Nhân đề tài "cậu ấm cô chiêu", đệ muốn hỏi thêm bản nghĩa của chữ "ấm" và "chiêu" là gì. Chữ ấm có đồng nghĩa với ngũ ấm trong đạo Phật không? Chữ ấm trong ấm lạnh là từ Việt hay Hán? Chữ ấm trong cái ấm có phải từ nghĩa ấm lạnh mà ra không? Chữ chiêu trong "chiêu một ấm trà" từ đâu ra? Chữ "tích" trong "ấm tích" là xuất xứ từ đâu? Có phải như tích chứa, như phép nhân (tích, quỹ tích).

Thưa bạn Ma Dieu, "thiện tai" có nghĩa là lành thay. Thiện = Lành, Tai là chữ cảm thán. Như ta thường nghe "Ô hô ai tai" có nghã là "Ôi, buồn thay".

Đệ thắc mắc vì sao chư kinh nhật tụng toàn dùng tiếng Hán Việt, đọc thì oai thật đấy nhưng chẳng hiểu rõ, trong khi người ta hoàn toàn có thể Việt hoá, có lẽ ngại thay đổi truyền thống chăng. Hôm trước có nghe 1 đoạn tụng kinh bát nhã Việt hoá thì lại thấy hơi buồn cười vì người ta dịch "bát nhã tâm kinh" là "kinh trái tim tuệ giác vô thượng". Quán tự tại = người tỉnh giác bình yên, Xá lợi tử = người con dòng Sari. Sắc = hình thể, thọ = cảm xúc, tưởng = niệm lự, thức = tư duy. Dịch kiểu word by word, lúc ghép lại rất là buồn cười.