Phương Pháp Quán Chữ A Trong Mật Giáo
TT.Thích Viên Thành


Chữ A là thanh âm ban đầu khi con người lọt lòng, là tiếng kêu của sự ngạc nhiên, là sự trào dâng của niềm hoan hỷ, là sự bừng tỉnh sau đêm dài bao phủ. Hơn nữa trong ngôn ngữ của nhân loại chữ A là một nguyên âm đầu tiên trong bảng chữ cái. Cũng vậy trong tiếng Sanscrit chữ A là nguyên âm thứ nhất trong 12 nguyên âm của mẫu tự Siddharta ( Tất Đàn ) và cũng là chữ đầu tiên trong 50 chữ của tiếng Sancrit.

Trong Phật giáo nói chung và đặc biệt trong Mật giáo khi nói đến chơn ngôn Đà Ra Ni thì đặc biệt chú trọng sự giải thích mẫu tự Siddharta. A là chữ đầu tiên trong 50 mẫu tự Siddharta, bởi vì khi ta mở miệng nói thì thành tiếng, trong đó bao hàm có tiếng chữ A, nếu bỏ tiếng A đi thì không có tất cả ngôn ngữ có thể nói. Do vậy, Mật giáo cho chữ A lamẹ của tất cả các âm. Từ đó, ta có thể suy ra nghĩa của các chữ là: Tất cả giáo pháp trong hay ngoài Mật giáo đều được sinh ra từ chữ A.

Đại Nhật Kinh sớ 7 viết: A là gốc của tất cả giáo pháp.

Đại Nhật Kinh 2 và 6 viết: A là chơn ngôn chúa, là tâm của tất cả chơn ngôn.

Phẩm Quảng Thừa trong Đại Phẩm Bát Nhã Kinh 5 giải thích chữ A là: Tất cả các pháp xưa nay vốn không sinh. Theo Mật giáo thì đó là nghĩa căn bản của giáo tướng, sự tướng cho nên nói: Vốn không sinh ( Akara-adyanutpadha ).

Phẩm Trụ Tâm trong Kinh Đại Nhật 1 và Đại Nhật Kinh Sớ 14 thì cho chữ A là " Tâm của Bồ Đề thanh tịnh xưa nay vốn không sinh ). Khi ta biết thật của chữ A thì cũng biết rõ tâm mình một cách như thật. Có thể nói toàn bộ Kinh Đại Nhật đều giải thích rõ nghĩa tướng của chữ A. Nói khác đi, chân ý của Kinh Đại Nhật là chỉ bày cùng tột về tướng của Bồ Đề Tâm.

Ngoài pháp môn Tự Nội Chứng còn cho rằng: " Toàn bộ Kinh Đại Nhật " mà Đức Đại Nhật Như Lai thuyết trong Thai Tạng là nói rộng về lý chữ A vốn không sinh cho nên có thể nói: Lý Pháp Thân của Đức Đại Nhật Như Lai trong Thai Tạng Giới ( Garbhadhatu ) lấy chữ A này làm chủng tử. Đây cũng là ý nghĩa mà Đại Nhật sớ 7 ghi: " Đức Vajrocana chỉ lấy một chữ A này làm chơn ngôn ". Không những thế, Kinh còn cho chữ này là chủng tử của Bồ Đề Tâm. Nghĩa là hành giả chỉ tụng chữ A đều có Bồ Đề Tâm và lấy đó để sở cầu đạt đến Vô Thượng Bồ Đề.

Trong Mandala của Kim Cương Giới ( Vajradhatu ) và Thai Tạng Giới ( Garbhadhatu ), chữ A là chủng tử của Thai Tạng Giới . Trong Tam Thân chữ A là chủng tử của Pháp Thân ( Daharmakaya ). Trong ba bộ ( Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ ), chữ A là chủng tử cả Phật Bộ. Trong thứ tự của năm chuyển biến ( Nhân, Hành, Chứng, Nhập, Phương Tiện ), chữ A là chủng tử của Nhân chuyển biến. Trong sáu đại ( Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức ), chữ A là chủng tử của Địa đại.

Chữ viết, âm đọc, và ý nghĩa của chữa A là một trong những phép quán tưởng đối tượng gọi là phép quán tưởng chữ A. Đây là một trong các phép quán quan trọng nhất của hành giả mới bắt đầu tu tập chơn ngôn.

Như ta đabiết, quán tưởng chữ A-Siddharta còn gọi là : " A Tự Nguyệt Lâm Quán " để chứng ngộ nguyên lý các pháp vốn không sinh và tỏ rõ tâm mình vốn sẵn đủ Bồ Đề Phật tính. Đây là phép quán tưởng rất quan trọng và tiêu biểu cho mỗi hành giả Mật Tông.

