp tuyển Silks, spices and empire, nhà xuất bản Dell Publishing Co. Inc., New York 1971, các trang 57-61.
DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
(1993-10.02.1995)
Còn tiếp
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks