Vậy làm thế nào mới có thể khiến bạn tâm bình vậy? Trì giới.

Tâm bình thì không nhọc công trì giới, trì giới thì phải đạt đến tâm bình, bạn thử xem đạo vị đó. Cho nên quí vị dứt khoát không nên hiểu lầm, cho rằng “Tâm bình đâu cần trì giới” là không cần trì giới nữa, đó đâu phải là ý của tổ sư. Nếu tổ sư nghe quí vị giải thích như vậy, thì đau khổ đến rơi lệ. Đây chính là bảo với bạn, mục đích của trì giới là để đạt đến tâm bình. Bình, tâm bạn liền an. An, tâm liền hòa, hòa tâm liền lạc. Hòa lạc bạn mới thật sự đạt được từ trong trì giới. Cho nên tu, trừ thập ác, trừ bát tà đều là trì giới. Chúng ta ngày nay học Đệ Tử Quy là trì giới, học Thập Thiện Nghiệp Đạo là trì giới. Hiệu quả của nó chắc chắn là bình, an, hòa, lạc, đời sống hạnh phúc mỹ mãn. Nếu như bạn lơ là giới luật, không bắt đầu nhập môn từ giới luật, thì bình an hòa lạc đối với bạn mà nói chỉ là hữu danh vô thực, bạn ở trong đời này cũng không đạt được. Quí vị thử nghĩ có phải đúng như vậy hay không? Nếu quí vị muốn trong đời này bình an hòa lạc, dù thế giới loạn động như thế nào, tai nạn nhiều cỡ nào, đời ta vẫn bình an hòa lạc. Tại sao vậy? Cảnh tùy tâm chuyển. Trong kinh Lăng Nghiêm đặc biệt nói rất hay: “Nếu chuyển được cảnh thì đồng Như Lai”. Đồng Như Lai chúng ta đã hiểu rồi, đồng Như Lai chính là người đồng giác ngộ. Như Lai chính là tự tánh giác, tự tánh giác liền gọi họ là Như Lai. “Như Lai giả, chư pháp như nghĩa”. Ở trong tất cả pháp luôn an hòa lạc lợi. Bạn thấy bình đẳng quan trọng cỡ nào!

Bình đẳng, đến khi nào bạn mới thật sự đạt được vậy? Khi bát tà trừ hết rồi, thì tâm Bồ-đề hiện tiền, chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi hiện tiền. Trừ thập ác, phía trước tôi nói là bạn đã vào trong sân của người ta, chứ chưa bước vào trong nhà. Trừ bát tà, bạn đạt được bình an hòa lạc rồi, thì người ta sẽ hoan nghênh bạn đến, dần dần đi vào trong. “Hạnh thẳng đâu cần tu thiền”. Hạnh là hành vi của chúng ta. “Ngô tắc cầu ngô hạnh chi như hà năng trực”. Trực, trong đó không có tướng uẩn khúc. Trực là chánh trực, không hề có mảy may hư ngụy. Thiền là gì vậy? Thiền là định tuệ. Tu thiền chính là tu tuệ. Tuệ có từ đâu vậy? Tuệ có từ định. Cho nên do giới được định, do định khai tuệ, đây là tu hành. Từ xưa đến nay, Phật Phật truyền nhau, đây không phải do Phật Thích Ca Mâu Ni phát minh, không phải do Phật Thích Ca Mâu Ni sáng tạo ra, mà vô lượng kiếp đến nay Phật Phật truyền nhau. Ba cương lĩnh lớn tu hành này là tam học giới định tuệ. Phần trước bảo bạn bình là tu giới, tiếp theo đó bèn nói định tuệ với bạn, định tuệ hiện tiền.

Trực tâm là đạo tràng. Tâm bạn chánh trực, một mảy may tướng uẩn khúc cũng không có, một tí hư ngụy cũng không có. Cho nên trực ở chỗ này là tâm chân thành ở trong tâm Bồ-đề. Thiền có nghĩa là gì vậy? Lục tổ khai ngộ từ kinh Kim Cang, chính ngài giảng về chữ thiền này là lấy kinh Kim Cang làm y cứ. Trong kinh Kim Cang, Thế Tôn bảo với tôn giả Tu Bồ-đề: “Ngoài không dính tướng gọi là thiền, trong không động tâm gọi là định”. Dùng cách nói hiện nay mà nói là dứt khoát không bị cảnh giới bên ngoài ảnh hưởng, không bị cảnh giới bên ngoài làm mê hoặc, đây là thiền; Ở bên trong luôn luôn giữ tâm thái như như bất động, đây là định. Thiền là Phạn ngữ, định là chữ Trung Quốc, ý nghĩa rất gần nhau, cho nên phiên dịch danh từ này là hợp nhất hai ngôn ngữ Phạn và Hoa. Cái danh từ “thiền” là tiếng Ấn Độ, “định” là tiếng Trung Quốc, danh từ này là Phạn văn và Trung văn hợp chung lại, chính là “Bất thủ ư tướng, như như bất động” mà trong kinh Kim Cang đã nói.