Theo giáo lý Mật giáo tất cả vũ trụ nhân sinh đều qui về chữA. Cho chữ A là cội gốc của tất cả các pháp. Nguyên lý này nhằm nêu rõ tự thể của vạn sự vạn vật trong vũ trụ vốn không sinh, mà đã không sinh thì cũng không diệt, không sinh không diệt thì tự thể ấy nhưnhiên. " A Tự Quán " là một phép quán tưởng của Mật giáo khi quán tưởng về nguyên lý này.

Nội dung tu quán của " A Tự Quán " được chia làm 3 phần. Ba phần này đều là pháp nhất tâm cùng lúc quán đầy đủ tất cả. Nhưng khi mới tập thì thường khó tiến thẳng vào chỗ sâu xa, nên chúng ta phải phương tiện chia 3 phần quán khác nhau.

*Phương pháp thứ nhất: là quán về âm thanh ( Thanh Quán ):

Hành giả ngồi và kiết ấn thọ phép quán thông thường, chỉ khác là mỗi lần thở ra vào hành giả quán chữ A rồi gắn chặt tâm ý mình vào tiếng đó ( Như phép Niệm Phật của Tịnh Độ Tông ) không biết mệt mỏi một mực chuyên niệm mà tiến tu thì vọng tưởng lần lần tiêu diệt, trí huệ tự nhiên phát sinh, thấu triệt được nguồn gốc của các pháp. Hay nói cách khác đi, khi hít vào thì quán cái sinh của cái bất sinh, khi thở ra thì quán cái diệt của cái bất diệt. Nên trong cái sinh diệt của hơi thở, hành giả chứng đạt thực tướng của bất sinh bất diệt. Đó là phương pháp quán chữ A bằng âm thanh.

--------------------------------------------------------------------------------

AnhTran26-05-06, 05:39 PM
Sư huynh ơi ! dạo này đệ cũng quán chữ A thấy hay lắm ...

--------------------------------------------------------------------------------

phoquang26-05-06, 06:12 PM
*Phương pháp thứ hai: Là quán chữ A bằng chữ ( Tự quán ):

Phương pháp này lấy chữ A làm Bổn Tôn, tức đối tượng quán chính để kết hợp với mặt trăng và hoa sen. Theo lập trường của Thai Tạng Giới ta vẽ hoa sen rồi trên hoa sen vẽ thêm mặt trăng, trong mặt trăng ta đặt chữ A. Hành giả trì phép quán này bằng cách niệm tưởng rằng: Mặt trăng tức là chữ A, chữ A là tâm nhất niệm của mình, tâm nhất niệm của mình tức là hơi thở ra vào, hơi thở ra vào chính là sinh mạng của mình. Thuật ngữ chuyên môn còn gọi phép quán này là: A-Tự Nguyệt Luân Chủng Tử.

Trái lại, nếu đứng trên lập trường của Kim Cương Giới thì ta vẽ mặt trăng, rồi trong mặt trăng ta vẽ hoa sen và trong hoa sen ta đặt chữ A. Theo đây hành giả chú tâm quán tưởng giữa bụng ta có vành trăng tròn đường kính bằng một khủy tay ( Khoảng 35 cm ), trong vành trăng ấy có 1 hoa sen nở 8 cánh trên hương sen có chữ A vàng. Cứ quán tưởng như vậy mà niệm niệm nối nhau, không gián đoạn thì vọng tưởng ngày càng bị đẩy lui, vô minh dần dần tan biến, tâm Phật bản giác tự nhiên hiển bày. Như thế chữ A có khả năng đại biểu cho tâm. Cho nên quán chữ A này tức lấy tâm trùm lên tâm, tức " Tâm tác tâm ".

*Phương pháp thứ ba: Là quán chữ A bằng thực tướng ( A Tự Thực Tướng Quán ):

Phép quán này hành giả phải quán tưởng thực tướng của các pháp, tức quán sát nguyên lý vốn không sinh của vạn pháp nay tựa như bắt đầu có sinh mà không phải sinh thực, nay tựa như bắt đầu diệt mà không phải diệt thật, tức quán tưởng về thực nghĩa của chữ A, vì như đã nói ở trên chữ A còn có nghĩa vốn không sinh, A tự bản bất sinh. Bản thân chữ A đã mang nhiều nghĩa như đã trình bày, nên nó được dùng làm đối tượng cho việc thấu tỏ chân lý. Do vậy, mới có phép quán thực tướng này. Lộ trình này được diễn tả như sau:

Trước hết, hành giả ngồi 1 mình trong mật thất vắng vẻ u tinh, nhưng phải có ánh sáng điều hòa, vì nếu sáng quá sẽ làm cho hành giả trở nên bồn chồn, trạo cử, nếu tối quá thì lại sinh ra trì trệ hôn trầm. Đầu tiên hành giả đảnh lễ chữ A quỳ xuống, chắp tay chí tâm sám hối, rồi tụng Phổ Cúng Dường Chơn Ngôn, để trên thì phụng cúng Chư Phật Hiền Thánh, dưới thì bố thí cho chúng sanh, sau đó mới làm phép an tọa và kiết hộ. Phép này được thực hiện bằng cách đặt 1 thiền sàng ở cách chữ Bổn Tôn Chữ A là 4 thước, trãi tọa cụ thay bồ đoàn lên rồi ngồi kiết già hoặc bán già, làm phép kiết giới để hộ thân, tránh xa và loại trừ các chướng nạn. Thân ngồi phải ngay ngắn, tay phải để lên tay trái để ngang mép rốn, điều chỉnh thân sao không cho quá cong cũng đừng thẳng quá ( Ngay đơ ). Lưỡi uốn lên nóc họng, buộc chặt tâm mình vào chóp mũi, mắt hơi mở ( Khép mi ). Kế đó điều hòa hơi thở ra vào, từ từ thở ra thì tưởng tượng trắng như tuyết, thơm như sữa, rồi lại hít vào tưởng tượng như chảy khắp cả thân thể. Khi đã điều hòa hơi thở rồi dùng tuệ nhãn mà chiếu rọi chữ A niệm niệm chuyên chú không khởi lên các tạp niệm khác.

Lúc đầu, hành giả chưa thấy gì, nhưng nếu thường xuyên hành trì đều đặn lâu ngày sẽ thấy chữ A có một vòng sáng luôn luôn xuất hiện. Đấy là trạng thái thành tựu ngoại quán hữu tướng, tức sự thành tựu đạt được do quán tưởng chữ ở bên ngoài. Về sau hành giả phải quay trở lại tâm mình, tức nhìn trái tim có 8 cánh của mình mà quán sát chứ lúc này không còn mượn hình vẽ chữ A bên ngoài nữa, đây gọi là nội quán.

Giai đoạn hành trì nội quán này ngoài chữ A còn có hoa sen và mặt trăng ( Như trong quán chữ A bằng chữ ). Khi thực hành thành công, hành giả sẽ thấy một tràng ánh sáng của chữ Asoi suốt thân mình, hiển hiện ở ngoài thân và phổ biến khắp cả thế giới. Đó là thành tựu nội quán vô tướng, tức quán tưởng trong thân mà không cần hình đồ, thường gọi tắt là Vô Tướng Quán. Hành giả nhờ đó hợp nhất với bình đẳng , tự thân chứng được Tam Muội Trừ Nhất Thiết Cái Chướng và Phổ Hiện Sắc Thân, tiến lên Hoan Hỷ Địa ( Sơ Địa trong Thập Địa Bồ Tát ), đạt được sự giác ngộ tự tâm để lợi tha cho vạn loại.

+Biểu tượng hoa sen: Hoa sen tượng trưng cho Bổn Tâm của chúng sanh, là cờ hiệu bí mật của diệu pháp.

+Biểu tượng mặt trăng ( Nguyệt luân ): là biểu tượng 3 đức tính của Bồ Đề Tâm.

+Tự tính thanh tịnh tách rời những tham dục vi tế.

+Tính chất thanh lương làm lắng dịu cái nóng của sân hận.

+Và tính quang minh chiếu rọi hết ám tối của màn đêm vô minh.

Nên trong Thiền Tông Bản Hạnh của Ngài Chân Nguyên viết: " Nguyệt luân biến hóa quang huy, Thiên giang hữu thủy cùng thì bóng in ".


+Hộ Thân Chơn Ngôn:

OM SRAM ( ÁN XỈ LÂM ) ( 21 lần ).

OM! Vajra aggai pra nambidhaya syaha.

+A Ngũ tự chuyển ( Nhân, Hành, Chứng, Nhập, Phương tiện ).

I/ A=A: Tâm Bồ Đề ( Phát tâm ).

II/A=À: Sự tu hành ( Hành Ba La Mật ).

III/A=AM: Sự thành tựu Bồ Đề ( Viên mãn ).

IV/A=AH: Niết Bàn tịch tĩnh ( Quả vị ).

V/A=ÀH: Phương tiện cứu cánh ( Tùy duyên hóa độ ).